Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Phan Bá Vành”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n →‎Tiểu sử: clean up, replaced: → (4) using AWB
Dòng 5: Dòng 5:
Phan Bá Vành quê ở làng Minh Giám, nay là làng Nguyệt Lâm, xã Vũ Bình, huyện [[Kiến Xương]], [[thái Bình|tỉnh Thái Bình]]. Thuở nhỏ nhà nghèo, cha chết sớm, ông phải đi mò cua bắt cá, lớn lên đi làm thuê, cày mướn cho các nhà giàu trong vùng. Ông có một sức khỏe phi thường, lại có tài ném lao.
Phan Bá Vành quê ở làng Minh Giám, nay là làng Nguyệt Lâm, xã Vũ Bình, huyện [[Kiến Xương]], [[thái Bình|tỉnh Thái Bình]]. Thuở nhỏ nhà nghèo, cha chết sớm, ông phải đi mò cua bắt cá, lớn lên đi làm thuê, cày mướn cho các nhà giàu trong vùng. Ông có một sức khỏe phi thường, lại có tài ném lao.


Tục gọi Phan Bá Vành là '''Ba Vành''' vì ông để lại ba đường chỉ ngang (''ba vành''). Cái tên này có trong truyện '''''Ba Vành''''' do Nguyễn Tùng Chi viết và biên soạn. Phan Bá Vành còn có những cái lông chân có thể nhảy được với độ cao cao vô kể (''vô kể'': không kể xiết).
Tục gọi Phan Bá Vành là '''Ba Vành''' vì ông để lại ba đường chỉ ngang (''ba vành ngang).''


Vào tháng 2 năm [[Bính Tuất]], Phan Bá Vành nổi dậy tại vùng châu thổ [[sông Hồng]] thuộc các tỉnh [[Hải Dương]], [[Thái Bình]], [[Hải Phòng]] và [[Nam Định|Nam Ðịnh]] ngày nay. Ông cùng với một số bạn có chí hướng tập hợp dân nghèo nổi dậy. Trong số đó có người Nhân Dục tên Hạnh, kết ước phù [[Lê Duy Lương]] tại [[Đồ Sơn|Ðồ Sơn]], tự xưng có rồng vàng, y phục, cờ đều dùng màu đen.
Vào tháng 2 năm [[Bính Tuất]], Phan Bá Vành nổi dậy tại vùng châu thổ [[sông Hồng]] thuộc các tỉnh [[Hải Dương]], [[Thái Bình]], [[Hải Phòng]] và [[Nam Định|Nam Ðịnh]] ngày nay. Ông cùng với một số bạn có chí hướng tập hợp dân nghèo nổi dậy. Trong số đó có người Nhân Dục tên Hạnh, kết ước phù [[Lê Duy Lương]] tại [[Đồ Sơn|Ðồ Sơn]], tự xưng có rồng vàng, y phục, cờ đều dùng màu đen.

Phiên bản lúc 13:23, ngày 15 tháng 3 năm 2016

Phan Bá Vành (潘伯鑅, ? – 1827) là một lãnh tụ cuộc khởi nghĩa nông dânSơn Nam Hạ thời vua Minh Mạng, nhà Nguyễn.

Tiểu sử

Phan Bá Vành quê ở làng Minh Giám, nay là làng Nguyệt Lâm, xã Vũ Bình, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Thuở nhỏ nhà nghèo, cha chết sớm, ông phải đi mò cua bắt cá, lớn lên đi làm thuê, cày mướn cho các nhà giàu trong vùng. Ông có một sức khỏe phi thường, lại có tài ném lao.

Tục gọi Phan Bá Vành là Ba Vành vì ông để lại ba đường chỉ ngang (ba vành ngang).

Vào tháng 2 năm Bính Tuất, Phan Bá Vành nổi dậy tại vùng châu thổ sông Hồng thuộc các tỉnh Hải Dương, Thái Bình, Hải PhòngNam Ðịnh ngày nay. Ông cùng với một số bạn có chí hướng tập hợp dân nghèo nổi dậy. Trong số đó có người Nhân Dục tên Hạnh, kết ước phù Lê Duy Lương tại Ðồ Sơn, tự xưng có rồng vàng, y phục, cờ đều dùng màu đen.

Phan Bá Vành xây lũy đất vào đường thủy Nam Ðịnh, liên kết với tướng nhà Tây Sơn Nguyễn Hạnh, Chiêu Liễn. Quân nổi dậy đánh chiếm hai đồn Trà Lý và Lân Hải, giết chết cả hai thú ngự sứ Ðặng Ðình Liễn và Nguyễn Trung Diễn, rồi tiến đánh các phủ huyện. Ðoàn binh thuyền của triều đình chở lương thảo, quân khí gồm 12 chiếc đã bị Phan Bá Vành phục kích ở Cồn Tiên, Bác Trạch (thuộc huyện Trực Ninh, Nam Định) đánh úp, cướp hết.

Quân Phan Bá Vành tung hoành suốt năm, khiến quan quân các trấn thuộc Bắc Thành phải chống trả vất vả, vào cuối năm lại giành một chiến thắng lớn tại cửa sông Văn Úc thuộc thành phố Hải Phòng ngày nay, chém viên thần sách thập cơ Hùng Cự, bắt đốc phủ Tiên Hưng nhưng không giết, làm nhục cạo trọc tóc, thả cho về.

Khởi nghĩa cho xây dựng căn cứ chính tại Trà Lũ (nay là 3 xã Xuân Trung, Xuân Bắc, Xuân Phương thuộc huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định), cũng là quê hương có nhà thờ Phan tộc, thờ tổ 8 đời của ông (xã Xuân Phương). Tại đây lợi dụng thế đất đồng bằng, sông khe dày đặc, lại có nhiều dãy gò cao như Cựu Cốt, Thái Bằng, gò Rô, gò Màn... ông cho xây dựng đồn lũy để cố thủ.

Nghĩa quân có nhiều tài cao giỏi võ như Hai Đáng, Trần Bá Hựu, Vũ Thị Minh, Ba Hầm (một tù trưởng dẫn hơn 1000 người Mường tham gia), Phạm Ba, Phan Chánh, Trần Diễn đều được Phan Bá Vành xếp vào hàng Thập bát hải quân.

Hai Đáng được Phan Bá Vành giao chức trưởng tả quân, người có tài thao lược, từng giao chiến với Thống chế Trương Phúc Đặng, ông giỏi võ, có tài quân lương nên được gọi là Bắt lương, Chống lương, ông còn ngoại giao giỏi giúp Phan Bá Vành quy tụ lòng người.[1]

"Cháu xa họ Phan có tên là Khánh đầu làm đội trưởng, mãn hạn dở về. Cuộc biến cố năm Đinh Hợi, bị Ba Vành hiệp trùng. Khi ra trận quan quân đem voi chiến đàn áp, quân giặc Vành đều chạy bạt, chỉ một mình Khánh cầm 2 cây gươm xông vào đánh voi, voi cuốn vòi chạy lui, biến thua thành được" trang 65 [2]

Qua gần một năm, quan quân tại Bắc Thành không dẹp được, vua Minh Mạng bèn sai Binh tào thị lang Nguyễn Công Trứ làm tham mưu, mang đạo quân Long phi hổ dực từ kinh đô Huế ra Bắc. Quân triều đình vây lũy, rồi Nguyễn Công Trứ dùng mưu kết hợp với quân Bắc thành, thống tướng Nguyễn Văn Lý, thượng thư Hoàng Kim Sáng, thủy đô đốc Phạm Bá Hùng đánh tan đại quân của Phan Bá Vành ở căn cứ làng Trà Lũ.

Phan Bá Vành nhân đêm tối cho đào sông định chạy ra biển. "Thế giặc tiến thoái đều khốn quẫn, muốn lo tính đi ra biển cả thì không có đường. Mới tìm chỗ đất bằng hơn 100 trượng đem đào sông, thông từ Cát Xuyên thông ra sông Ngô Đồng (tục gọi là Cống Vành), nước cạn thuyền mắc lẫy không đi được." trang 84 [2] Quân triều đình đón bắt được Phan Bá Vành và hơn 760 thủ hạ. Gia phả họ Trần Trà Lũ còn ghi "Dân ta mắc phải tai oan, gọi là đất gặc đốt tàn sạch không"

Năm 1827, cuộc nổi dậy thất bại, Phan Bá Vành tự sát trong khi bị giải về kinh.

Ca dao

Trời mà không phụ ông Vành
Quan quân nhà Nguyễn tan tành ra tro.
Trên trời có ông sao tua
Ở dưới hạ giới có vua Ba Vành.
Trên trời có ông sao tua,
Ở làng Trà Lũ có vua Bá Vành.
Trên trời có ông sao tua,
Ở làng Minh Giám có vua Bá Vành.

Xem thêm

Tham khảo

  1. ^ Lịch sử Đảng bộ và nhân dân xã Xuân Phương (1930 - 2005)
  2. ^ a b Trà Lũ Xã Chí, Cử nhân Lê Nhưng viết năm Ất Mão, niên hiệu Duy Tân thứ 9. Trần Lê Hựu dịch (Khoa lịch sử trường Đại học Sư Phạm Hà Nội 1, 1971) ký hiệu thư viện VD-TL/1054
  • Phong trào nông dân khởi nghĩa, mục Phan Bá Vành từ trang 210 – 229
  • Lịch sử chế độ phong kiến, Tập 3, tr. 505 – 506