Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Sách Đệ Nhị Luật”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
WikitanvirBot (thảo luận | đóng góp)
n r2.7.1) (robot Thêm: lad:Dvarim
WikitanvirBot (thảo luận | đóng góp)
n r2.7.1) (robot Thay: sr:Поновљени закони
Dòng 62: Dòng 62:
[[sk:Deuteronómium]]
[[sk:Deuteronómium]]
[[szl:Kśynga Powtůrzůnygo Prawa]]
[[szl:Kśynga Powtůrzůnygo Prawa]]
[[sr:Поновљени закони]]
[[sr:Пета књига Мојсијева]]
[[sh:Ponovljeni zakon]]
[[sh:Ponovljeni zakon]]
[[fi:Viides Mooseksen kirja]]
[[fi:Viides Mooseksen kirja]]

Phiên bản lúc 12:40, ngày 28 tháng 3 năm 2011

Ngũ thư Kinh Thánh
(một phần của Cựu Ước)
1. Sáng thế
2. Xuất hành
3. Lêvi
4. Dân số
5. Đệ nhị luật

Đệ nhị luật là cuốn sách thứ năm của Kinh thánh Do TháiCựu Ước. Đệ nhị luật tiếp tục ghi chép lại hành trình bốn mươi năm của dân tộc Israel trong sa mạc, nhưng được cách ngôn bởi Moses. Trung tâm của nó là hệ thống lề luật mà Moses tha thiết căn dặn Israel phải ghi nhớ và thực thi vì chính đây là những điều Thiên Chúa đã truyền dạy cho họ thông qua ông. Tất cả gồm ba bài đại thuyết giảng. Phần lớn giới nghiên cứu cho rằng, Đệ nhị luật có thể được biên soạn vào cuối thế kỷ 7 sau Công Nguyên, trong quá trình triển khai thực hiện cải cách tôn giáo theo vua Josiah (Giô-si-a), cho đến khi Judah (Giuđa) bị sụp đổ trước người Babylon năm 586 SCN.

Tên gọi "Đệ nhị luật" trong tiếng Việt của Công giáo Rôma bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp: Deuteronomion (Latinh: Deuteronomium), nghĩa là "pháp luật thứ hai". Tuy nhiên, Tin Lành lại gọi quyển sách này là "Phục truyền luật lệ ký".