Ủy ban Kế hoạch Nhà nước Liên Xô

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Ủy ban Kế hoạch Nhà nước Liên Xô
(Gosplan)
Gosudarstvenniy Komitet po Planirovaniyu SSSR
Государственный комитет по планированию СССР
Tổng quan Ủy ban Nhà nước
Thành lập22 tháng 2 năm 1921 (1921-02-22)
Ủy ban Nhà nước tiền thân
  • Ủy ban Kế hoạch Nhà nước Nga Xô viết
Giải thể1/4/1991
Quyền hạnChính phủ Liên Xô
Trụ sởTòa nhà Duma Quốc gia, Moskva, Nga Xô viết
55°45′27″B 37°36′55″Đ / 55,7575°B 37,61528°Đ / 55.75750; 37.61528
Trực thuộcHội đồng Bộ trưởng
Ủy ban Nhà nước trực thuộc
  • Tổng cục thống kê trung ương

Ủy ban Kế hoạch Nhà nước Liên Xô, còn được gọi là Gosplan (Госпла́н, phát âm [ɡɐsˈpɫan]),[1] là cơ quan chịu trách nhiệm về việc lập kế hoạch kinh tế trung ương trong Liên Xô. Được thành lập năm 1921 và tồn tại đến khi Liên Xô tan rã năm 1991, Gosplan có nhiệm vụ chính là tạo ra và điều hành một loạt các kế hoạch năm năm quản lý kinh tế Liên Xô.

Lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]

Bối cảnh kinh tế[sửa | sửa mã nguồn]

Sau Cách mạng tháng MườiNội chiến Nga diễn ra là thời kỳ nền kinh tế thực sự sụp đổ. Sản xuất và phân phối các mặt hàng thiết yếu được kiểm tra nghiêm ngặt khi các nhà máy bị đóng cửa và các thành phố lớn như Petrograd bị giảm số dân, người dân thành thị trở về nông thôn để xác nhận nhiệm vụ tái phân phối đất đai và để tránh thất nghiệp, thiếu lương thực, và thiếu nhiên liệu đã trở thành đặc hữu. Năm 1919 siêu lạm phát xuất hiện, khiến cho hệ thống kinh tế đang gặp khó khăn của nước Nga Xô viết theo hướng sụp đổ hoàn toàn..

Một hệ thống đặc ứng trong lịch sử Quân sự Cộng sản xuất hiện. Chính quyền Xô viết Hội đồng Công Nông Quốc phòng đã vội vàng tháo dỡ nút thắt kinh tế bằng cách duy trì nên công nghiệp Nga thay mặt cho Hồng quân, trong cuộc chiến đấu sinh tồn với phong trào phản Bolshevik Bạch vệ, được Anh, Pháp, Nhật Bản, Hoa Kỳ, và một số quốc gia khác hỗ trợ can thiệp quân sự. Ỏ nông thôn phân bổ thực phẩm, dưới sự bảo trợ danh nghĩa Bộ Dân ủy Nông nghiệp.

Giữa sự hỗn loạn như vậy ý tưởng đơn thuần về kế hoạch kinh tế dài hạn vẫn là một giấc mơ không tưởng trong những năm đầu tồn tại của nước Nga Xô viết. Mãi đến khi Nội chiến gần thành công bởi Bolshevik năm 1920, người ta mới chú ý nghiêm túc đến vấn đề kế hoạch có hệ thống cho nền kinh tế Liên Xô. Vào tháng 3 năm 1920, Hội đồng Quốc phòng Công Nông Quốc phòng đã được đặt một tên mới Hội đồng Lao động và Quốc phòng với nhiệm vụ lập kế hoạch rộng lớn hơn.[2]

Hội đồng Lao động và Quốc phòng được thành lập với vị trí là ủy ban của Hội đồng Dân ủy Nga Xô (Sovnarkom), do các Ủy viên Nhân dân đứng đầu, đại diện công đoàn Nga, và là lãnh đạo Cơ quan Thống kê Trung ương.[3] Hội đồng Lao động và Quốc phòng được chỉ đạo thiết lập một kế hoạch kinh tế duy nhất cho nước Nga Xô viết và chỉ đạo công việc của các ủy viên nhân dân đối với việc thực hiện kế hoạch này, do đó "lần đầu tiên ở Nga Xô có một cơ quan hoạch định chung với các chức năng được xác định rõ ràng," nhà lịch sử E. H. Carr đã theo dõi.[3]

Ủy ban Kế hoạch Nhà nước, được gọi là "Gosplan," được thành lập như một tiểu ban tư vấn thường trực của Hội đồng Lao động và Quốc phòng, được giao nhiệm vụ tiến hành điều tra chi tiết kinh tế và đưa ra các khuyến nghị của chuyên gia cho việc ra quyết định của Hội đồng.[4]

Thành lập[sửa | sửa mã nguồn]

Ngày 22/2/1921, Gosplan được chính thức thành lập bởi một sắc lệnh Sovnarkom[5]. Trớ trêu thay, cùng ngày bài viết của Lenin được công bố trên Pravda chỉ trích những người ủng hộ "kinh tế kế hoạch tách biệt" của họ là "ấu trĩ" và lập luận rằng kế hoạch GOELRO (kế hoạch điện khí hóa toàn Nga) "là công việc quan trọng trong vấn đế kinh tế kế hoạch tách biệt."[5] Tuy nhiên, các thành viên khác của Sovnarkom lạc quan hơn, và Lenin đã phải chịu thất bại khi thành lập một thực thể kế hoạch khác, Gosplan.[5] Là một biện pháp thỏa hiệp thống nhất nhiệm vụ của hai thực thể lập kế hoạch, lãnh đạo GOELRO Gleb Krzhizhanovsky được chọn làm lãnh đạo Gosplan.[5]

Ban đầu, Gosplan có chức năng tư vấn,[4] với 34 nhân viên tại thời điểm thành lập năm 1921.[6] Được lựa chọn làm cơ quan nền tảng chuyên môn trong công nghiệp; chỉ có 7 đảng viên Đảng Cộng sản Nga (bolsheviks).[6] Với việc chuyển sang hệ thống sản xuất dựa trên thị trường như là một phần của Chính sách kinh tế mới (NEP), những hạn chế đã tồn tại ở mức độ vừa trong các kế hoạch trung tâm trong giai đoạn đầu của Gosplan.

Gosplan nhanh chóng trở thành cơ quan ủng hộ kế hoạch trung ương và mở rộng vào ngành công nghiệp nặng, với Leon Trotsky một trong những lãnh đạo của ủy ban.[7] Vào tháng 6 năm 1922, một sắc lệnh mới tiếp tục mở rộng quyền hạn của Gosplan, với cơ quan được chỉ đạo soạn thảo cả hai kế hoạch sản xuất "vĩ mô" và "vi mô".[7] Gosplan đã tư vấn các nghị định kinh tế và tài chính được đề xuất đệ trình lên Hội đồng Dân ủy bởi các Bộ Dân ủy kinh tế khác nhau.[7] Một cuộc tranh chấp quản lý xảy ra giữa Gosplan và Bộ Dân ủy Tài chính (Narkomfin), cơ quan ủng hộ ổn định tiền tệ và mở rộng nền kinh tế nói chung thông qua thị trường.[7]

Gosplan không có quyền lực trong thời gian này, thường làm việc thông qua nghị định của Hội đồng Dân ủy, Hội đồng Lao động và Quốc phòng, hoặc Bộ Dân ủy.[8] Các tính toán kinh tế và đề xuất chính sách của cơ quan chủ yếu vẫn trừu tượng trong suốt nửa đầu thập niên 1920, các chính sách thực tế của Gosplan chưa được thực hiện.[8]

Sự nổi lên[sửa | sửa mã nguồn]

Căng thẳng tiếp tục giữa Narkomfin và Gosplan trong suốt thời kỳ NEP, với việc Narkomfin ủng hộ việc tăng xuất khẩu ngũ cốc như một biện pháp thúc đẩy ngoại tệ bằng cách cân bằng nhập khẩu và xuất khẩu, trong khi đồng thời thúc đẩy sự thịnh vượng của nông dân, trong khi đó, Gosplan nổi lên là người ủng hộ lương thực giá rẻ và kế hoạch phát triển công nghiệp.[9]

Trong năm 1925, Gosplan bắt đầu tạo ra các kế hoạch kinh tế hàng năm, được gọi là "điều hành số" (контрольные цифры)

Công việc của ủy ban phối hợp với Tổng cục Thống kê Trung ương Liên Xô, Bộ Dân ủy Tài chính, và Hội đồng Kinh tế Quốc dân Tối cao (Vesenkha), và sau là Ngân hàng Nhà nước (Gosbank) Ủy ban Ngân sách Nhà nước (Gossnab).

Kế hoạch 5 năm[sửa | sửa mã nguồn]

Với việc giới thiệu các kế hoạch năm năm vào năm 1928, Gosplan trở thành người chịu trách nhiệm cho việc tạo và giám sát các mục tiêu được tuyên bố bởi Đảng Cộng sản toàn liên bang (bolshevik)

Trong năm 1930, Tổng cục Thống kê đã được sáp nhập vào Gosplan, và vào ngày 3 tháng 2 năm 1931, thuộc Sovnarkom.

Trong tháng 5 năm 1955, Gosplan được chia thành hai ủy ban: Ủy ban Kế hoạch Nhà nước về Kế hoạch Dài hạn Kinh tế Quốc dân Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô và Ủy ban Kế hoạch Nhà nước về Kế hoạch Ngắn hạn Kinh tế Quốc dân Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô. Tương ứng nhiệm vụ lập kế hoạch vĩ mô và vi mô. Công việc sau này dựa trên các kế hoạch năm năm được cung cấp bởi Gosplan, với kế hoạch của Gosplan trước 10-15 năm.

Gosplan có trụ sở tại tòa nhà hiện là Duma Quốc gia ở Moskva.

Tên gọi[sửa | sửa mã nguồn]

Thời kỳ Tên gọi Ghi chú
19211923 Ủy ban Kế hoạch Tổng hợp Nhà nước thuộc Hội đồng Lao động và Quốc phòng Nga Xô
19231931 Ủy ban Kế hoạch Nhà nước thuộc Hội đồng Lao động và Quốc phòng Liên Xô
19311946 Ủy ban Kế hoạch Nhà nước thuộc Hội đồng Dân ủy Liên Xô
1946 Ủy ban Kế hoạch Nhà nước thuộc Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô
19461948 Ủy ban Kế hoạch Nhà nước Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô
19481955 Ủy ban Kế hoạch Nhà nước Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô
19551957 Ủy ban Kế hoạch Nhà nước về Kế hoạch Dài hạn Kinh tế Quốc dân
19571963 Ủy ban Kế hoạch Nhà nước Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô
19631965 Ủy ban Kế hoạch Nhà nước Liên Xô Hội đồng Kinh tế Quốc dân Tối cao Liên Xô
19651991 Ủy ban Kế hoạch Nhà nước Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô
5—12/1991 Bộ Kinh tế và Dự báo Liên Xô

Lãnh đạo[sửa | sửa mã nguồn]

Trụ sở Gosplan, nay là Duma Quốc gia
Lãnh đạo Nhiệm kỳ Thủ tướng
Bổ nhiệm Bãi nhiệm
Ủy ban Kế hoạch Nhà nước
Gleb Krzhizhanovsky (lần thứ nhất) 13/8/1921 11/12/1923 Vladimir Lenin
Alexander Tsuryupa 11/12/1923 18/11/1925 Vladimir Lenin, Alexey Rykov
Gleb Krzhizhanovsky (lần thứ hai) 18/12/1925 10/12/1930 Alexey Rykov
Valerian Kuibyshev 10/12/1930 25/4/1934 Vyacheslav Molotov
Valery Mezhlauk (lần thứ nhất) 25/4/1934 25/2/1937 Vyacheslav Molotov
Gennady Smirnov 25/2/1937 17/10/1937 Vyacheslav Molotov
Valery Mezhlauk (lần thứ hai) 17/10/1937 1/12/1937 Vyacheslav Molotov
Nikolai Voznesensky (lần thứ nhất) 19/1/1938 10/3/1941 Vyacheslav Molotov
Maksim Saburov (lần thứ nhất) 10/3/1941 8/12/1942 Joseph Stalin
Nikolai Voznesensky (lần thứ hai) 8/12/1942 9/1/1948 Joseph Stalin
Ủy ban Kế hoạch Nhà nước
Nikolai Voznesensky 9/1/1948 5/3/1949 Joseph Stalin
Maksim Saburov (lần thứ hai) 5/3/1949 5/3/1953 Joseph Stalin
Grigory Kosyachenko 5/3/1953 29/6/1953 Georgy Malenkov
Maksim Saburov (lần thứ ba) 29/6/1953 25/5/1955 Georgy Malenkov
Ủy ban Kinh tế Nhà nước về Kế hoạch Cải tiến
Nikolai Baibakov (1st term) 25/5/1955 3/5/1957 Nikolai Bulganin
Joseph Kuzmin 3/5/1957 10/5/1957 Nikolai Bulganin
Ủy ban Kinh tế Nhà nước về Kế hoạch Phổ biến
Maksim Saburov 25/5/1955 25/12/1956 Nikolai Bulganin
Mikhail Pervukhin 25/12/1956 10/5/1957 Nikolai Bulganin
Ủy ban Kế hoạch Nhà nước
Joseph Kuzmin 10/5/1957 20/3/1959 Nikolai Bulganin, Nikita Khrushchev
Alexei Kosygin 20/3/1959 4/5/1960 Nikita Khrushchev
Vladimir Novikov 4/5/1960 17/7/1962 Nikita Khrushchev
Veniamin Dymshits 17/7/1962 24/11/1962 Nikita Khrushchev
Pyotr Lomako 24/11/1962 2/10/1965 Nikita Khrushchev, Alexei Kosygin
Nikolai Baibakov (lần thứ hai) 2/10/1965 14/10/1985 Alexei Kosygin, Nikolai Tikhonov, Nikolai Ryzhkov
Nikolai Talyzin 14/10/1985 5/2/1988 Nikolai Ryzhkov
Yuri Maslyukov 5/2/1988 1/4/1991 Nikolai Ryzhkov, Valentin Pavlov

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Từ "Gosplan" là từ viết tắt của Gosudarstvenniy Komitet po Planirovaniyu (Государственный комитет по планированию, "Ủy ban Kế hoạch Nhà nước".)
  2. ^ Alec >Nove, An Economic History of the USSR. New Edition. London: Penguin Books, 1989; pg. 61.
  3. ^ a b E.H. Carr, A History of Soviet Russia: The Bolshevik Revolution, 1917-1923: Volume 2. London: Macmillan, 1952; pg. 375.
  4. ^ a b Maurice Dobb, Russian Economic Development Since the Revolution. New York: E.P. Dutton, 1928; pg. 241; fn. 1.
  5. ^ a b c d Carr, A History of Soviet Russia, vol. 2, pg. 376.
  6. ^ a b Carr, A History of Soviet Russia, vol. 2, pg. 377.
  7. ^ a b c d Carr, A History of Soviet Russia, vol. 2, pg. 379.
  8. ^ a b Carr, A History of Soviet Russia, vol. 2, pg. 381.
  9. ^ Carr, The Interregnum, pp. 13-14.