Vladimir Ilyich Lenin
Vladimir Ilyich Lenin | |||||
---|---|---|---|---|---|
Влади́мир Ильи́ч Ле́нин | |||||
![]() Chân dung Lenin năm 1918 | |||||
Chủ tịch Hội đồng Dân ủy Liên Xô | |||||
Nhiệm kỳ 6 tháng 7 năm 1923 – 21 tháng 1 năm 1924 | |||||
Tiền nhiệm | Chức vụ mới | ||||
Kế nhiệm | Alexei Rykov | ||||
Chủ tịch Hội đồng Nhân dân Nga Xô viết | |||||
Nhiệm kỳ 8 tháng 11 năm 1917 – 21 tháng 1 năm 1924 | |||||
Tiền nhiệm | Chức vụ mới | ||||
Kế nhiệm | Alexei Rykov | ||||
Thành viên Quốc hội Lập hiến Nga | |||||
Nhiệm kỳ 25 tháng 11 năm 1917 – 20 tháng 1 năm 1918[a] Phục vụ cùng Pavel Dybenko | |||||
Tiền nhiệm | Thành lập | ||||
Kế nhiệm | Giải tán | ||||
Khu vực bầu cử | Hạm đội Baltic | ||||
Thông tin cá nhân | |||||
Sinh | Vladimir Ilyich Ulyanov 22 tháng 4 [lịch cũ 10 tháng 4] năm 1870 Simbirsk, Đế quốc Nga (nay là Ulyanovsk, Nga) | ||||
Mất | 21 tháng 1 năm 1924 Gorki, Moskva, Liên Xô | (53 tuổi)||||
Nơi an nghỉ | Lăng Lenin, Moskva | ||||
Đảng chính trị |
| ||||
Đảng khác | Liên đoàn đấu tranh vì sự giải phóng của giai cấp công nhân (1895–1898) | ||||
Phối ngẫu | Nadezhda Krupskaya (cưới 1898) | ||||
Cha mẹ | |||||
Người thân | 4 anh chị em[b]
| ||||
Alma mater | Đại học Hoàng gia Sankt-Peterburg | ||||
Chữ ký | ![]() | ||||
| |||||
Quyền thành viên
Chức vụ quân đội
|
Vladimir Ilyich Lenin (tiếng Nga: Влади́мир Ильи́ч Ле́нин; phiên âm tiếng Việt: Vla-đi-mia I-lích Lê-nin; 22 tháng 4 [lịch cũ 10 tháng 4] năm 1870 - 21 tháng 1 năm 1924), tên khai sinh là Vladimir Ilyich Ulyanov (tiếng Nga: Влади́мир Ильи́ч Улья́нов), là một nhà cách mạng, chính khách và nhà lý luận chính trị người Nga. Ông là một trong những người sáng lập và đứng đầu chính phủ nước Nga Xô Viết giai đoạn 1917-1924, và Liên Xô giai đoạn 1922-1924. Dưới sự lãnh đạo của ông, nước Nga đã chuyển hóa thành một nhà nước độc đảng theo chủ nghĩa Marx-Lenin do Đảng Cộng sản Liên Xô chi phối. Học thuyết Marxist do ông tiếp thu và phát triển được gọi là chủ nghĩa Lenin.
Sinh ra trong một gia đình thượng trung lưu ở Simbirsk, Lenin lĩnh hội chính trị cách mạng xã hội chủ nghĩa sau cái chết của người anh trai vào năm 1887. Bị thôi học tại Đại học Hoàng gia Kazan vì tham gia biểu tình chống chính quyền Sa hoàng, ông đã dành những năm tháng tiếp theo học tập và hành nghề trợ lý luật sư. Năm 1893, Ông chuyển tới sống ở Sankt-Peterburg và trở thành một nhà hoạt động chính trị Marxist kì cựu. Năm 1897, ông bị bắt giữ vì tội danh xúi giục nổi loạn và bị đày tới xứ Siberi biên viễn trong vòng ba năm, nơi ông kết hôn với bà Nadezhda Krupskaya. Sau quãng thời gian đó, ông sang Tây Âu và trở thành nhà lý luận Marxist nổi danh của Đảng Lao động Dân chủ Xã hội Nga (RSDRP). Lenin đóng vai trò rất quan trọng đối với sự đứt gãy ý thức hệ trong nội bộ Đảng RSDRP hồi năm 1903, dẫn dắt phái Bolshevik chống lại phái Menshevik của Julius Martov. Theo sau cuộc cách mạng bất thành năm 1905, ông đã vận động quần chúng nhân dân biến chuyển Thế chiến thứ nhất thành một cuộc cách mạng vô sản toàn châu Âu, lật đổ chủ nghĩa tư bản và kiến dựng chủ nghĩa xã hội. Sau Cách mạng Tháng Hai năm 1917 và sự thành lập của Chính phủ Lâm thời Nga, Lenin trở về quê hương để trực tiếp lãnh đạo Cách mạng Tháng Mười của phái Bolshevik đi tới thắng lợi.
Chính phủ Bolshevik của Lenin ban đầu san sẻ quyền lực với phái Cách mạng Xã hội chủ nghĩa Tả khuynh, các xô-viết được tiến cử, và một Quốc hội Lập hiến đa đảng; song tới năm 1918 thì Đảng Cộng sản đã tập trung hóa đáng kể quyền lực. Chính quyền của Lenin tái phân phối đất đai cho nông dân, quốc hữu hóa ngân hàng và các ngành công nghiệp lớn, rút khỏi Thế chiến thứ nhất sau khi nhượng bộ lãnh thổ cho Liên minh Trung tâm, và lan tỏa tinh thần cách mạng vô sản toàn lục địa thông qua Quốc tế Cộng sản. Các thế lực chống đối chính quyền bị thẳng tay đàn áp trong cuộc Khủng bố Đỏ do ủy ban Cheka chịu trách nhiệm; theo đó hàng chục ngàn người đã bị xử tử hoặc bị bắt tới các trại tập trung. Hồng quân dưới thời Lenin đã đánh bại các đội quân chống Bolshevik hữu khuynh lẫn tả khuynh trong cuộc Nội chiến Nga (1917-1922) và tham gia vào cuộc chiến Ba Lan-Xô viết (1919-1921). Nhằm khắc phục di hại từ chiến tranh, nạn đói và các cuộc nổi dậy, Lenin kích thích tăng trưởng kinh tế quốc dân thông qua Chính sách Kinh tế Mới vào năm 1921. Sau năm 1917, rất nhiều các quốc gia dân tộc phi-Nga đã tuyên bố độc lập theo ý chí của Lenin, song 5 trong số đó về sau bị bắt phải tái hợp với Nga thành Liên Xô vào năm 1922. Lenin qua đời ở Gorki vào năm 1924 sau khi trải qua ba cơn đột quỵ liên tiếp lúc gần cuối đời; cương vị lãnh tụ sau đó được kế thừa bởi Iosif Vissarionovich Stalin.
Được xem là một trong những nhân vật lịch sử quan trọng và cực kỳ có sức ảnh hưởng, Lenin là đối tượng của sự sùng bái cá nhân tại Liên bang Xô viết sau khi ông qua đời cho đến khi quốc gia này giải thể vào năm 1991. Ông đã trở thành hình tượng gắn liền với chủ nghĩa Marx-Lenin, một hệ tư tưởng có ảnh hưởng sâu rộng đến các phong trào cộng sản trên khắp thế giới. Lenin hiện được coi là một nhân vật lịch sử để lại nhiều tranh luận; những người ủng hộ coi ông là một nhà cách mạng xã hội chủ nghĩa lỗi lạc đứng về phía giai cấp công nhân, trong khi những nhà phê bình cáo buộc ông là người sáng lập một nhà nước toàn trị chịu trách nhiệm cho những vụ xử tử hàng loạt và trấn áp chính trị. Năm 1998, ông được tạp chí Time đánh giá là một trong 100 nhân vật có ảnh hưởng nhất đến lịch sử thế giới trong thế kỷ 20.[1]
Tuổi trẻ
Tuổi thơ: 1870–1887

Đời cụ cố của Lenin mang trong mình dòng máu Nga, Đức, Thụy Điển, Do Thái, cùng một chút dòng máu có lẽ là Kalmyk.[2] Cha của Lenin, ông Ilya Nikolayevich Ulyanov, xuất thân trong một gia đình vốn là nông nô; không rõ cha của Ilya là người dân tộc nào,[c] song mẹ của Ilya, bà Anna Alexeyevna Smirnova, nửa Kalmyk nửa Nga theo huyết thống.[4] Tuy gia cảnh khó khăn như vậy, Ilya đã nỗ lực vươn lên tầng lớp trung lưu. Ông nghiên cứu vật lý và toán học tại Đại học Kazan trước khi giảng dạy tại Viện Quý tộc Penza.[5] Ilya cưới Maria Alexandrovna Blank khoảng giữa năm 1863.[6] Được học hành tử tế, Maria là con gái trong một gia đình có mẹ là tín đồ Luther gốc Đức–Thụy Điển và cha là người Nga gốc Do Thái đã cải sang Thiên chúa giáo và hành nghề bác sĩ.[7] Theo nhà sử học Petrovsky-Shtern, nhiều khả năng Lenin không biết tới thân phận nửa Do Thái của mẹ mình, chỉ được phát hiện bởi người chị gái Anna sau khi ông mất.[8] Theo nguồn khác, cha của Maria có lẽ là dân Đức sang Nga lập nghiệp theo chỉ dụ của Yekaterina Đại đế.[9]
Ngay sau đám cưới, Ilya nhận một công việc tại Nizhny Novgorod, trong vòng 6 năm sau đã thăng tiến lên chức Thanh tra các Trường Tiểu học của quận Simbirsk. 5 năm sau, ông được bổ nhiệm làm Thanh tra các Trường công cấp tỉnh, giám sát việc khánh thánh 450 trường học theo chủ trương hiện đại hóa của chính phủ Sa hoàng. Tháng 1 năm 1882, ông được trao tặng Huân chương Thánh Vladimir vì tâm huyết cho nghề nhà giáo, đồng thời trở thành quý tộc nối dõi.[10]

Lenin chào đời ngày 22 tháng 4 năm 1870 tại Streletskaya Ulitsa, Simbirsk, nay là Ulyanovsk, và được rửa tội 6 ngày sau.[11] Lúc bé, ông có biệt danh là Volodya, cách nói yêu cái tên Vladimir.[12] Ông là con thứ ba trong gia đình gồm 8 người con: hai anh chị hơn tuổi là Anna (sinh năm 1864) và Aleksandr (sinh năm 1866); ba người em nhỏ hơn là Olga (sinh năm 1871), Dmitry (sinh năm 1874), và Maria (sinh năm 1878). Hai đứa bé út còn lại chết trong cũi.[13] Ilya là tín đồ của Giáo hội Chính thống Nga nên cho tất cả những người con của mình rửa tội; về phần người mẹ Maria, lớn lên vốn đã là tín đồ Luther, bà không phân biệt các dòng Thiên chúa giáo, quan điểm mà về sau ảnh hưởng ít nhiều đến những người con.[14]
Ilya và Maria đều là những người ủng hộ chế độ quân chủ và có khuynh hướng bảo thủ tự do, rất tin tưởng cải cách giải phóng 1861 do Sa hoàng Aleksandr II ban hành. Họ thường tránh mặt những người quá khích chính trị và không có bất kỳ một bằng chứng nào cho thấy họ bị cảnh sát theo dõi vì tư tưởng lật đổ chính quyền.[15] Mỗi mùa hè gia đình Ilyich thường lui tới căn nhà ở Kokushkino để nghỉ dưỡng.[16] Trong số các anh chị em, Lenin chơi thân nhất với Olga, thường xuyên sai vặt cô em gái. Ông vốn có tính cạnh tranh cao, đôi khi quậy phá, song luôn chịu trách nhiệm cho hành vi xấu của mình.[17] Là người yêu thích thể thao, ông dành phần lớn thời gian ngoài trời hoặc chơi cờ vua, ngoài ra còn học rất giỏi trên lớp, ở trường Gymnasium Cổ điển Simbirsk kỷ luật và bảo thủ.[18]
Tháng 1 năm 1886, khi Lenin 15 tuổi, cha ông qua đời vì xuất huyết não.[19] Sau thảm kịch ấy, tính cách ông trở nên thất thường, hay bực tức; từ đó trở đi ông từ bỏ niềm tin vào Chúa.[20] Bấy giờ, anh trai của Lenin là Aleksandr, thường được gọi thân mật là Sasha, đang theo học tại Đại học Sankt-Peterburg. Bị cuốn vào phong trào chính trị chống chế độ quân chủ tuyệt đối đời Sa hoàng Aleksandr III, Aleksandr bắt đầu đọc sách báo tả khuynh bị nghiêm cấm và tổ chức các cuộc biểu tình chống chính quyền. Ông gia nhập một nhóm cách mạng có quyết tâm ám sát Sa hoàng và trở thành người chế tạo bom cho kế hoạch đó. Âm mưu không may bại lộ, và những kẻ chủ mưu bị bắt và xét xử; Aleksandr bị treo cổ vào tháng 5.[21] Bất chấp nỗi đau mất cha và anh trai, Lenin kiên trì học hành, tốt nghiệp đầu lớp và được trao tặng huy chương vàng cho thành tích xuất sắc, sau đó chọn theo ngành luật tại Đại học Kazan.[22]
Đại học và tư tưởng chính trị: 1887–1893

Ngay khi bước chân vào ngưỡng cửa Đại học Kazan tháng 8 năm 1887, Lenin chuyển tới sống ở một căn hộ gần đó.[23] Tại đây, ông tham gia zemlyachestvo, một hội sinh viên đại diện cho thanh niên tới từ các tỉnh thành khác nhau.[24] Nhóm này bầu cử Lenin làm bộ mặt cho hội đồng zemlyachestvo của trường, và ông tham gia cuộc biểu tình tháng 12 chống lại các quy định ngặt nghèo của chính phủ hạn chế các hội sinh viên. Cảnh sát bắt Lenin và cáo buộc ông tội đầu têu cuộc nổi loạn; sự vụ này khiến ông bị đuổi học, và Bộ trưởng Bộ Nội vụ ra lệnh đày ông về Kokushkino.[25] Tại đây, ông đọc ngấu nghiến sách vở, trở nên yêu thích tiểu thuyết cách mạng Điều cần làm giờ đây là gì? của Nikolay Chernyshevsky (1863).[26]
Mẹ của Lenin bắt đầu lo lắng vì khuynh hướng chính trị của con trai. Bà thuyết phục thành công Bộ Nội vụ cho phép Lenin quay về Kazan, song ông không được phép lên lớp.[27] Vào ngày trở về, ông tham gia hội cách mạng của Nikolai Fedoseev, qua đó biết tới cuốn Das Kapital (1867) của Karl Marx. Điều này đã thắp ngọn lửa đam mê của ông với chủ nghĩa Marx, một thuyết kinh tế-chính trị cho rằng xã hội diễn tiến nhờ đấu tranh giai cấp, và rằng xã hội tư bản rốt cuộc sẽ suy tàn, mở đường tiến lên xã hội chủ nghĩa và cuối cùng là xã hội cộng sản.[28] Ngày càng lo ngại về quan điểm chính trị của con trai, mẹ Lenin mua một mảnh đất ở vùng nông thôn Alakaevka thuộc tỉnh Samara với hy vọng ông sẽ tập trung vào việc làm nông. Tuy nhiên, ông ít có hứng thú với công việc đó, và mẹ ông mau chóng phải bán mảnh đất kia đi, chỉ giữ lại ngôi nhà làm chỗ tới lui vào mùa hè.[29]
Tháng 9 năm 1889, gia đình Ulyanov chuyển tới sống ở thành phố Samara, nơi Lenin gia nhập hội thảo luận chủ nghĩa xã hội của Alexei Sklyarenko.[30] Ở đây, Lenin hoàn toàn tâm đắc chủ nghĩa Marx và biên dịch sang tiếng Nga cuốn pamfơlê Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản (1848) viết bởi Marx và Friedrich Engels.[31] Ông bắt đầu đọc các tác phẩm của nhà Marxist người Nga Georgi Plekhanov, đồng thuận với Plekhanov rằng nước Nga bấy giờ đang chuyển biến từ chế độ phong kiến sang tư bản, vậy nên cách mạng xã hội chủ nghĩa phải được thực hiện bởi giai cấp vô sản, hoặc tầng lớp lao động thành thị, chứ không bởi giai cấp nông dân.[32] Quan điểm này trái ngược với quan điểm của phái Narodnik theo chủ nghĩa xã hội nông nghiệp; phái này cho rằng chỉ giai cấp nông dân mới có khả năng đưa nước Nga lên xã hội chủ nghĩa bằng cách kết thành các công xã nông dân, tức là bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa. Chủ thuyết của phái Narodnik manh nha phát triển vào những năm 1860 trong nội bộ Đảng Tự do Nhân dân và là tư tưởng chủ đạo trong phong trào xã hội chủ nghĩa lúc bấy giờ.[33] Lenin bác bỏ tiền đề của chủ nghĩa xã hội nông nghiệp, song bản thân ông có bị ảnh hưởng bởi các thành viên của phái này, chẳng hạn như Pyotr Tkachev và Sergei Nechaev, và cũng kết thân được với nhiều người Narodnik.[34]
Tháng 5 năm 1890, bà Maria, người vẫn có vị thế xã hội do góa chồng là quý tộc, thuyết phục chính quyền sở tại cho phép Lenin được dự thi lấy bằng Đại học Sankt-Peterburg; điều này đã giúp ông nhận được tấm bằng danh dự hạng nhất. Lễ tốt nghiệp của Lenin diễn ra ảm đạm do trùng ngày em gái Olga qua đời vì thương hàn.[35] Lenin sống ở Samara trong nhiều năm, làm trợ lý pháp lý cho một tòa án địa phương và rồi cho một luật sư địa phương.[36] Ông dành phần lớn thời gian cho nghiệp chính trị quá khích, hoạt động sôi nổi trong nhóm Sklyarenko và tìm kiếm một tầm nhìn để áp dụng chủ nghĩa Marx vào thực tiễn nước Nga. Được truyền cảm hứng từ công trình của Plekhanov, Lenin thu nhặt dữ liệu về Nga để góp phần chứng minh diễn giải Marxist về sự phát triển của xã hội và phản bác lại học thuyết Narodnik.[37] Có lần ông từng viết một bài báo kinh tế học về giai cấp nông dân để đăng trên tạp chí Russkaya Mysl nhưng bị họ từ chối.[38]
Hoạt động cách mạng
Hoạt động chính trị và đày ải ở Siberi: 1893–1900

Cuối năm 1893, Lenin chuyển tới Sankt-Peterburg.[39] Tại đây, ông làm công việc chính là trợ lý luật sư, đồng thời trở thành thành viên kì cựu của một nhóm cách mạng Marxist tự xưng là những người Dân chủ - Xã hội, theo tên của Đảng Dân chủ Xã hội Đức.[40] Công khai là người thấu hiểu học thuyết Marxist trong các phong trào xã hội chủ nghĩa, ông khuyến khích sự thành lập của nhiều nhóm cách mạng bên trong các khu công nghiệp của Nga.[41] Tới cuối năm 1894, ông hiện đã dẫn dắt một nhóm công nhân Marxist, luôn phải che đậy hành tung do lo sợ cảnh sát cài gián điệp bên trong.[42] Cũng trong khoảng thời gian này, ông nảy sinh mối tình với bà Nadezhda "Nadya" Krupskaya, một giáo viên có tư tưởng Marxist.[43] Ông cho ra đời tác phẩm chính trị ""Bạn của nhân dân" có nghĩa là gì và chúng đấu tranh với những người Dân chủ-Xã hội kiểu nào" nhằm đả kích phái xã hội chủ nghĩa nông nghiệp Narodnik, dựa phần lớn trên trải nghiệm của ông tại Samara; tầm 200 bản của tác phẩm này đã được in ấn lậu vào năm 1894.[44]
Lenin hi vọng gắn kết được phái Xã hội-Dân chủ với phong trào Giải phóng Lao động, một nhóm émigrés Marxist gốc Nga đặt trụ sở tại Thụy Sĩ; ông đã tới đất nước này để gặp gỡ các thành viên là Plekhanov và Pavel Axelrod.[45] Ông cũng tới thăm Paris để gặp con rể của Marx là Paul Lafargue, tranh thủ luôn dịp này để nghiên cứu về công xã Pháp năm 1871, thứ mà ông coi là tiền thân của chính phủ vô sản.[46] Được chu cấp bởi thân mẫu, ông dưỡng bệnh ở Thụy Sĩ trước khi đi Berlin, nán lại học tại Staatsbibliothek trong 6 tuần, đồng thời gặp gỡ nhà hoạt động chính trị Marxist Wilhelm Liebknecht.[47] Trở lại Nga, ông đi khắp nơi để phân phát các ấn phẩm chính trị bất hợp pháp do ông thu lượm được khi còn ở ngoại quốc cho các công nhân đòi đình công.[48] Trong lúc hoàn thiện tác phẩm Rabochee delo (Sứ mệnh của công nhân), ông cùng 39 nhà hoạt động khác bị vây bắt ở Sankt-Peterburg dựa trên cáo buộc về tội xúi giục nổi loạn.[49]

Từ chối được đại diện hoặc bảo lãnh về mặt pháp lý, Lenin bác bỏ tất cả cáo buộc chống lại ông song rốt cuộc vẫn bị giam giữ một năm ròng để chờ xét xử.[50] Ông dành thời gian tù ngục để suy tư và viết cuốn Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản ở Nga. Trong tác phẩm, ông cho rằng chủ nghĩa tư bản công nghiệp tại Nga đã khiến nông dân ở nhiều vùng quê di cư ồ ạt lên thành phố, nơi họ trở thành giai cấp vô sản. Từ lăng kính Marxist, Lenin lý luận rằng họ sẽ lĩnh hội ý thức giai cấp; điều ắt dẫn đến sự lật đổ của chế độ Sa hoàng, chế độ quý tộc, và giai cấp tư sản, kèm theo đó là sự thành lập nhà nước chuyên chính của nhân dân lao động, mở đường tới chủ nghĩa xã hội.[51]
Tháng 2 năm 1897, Lenin bị kết án không cần xét xử 3 năm đày thú ở miền đông Siberi. Ông được cho vài ngày nán lại Sankt-Peterburg để giải quyết công việc dang dở và gặp mặt lần cuối Đảng Xã hội – Dân chủ, hiện đã đổi tên thành Liên đoàn đấu tranh vì sự giải phóng của giai cấp công nhân.[52] Mẹ và chị của Lenin đồng hành cùng ông trên hành trình suốt 11 tuần đi Siberi. Chỉ bị coi là mối họa nhỏ, chính quyền Sa hoàng cho ông sống biệt lập trong một căn nhà nông dân nhỏ ở Shushenskoye, Minusinsky, dưới sự quản thúc của cảnh sát; song do an ninh không quá chặt chẽ nên ông vẫn có thể trao đổi thư từ với những nhà cách mạng khác. Nhiều người trong số họ đã tới thăm Lenin, cùng ông tắm sông Enisei, săn vịt và dẽ giun để giết thời gian.[53]
Tháng 5 năm 1898, Nadya cũng bị đày tới Shushenskoye, bị bắt trước đó vào tháng 8 năm 1896 can tội tổ chức một cuộc biểu tình. Ban đầu chính quyền định thuyên chuyển bà tới Ufa, song Nadya đã thuyết phục họ đưa bà tới Shushenskoye, khai rằng bà và Lenin đã đính hôn; họ kết hôn vào ngày 10 tháng 7 năm 1898.[54] Trong khoảng thời gian cặp đôi sống chung với mẹ vợ Elizaveta Vasilyevna tại Shushenskoye, họ đã dịch nhiều tác phẩm về chủ nghĩa xã hội từ tiếng Anh sang tiếng Nga.[55] Quan tâm đến những tiến triển mới trong phong trào Marxist Đức, Lenin biết về đứt gãy ý thức hệ trong nội bộ của phong trào này, với các nhà xét lại như Eduard Bernstein ủng hộ một con đường hòa bình, tuyển cử dân chủ để tiến lên xã hội chủ nghĩa. Lenin tuy vậy vẫn trung thành với tư tưởng cách mạng bạo lực, cực lực công kích các luận điệu của phái xét lại trong tác phẩm Một phản bác của phái Dân chủ-Xã hội Nga.[55] Năm 1899, ông hoàn thành cuốn Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản ở Nga, trước tác dài nhất của ông cho đến thời điểm đó, chỉ trích các nhà xã hội chủ nghĩa nông nghiệp và trình bày sự phát triển của xã hội Nga đứng trên lập trường Marxist. Xuất bản dưới bút danh Vladimir Ilin, cuốn sách hứng chịu nhiều phê bình tiêu cực.[56]
München, London, và Genève: 1900–1905

Sau quãng đời ở Siberi, Lenin chuyến tới Pskov vào đầu năm 1900.[57] Tại đây, ông cố gắng gây quỹ cho tờ báo Iskra, một cơ quan tuyên truyền mới của đảng Marxist Nga, giờ tự xưng là Đảng Lao động Dân chủ Xã hội Nga (RSDRP).[58] Tháng 7 năm 1900, Lenin rời Nga đi Tây Âu. Ông đã gặp gỡ nhiều nhà Marxist Nga tại Thụy Sĩ, và tại một hội nghị Corsier, họ đã đồng ý phát hành tờ báo tại München, nơi ở mới của Lenin vào tháng 9.[59] Với sự đóng góp của nhiều nhà Marxist nổi bật, Iskra được tuồn lậu vào Nga,[60] trở thành ấn phẩm ngầm nổi tiếng nhất tại đất nước này trong suốt 50 năm.[61] Ông lần đầu tiên sử dụng bí danh Lenin vào tháng 12 năm 1901, có lẽ lấy cảm hứng từ con sông Lena ở Siberi;[62] tuy nhiên ông thường dùng cái tên đầy đủ N. Lenin.[d] Với bí danh này, ông đã xuất bản cuốn pamfơlê chính trị Điều cần làm giờ đây là gì? vào năm 1902; ấn phẩm có ảnh hưởng nhất của ông cho tới thời điểm hiện tại, trình bày các suy tưởng của Lenin về sự cần thiết của một đảng tiên phong nhằm lãnh đạo giai cấp vô sản trong công cuộc cách mạng.[64]
Người vợ Nadya tham gia cùng Lenin ở München và trở thành thư ký riêng của ông.[65] Họ tiếp tục xuất bản các bài báo chính trị kích động: Lenin viết cho tờ Iskra và thảo bản cương lĩnh của RSDRP, đả kích các người bất đồng ý thức hệ và phản biện các chỉ trích bên ngoài, nhất là từ Đảng Cách mạng Xã hội chủ nghĩa (SR),[66] một nhóm Narodnik được thành lập vào năm 1901.[67] Tuy vẫn là một người Marxist tận tụy, ông chấp thuận quan điểm của phái Narodnik về tiềm lực cách mạng của giai cấp nông dân Nga, theo đó chắp bút viết cuốn pamfơlê Vì tầng lớp bần nông vào năm 1903.[68] Để tránh né kiểm duyệt của cảnh sát Bayern, Lenin chuyển tới London cùng Iskra vào tháng 4 năm 1902.[69] Trong khoảng thời gian này, ông trở thành bạn của nhà Marxist gốc Nga-Ukraina là Leon Trotsky.[70] Lenin sau đó mắc bệnh viêm quầng và không thể lãnh đạo đội ngũ biên tập của Iskra; vì sự vắng mặt của ông, đội ngũ đành chuyển cơ sở hoạt động tới Genève.[71]
Cách mạng 1905 và kết quả: 1905–1914
Tháng 1 năm 1905, vụ thảm sát những người biểu tình ở Sankt-Peterburg vào ngày Chủ nhật đã châm ngòi cho một loạt các bất ổn dân sự trên lãnh thổ của Đế quốc Nga, còn có tên là Cách mạng năm 1905.[72] Lenin khuyến khích phái Bolshevik tham gia chủ động hơn vào sự biến này, cổ vũ các cuộc khởi nghĩa bạo lực.[73] Vì lẽ đó nên giờ đây Lenin đã tiếp nhận các khẩu hiệu của SR về "khởi nghĩa vũ trang", "khủng bố hàng loạt", và "trưng dụng đất của quý tộc tiểu địa chủ", hành động mà đã khiến phái Menshevik cáo buộc ông là lệch lạc khỏi tư tưởng Marxist chính thống.[74] Đáp lại, ông vận động phái Bolshevik cự tuyệt với phái Menshevik; tuy nhiên phần đông những người Bolshevik từ chối điều đó, và cả hai phái đã gạt các bất đồng sang một bên để cùng tham dự Đại hội RSDRP lần 3, được tổ chức tại Nhà thờ Brotherhood ở London vào tháng 4 năm 1905.[75] Lenin trình bày các tư tưởng của mình trong tác phẩm Hai sách lược, xuất bàn vào tháng 8 năm 1905. Theo đó cho rằng giai cấp tư sản tự do của Nga sẽ ủng hộ sự chuyển đổi sang chế độ quân chủ lập hiến và do vậy chắc chắn phản bội sự nghiệp cách mạng; thay vào đó, ông đề xuất rằng giai cấp vô sản phải liên minh với giai cấp nông dân thì mới có cơ may lật đổ chế độ Sa hoàng và chung tay góp sức xây dựng nền "chuyên chính vô sản và nông dân dân chủ cách mạng lâm thời."[76]
—Lenin nói về Cách mạng năm 1905, tạm dịch theo Rice (1990:88–89)
Để xoa dịu người dân sau cuộc cách mạng 1905 bất thành, Sa hoàng Nikolai II chấp thuận một loạt các cải cách tự do trong Tuyên ngôn Tháng Mười. Với bầu không khí này, Lenin cảm thấy an toàn để trở lại Sankt-Peterburg.[77] Tham gia đội ngũ biên tập của Novaya Zhizn (Cuộc đời Mới), một tờ báo pháp luật quá khích chính trị được duy trì bởi Maria Fyodorovna Andreyeva, ông đã viết các thảo luận liên quan đến mặt pháp lý của RSDRP.[78] Ông khuyến khích họ tìm cách chiêu mộ thành viên sâu rộng hơn, đồng thời cổ vũ các cuộc biểu tình bạo lực, tin rằng hai yếu tố này đều rất quan trọng cho sự thành công của cách mạng.[79] Nhận ra rằng phí đảng viên và quyên góp từ phần ít những người giàu có cảm tình với nghiệp cách mạng không thể nào trợ cấp nổi cho các hoạt động của phái Bolshevik, Lenin cùng một số đảng viên khác đã đề xuất kế hoạch cướp các cơ quan bưu điện, ga tàu và ngân hàng của chính phủ Sa hoàng. Dưới sự lãnh đạo của Leonid Krasin, một nhóm những người Bolshevik đã thực hiện các hành động phi pháp này; ví dụ nổi tiếng nhất là vào tháng 6 năm 1907, khi một nhóm Bolshevik dẫn đầu bởi Iosef Stalin thực hiện cướp có vũ trang Ngân hàng Nhà nước Tiflis, Gruzia.[80]
Tuy đã cân nhắc về việc dung hòa quan điểm giữa Bolshevik và Menshevik,[81] phái Menshevik lên án gay gắt sự ủng hộ của Lenin đối với bạo lực và trộm cướp tại Đại hội RSDRP lần thứ tư, tổ chức ở Stockholm vào tháng 4 năm 1906.[82] Lenin tham gia vào việc thành lập Trung tâm Bolshevik ở Kuokkala, Đại công quốc Phần Lan, nơi bấy giờ có quyền bán tự trị bên trong Đế quốc Nga, trước khi phái Bolshevik chiếm đại đa số trong RSDRP tại Đại hội lần thứ năm, tổ chức ở London vào tháng 5 năm 1907.[83] Sa hoàng bắt đầu mạnh tay trấn áp các thành phần đối địch bằng cách bãi bỏ quốc hội cùng Duma Đệ nhị, và ủy thác cho lực lượng cảnh sát mật Okhrana bắt giữ những người cách mạng. Với tình hình này, Lenin lánh nạn ở Thụy Sĩ.[84] Ở đó, ông cố gắng đổi số tiền cướp được ở Tiflis.[85]
Alexander Bogdanov và những người Bolshevik quyết định di dời Trung tâm Bolshevik tới Paris; tuy Lenin phản đối, ông rốt cuộc đành phải chuyển tới thành phố vào tháng 12 năm 1908.[86] Lenin không ưa Paris, chê nó là "một cái ổ bẩn thỉu", có lần còn kiện một người đi ô tô xô ngã ông khi ông đang đạp xe.[87] Lenin rất ghét quan điểm của Bogdanov cho rằng giai cấp vô sản Nga trước tiên phải có một nền văn hóa xã hội chủ nghĩa rồi mới có thể làm phương tiện cho cuộc cách mạng. Thay vào đó, Lenin ủng hộ quan điểm gây dựng một nhóm các trí thức xã hội chủ nghĩa tiên phong nhằm dẫn dắt giai cấp lao động trong công cuộc cách mạng. Hơn nữa, Bogdanov, chịu ảnh hưởng của Ernest Mach, tin rằng tất cả các khái niệm trên đời đều mang tính tương đối mà thôi, trong khi đó Lenin mắc kẹt trong thế giới quan Marxist mà cho rằng có một thực tại khách quan độc lập khỏi nhãn quan con người.[88] Bogdanov và Lenin cùng đi nghỉ dưỡng tại villa của Maxim Gorky ở Capri vào tháng 4 năm 1908.[89] Khi quay lại Paris, Lenin đề nghị chia tách Bolshevik thành hai phe, một phe ủng hộ ông còn đâu ủng hộ Bogdanov, cáo buộc Bogdanov đã thiên lệch khỏi tư tưởng Marxist.[90]
Tháng 5 năm 1908, Lenin đang lưu trú ở London, nơi ông nghiên cứu tại Phòng đọc Bảo tàng Anh để viết cuốn Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán, công kích cái mà ông gọi là "sự sai lệch tư sản phản động" của chủ nghĩa tương đối Bogdanov.[91] Tư tưởng chia bè kết phái của Lenin đã bắt đầu làm một số thành viên Bolshevik xa lánh ông, bao gồm cả các cộng sự thân cận như Alexei Rykov và Lev Kamenev.[92] Lực lượng Okhrana khai thác điểm yếu này để cài nội gián Roman Malinovsky vào trong tổ chức Bolshevik, giả bộ làm người ủng hộ nhiệt thành Lenin. Nhiều người Bolshevik tỏ sự hoài nghi đối với Malinovsky, song không rõ Lenin có biết về danh tính thực của anh ta hay không; rất có thể ông đã tung tin giả cho Malinovsky để đánh lạc hướng Okhrana.[93]
Tháng 8 năm 1910, Lenin dự Đại hội lần 8 của Đệ Nhị Quốc tế ở Copenhagen trong vai trò là đại biểu của đảng RSDRP, rồi sau đó đi nghỉ ở Stockholm cùng mẹ ông.[94] Ông chuyển tới Pháp cùng vợ và chị, sinh sống ở Bombon rồi ở Paris.[95] Tại đây, ông gặp mặt nhà nữ quyền Bolshevik người Pháp Inessa Armand; một số nhà nghiên cứu tiểu sử cho rằng ông Lenin và bà Armand đã có mối quan hệ tình cảm giữa năm 1910 và 1912.[96] Trong lúc đó, tại một cuộc họp ở Paris vào tháng 6 năm 1911, Ủy ban Trung ương RSDRP quyết định hướng lại hoạt động về Nga, cho đóng cửa Trung tâm Bolshevik và tờ báo Proletari của nó.[97] Lenin thu xếp cho một hội nghị tại Prague vào tháng 1 năm 1912 nhằm cứu vãn ảnh hưởng của mình trong nội bộ Đảng. Chỉ có 16 trong số 18 khán thính giả thuộc phái Bolshevik tới tham dự, song ông vẫn bị chỉ trích thậm tệ về tư tưởng chia bè kết phái nên thất bại trong nỗ lực xây dựng lại hình tượng bên trong Đảng.[98]
Trong khoảng thời gian ở Kraków thuộc Vương quốc Galicia và Lodomeria, một khu vực văn hóa Ba Lan của Đế quốc Áo-Hung, Lenin thường lui tới thư viện của Đại học Jagiellonia để nghiên cứu.[99] Ông giữ liên lạc với RSDRP bấy giờ đang hoạt động bên trong Đế quốc Nga, ra sức thuyết phục các thành viên Bolshevik của Duma phải tách khỏi liên minh quốc hội với Menshevik.[100] Tháng 1 năm 1913, Stalin – nhân vật mà được Lenin khen ngợi là "một người Gruzia tuyệt vời" – tới thăm ông, và họ cùng nhau thảo luận về tương lai của các dân tộc phi-Nga bên trong Đế quốc.[101] Do sức khỏe sụt giảm của Lenin và vợ ông, họ chuyển đến sống ở thị trấn Biały Dunajec,[102] trước khi đi Bern để phẫu thuật bướu giáp cho bà Nadya.[103]
Thế chiến thứ nhất: 1914–1917
—Quan điểm của Lenin về Thế chiến thứ nhất, tạm dịch theo Fischer (1964:85)
Lenin đang ở Galicia khi Thế chiến thứ nhất khơi mào.[104] Nga giờ đây phải đối chọi với Áo-Hung. Do bị phát hiện mang quốc tịch Nga, Lenin bị bắt giữ một khoảng thời gian ngắn cho tới khi mọi chuyện trở nên rõ ràng rằng ông là phần tử chống đối Nga hoàng.[105] Lenin và vợ quay về Bern,[106] rồi chuyển tới Zürich vào tháng 2 năm 1916.[107] Lenin rất phẫn nộ khi biết tin Đảng Dân chủ-Xã hội Đức ủng hộ nỗ lực chiến tranh hung hăng của Đức, một hành động đi ngược lại đồng thuận Stuttgart của Quốc tế thứ hai, theo đó khẳng định các đảng xã hội chủ nghĩa đều phải phản chiến. Qua đây Lenin nhận ra rằng Quốc tế Thứ hai chẳng còn nghĩa lí gì nữa.[108] Ông dự Hội nghị Zimmerwald vào tháng 9 năm 1915 và Hội nghị Kienthal vào tháng 4 năm 1916,[109] kêu gọi những người xã hội chủ nghĩa ở khắp nơi phản đối và chuyển biến "chiến tranh đế quốc" thành "nội chiến" trải dài khắp lục đại của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản và giới quý tộc.[110] Tháng 7 năm 1916, mẹ của Lenin qua đời, song ông không thể về viếng tang.[111] Cái chết của người mẹ yêu dấu đã khiến tinh thần Lenin suy sụp đáng kể, ông bắt đầu bi quan cho rằng mình cũng sẽ sớm nhắm mắt chết mà chẳng được chứng kiến ngày cuộc cách mạng vô sản trở thành hiện thực.[112]
Tháng 9 năm 1917, Lenin xuất bản cuốn Chủ nghĩa đế quốc, hình thức tột cùng của chủ nghĩa tư bản, trong đó lập luận rằng chủ nghĩa đế quốc chính là sản phẩm của chủ nghĩa tư bản độc quyền, vì các nhà tư bản luôn muốn tối ưu hóa lợi nhuận bằng cách mở rộng vào các vùng lãnh thổ mới. những nơi mà họ phải trả tiền công ít hơn và có sẵn nguyên liệu rẻ hơn. Ông tin rằng sự cạnh tranh xung đột sẽ dâng cao và chiến tranh giữa các đế quốc sẽ tiếp diễn cho tới khi chúng bị lật đổ bởi cách mạng vô sản và sự ra đời của xã hội chủ nghĩa.[113] Ông dành phần lớn thời gian đọc các tác phẩm của Georg Wilhelm Friedrich Hegel, Ludwig Feuerbach, và Aristotle, những ảnh hưởng vô cùng lớn đến Marx.[114] Điều này đã thay đổi quan điểm của Lenin về chủ nghĩa Marx; trước đây ông từng tin rằng người ta có thể phát triển các chính sách dựa trên các nguyên lý khoa học tiền định, song giờ đây ông cho rằng thực tiễn mới có khả năng chứng minh tính đúng đắn của một chính sách.[115] Ông vẫn coi mình là một người Marxist chính thống, song lại có những tư tưởng khác Marx về sự phát triển của xã hội; trong khi Marx tin rằng một "cuộc cách mạng tư sản-dân chủ" của tầng lớp trung lưu phải diễn ra trước "cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa" của giai cấp vô sản, Lenin lại tin rằng giai cấp vô sản ở Nga có thể lật đổ thành công chế độ Nga hoàng mà không cần kinh qua bước cách mạng trung gian nào.[116]
Cách mạng Tháng Hai và những ngày Tháng Bảy: 1917
Tháng 2 năm 1917, cách mạng nổ ra ở Sankt-Peterburg (đã được đổi tên thành Petrograd hồi đầu Thế chiến thứ nhất) với những đám công nhân lũ lượt đổ ra đường biểu tình vì lương thực khan hiếm và điều kiện làm việc tệ bạc. Bất ổn lan rộng khắp Nga, khiến Sa hoàng Nikolai II khiếp sợ và đành thoái vị. Duma Nhà nước chớp thời cơ này để lên nắm quyền, thành lập Chính phủ Lâm thời Nga và tuyên bố khai sinh nước Cộng hòa Nga.[117] Tại Thụy Sĩ, Lenin hay tin cuộc đảo chính thành công ở quê nhà và nô nức chia sẻ niềm vui với những người bất đồng chính kiến.[118] Ông quyết định quay về Nga để đích thân lãnh đạo những người Bolshevik, song hầu hết các tuyến đường lúc bấy giờ đã bị chặn đứng vì tình hình xung đột bất ổn. Ông vạch ra kế hoạch cùng những người bất đồng chính kiến mở đường máu băng qua Đức, đất nước mà vẫn đang sa lầy trong chiến tranh với Nga. Biết tin những người bất đồng chính kiến muốn quay về Nga, chính quyền Đức vui vẻ cho phép 32 công dân Nga đi tàu qua đất nước của họ, trong số đó có Lenin và vợ.[119] Vì lí do chính trị, Lenin và chính quyền Đức đồng ý phao tin giả rằng Lenin đi trên một chuyến tàu chở hàng được niêm phong qua lãnh thổ Đức, song thực chất hành khách của nó có thể thoải mái lên xuống ở bất kỳ trạm nghỉ nào.[120] Nhóm người Nga đi từ Zürich tới Sassnitz, bắt phà tới Trelleborg, Thụy Điển, từ đó đi tiếp đến giới phận Haparanda–Tornio rồi dừng chân tại Helsinki, trước khi cải trang và bắt chuyến tàu cuối về Petrograd.[121]

Đáp chân tại ga Phần Lan ở Petrograd vào tháng 4, Lenin diễn thuyết công kích Chính phủ Lâm thời trước những người ủng hộ Bolshevik và lại một lần nữa kêu gọi cách mạng vô sản toàn lục địa.[123] Trong những ngày tiếp theo, ông thảo luận tại các cuộc họp Bolshevik, chê trách những người đòi giảng hòa với Menshevik và đọc "Luận cương tháng Tư", một bản khái yếu về kế hoạch của ông cho phái Bolshevik được viết trên chuyến hành trình trở về từ Thụy Sĩ.[124] Ông công khai chỉ trích phái Menshevik và Đảng Cách mạng-Xã hội chủ nghĩa, hai nhóm chiếm số đông trong Xô viết Petrograd, vì dám ủng hộ Chính phủ Lâm thời, quy kết họ là những kẻ phản bội lí tưởng xã hội chủ nghĩa. Do cho rằng chính phủ mới mang tư tưởng đế quốc chẳng kém gì Sa hoàng cũ, Lenin đã nêu ra các yêu sách sau: cầu hòa với Đức và Áo-Hung ngay lập tức, chuyển chính quyền cho những người xô viết, quốc hữu hóa các ngành công nghiệp và ngân hàng, tịch thu ruộng đất; tất cả nhằm gây dựng một chính quyền vô sản hướng tới xã hội chủ nghĩa. Trái lại, phái Menshevik tin rằng Nga chưa đạt đến giai đoạn chín muồi để đi lên xã hội chủ nghĩa, và cáo buộc Lenin muốn kích động cuộc nội chiến.[125] Trong những tháng tiếp theo, Lenin nỗ lực tuyên truyền những chính sách của ông, tham dự cuộc họp của Ủy ban Chấp hành Trung ương Bolshevik, đóng góp bài viết cho tờ Pravda, diễn thuyết tại Petrograd nhằm chiêu mộ công nhân, binh lính, thủy thủ, và nông dân cho sự nghiệp cách mạng.[126]
Cảm thấy những người ủng hộ Bolshevik đang ngày càng nản lòng, Lenin đề xuất một cuộc biểu tình vũ trang tại Petrograd để dò xét phản ứng của chính phủ.[127] Do sức khỏe suy yếu, ông rời thành phố tới làng Neivola ở Phần Lan để dưỡng bệnh.[128] Cuộc biểu tình vũ trang của Bolshevik, gọi là những ngày Tháng Bảy, diễn ra trong lúc Lenin vắng mặt. Sau khi nghe tin về cuộc đụng độ giữa Bolshevik và chính phủ, ông nhanh chóng quay về Petrograd và kêu gọi hòa hoãn.[129] Đáp lại vụ ẩu đả, Chính phủ Lâm thời ra lệnh bắt giữ Lenin và những thành viên cốt cán của Bolshevik, lục soát văn phòng của họ, và loan tin vu khống Lenin là gián điệp của Đức.[130] Tránh được cuộc lùng sục, Lenin lẩn trốn một thời gian ngắn ở nơi an toàn bên trong Petrograd.[131] Lo sợ cho tính mạng của mình, Lenin và cộng sự Bolshevik Grigory Zinoviev cải trang và tẩu thoát khỏi Petrograd tới Razliv.[132] Ở đây, Lenin bắt đầu chắp bút viết cuốn Nhà nước và Cách mạng, suy tưởng về xã hội hậu cách mạng vô sản và đề cập đến thuyết tiêu biến nhà nước rồi để lại một xã hội cộng sản thuần khiết.[133] Ông cũng đề xuất một cuộc khởi nghĩa vũ trang Bolshevik nhằm lật đổ chính phủ lâm thời, song một cuộc họp bí mật của ban chấp hành trung ương đảng đã bác bỏ ý tưởng này.[134] Lenin bắt tàu đi Phần Lan, tới Helsinki vào ngày 10 tháng 8, nơi ông được chứa chấp bởi những người có cảm tình với Bolshevik.[135]
Cách mạng Tháng Mười: 1917

Tháng 8 năm 1917, trong thời gian Lenin trú ở Phần Lan, tổng tư lệnh của Quân đội Nga lúc bấy giờ là Lavr Kornilov cử binh lính đến Petrograd hòng thực hiện một cuộc đảo chính quân sự chống lại Chính phủ Lâm thời. Thủ tướng Alexander Kerensky bèn quay ra cầu cứu Xô-viết Petrograd (bao gồm những người Bolshevik) và cho phép các nhà cách mạng tập hợp công nhân thành các nhóm Hồng vệ binh để bảo vệ thành phố. Quân đảo chính giải tán trước khi tới được Petrograd, song sự biến này đã giúp những người Bolshevik trở lại đấu trường chính trị.[136] E ngại một cuộc phản cách mạng của phe cánh hữu thù địch chủ nghĩa xã hội, những người Menshevik và Cách mạng-Xã hội chủ nghĩa chiếm đa số trong Xô viết Petrograd đã gây sức ép lên chính phủ lâm thời nhằm bình thường hóa quan hệ với những người Bolshevik.[137] Uy tín của phái Menshevik lẫn phái Cách mạng-Xã hội chủ nghĩa đang ngày càng suy giảm bởi liên minh của họ với Chính phủ Lâm thời có chính sách tiếp diễn chiến tranh vốn không được lòng dân. Phái Bolshevik thừa cơ này để lăng xê nhà Marxist thân Bolshevik là Trotsky lên nắm quyền trong Xô-viết Petrograd.[138] Tới tháng 9 thì Bolshevik đã chiếm đa số trong Xô viết Moskva và Petrograd.[139]
Nhận ra mọi sự đã lắng xuống, Lenin quay về Petrograd.[140] Tại đây ông tham gia cuộc họp của Ban Chấp hành Trung ương Bolshevik vào ngày 10 tháng 10, nơi ông tiếp tục vận động tổ chức một cuộc khởi nghĩa vũ trang nhằm lật đổ Chính phủ Lâm thời; lần này với 10 phiếu thuận và 2 phiếu chống.[141] Zinoviev và Kamenev phản đối quyết định này, cho rằng công nhân sẽ không ủng hộ một cuộc khởi nghĩa bạo lực chống chính quyền và hơn nữa cũng chẳng có bằng chứng nào cho thấy một cuộc cách mạng vô sản sẽ xảy ra ở châu Âu như Lenin dự đoán.[142] Đảng lên kế hoạch cho cuộc tấn công, tổ chức cuộc họp chốt tại Viện Smolny vào ngày 24 tháng 10.[143] Đây là đại bản doanh của Ủy ban Cách mạng Quân sự (MRC), một nhóm dân quân vũ trang, phần lớn trung thành với Bolshevik, được thành lập bởi Xô-viết Petrograd trong cuộc binh biến của Kornilov.[144]
Tháng 10, MRC được lệnh chiếm đóng các trụ sở giao thông, liên lạc, in ấn, và chế tác tiện ích của Petrograd, hoàn thành nhiệm vụ mà không đổ một giọt máu.[145] Bolshevik vây hãm lực lượng chính phủ cố thủ trong Cung điện Mùa đông, công hạ nó và bắt giữ các bộ trưởng sau khi tàu tuần tiễu Rạng Đông, điều khiển bởi các thủy thủ Bolshevik, bắn phát đạn mã tử để ra hiệu khởi đầu cho cuộc cách mạng.[146] Lenin thông báo cho Xô-viết Petrograd rằng Chính phủ Lâm thời đã bị lật đổ.[147] Phái Bolshevik tuyên bố thành lập Hội đồng Dân ủy (Совет народных комиссаров - Совнарком, СНК; chuyển tự Sovnarkom, SNK). Lenin ban đầu khước từ chức Chủ tịch, đề cử Trotsky thay thế, song những người Bolshevik nhất quyết bầu Lenin và ông đành thuận theo.[148] Lenin và những người Bolshevik sau đó tham gia Đại hội Xô viết toàn Nga trong hai ngày 26 và 27 tháng 10, công bố chính quyền mới. Phái Menshevik chỉ trích kịch liệt cuộc đảo chính bất hợp pháp và báo động nguy cơ một cuộc nội chiến sắp nổ ra.[149] Lenin và những người Bolshevik kỳ vọng một cuộc cách mạng vô sản quét qua châu Âu trong vài tuần hoặc vài tháng tới.[150]
Chính quyền của Lenin
Tổ chức chính quyền Xô viết: 1917–1918
Chính phủ Lâm thời trước đây đã lên kế hoạch bầu cử Quốc hội Lập hiến vào tháng 11 năm 1917; chống lại phản đối của Lenin, Sovnarkom đồng ý cho cuộc bầu cử được thông qua.[151] Phe Bolshevik nhận gần một phần tư phiếu, thua phe Cách mạng-Xã hội chủ nghĩa.[152] Lenin cho rằng kết quả bầu cử chưa phản ánh thực chất ý chí của nhân dân, rằng những người bỏ phiếu chưa hiểu rõ cương lĩnh chính trị của Bolshevik, và cáo buộc danh sách ứng cử đã được sắp đặt trước thời điểm những người Cách mạng-Xã hội Tả khuynh tách khỏi Cách mạng-Xã hội chủ nghĩa.[153] Dù vậy, Quốc hội Lập hiến mới của Nga vẫn tụ họp ở Petrograd vào tháng 1 năm 1918.[154] Sovnarkom cáo buộc hành động này là phản cách mạng do nó có ý định gạt bỏ quyền lực khỏi tay các xô viết; phe Cách mạng-Xã hội chủ nghĩa và Menshevik bác bỏ cáo buộc đó.[155] Bolshevik kiến nghị lên Quốc hội đòi bài trừ quyền pháp lý của nó; sau khi Quốc hội từ chối, Sovnarkom tuyên bố hành đông này rõ ràng mang tính chất phản cách mạng và giải tán cơ quan này bằng vũ lực.[156]
Lenin khước từ những đề nghị liên tiếp, từ cả những người Bolshevik, thúc giục ông liên liên minh với các đảng xã hội chủ nghĩa khác.[157] Tuy chối bỏ hiệp đồng với những người Menshevik hoặc Cách mạng-Xã hội chủ nghĩa, Sovnarkom vẫn nhượng bộ chút ít và cho phái Cách mạng-Xã hội chủ nghĩa Tả khuynh nắm giữ 5 vị trí trong nội các vào tháng 12 năm 1917. Liên minh này chỉ tồn tại bốn tháng cho tới tháng 3 năm 1918, khi những người Cách mạng-Xã hội chủ nghĩa Tả khuynh rút khỏi chính phủ do bất đồng với ý kiến của phái Bolshevik về Thế chiến thứ nhất.[158] Tại Đại hội lần 7 vào tháng 3 năm 1918, Bolshevik đổi tên từ Đảng Lao động Dân chủ Xã hội Nga thành Đảng Cộng sản Nga, sở dĩ bởi Lenin muốn tách biệt họ với Đảng Dân chủ Xã hội Đức đang ngày càng theo chủ nghĩa xét lại, đồng thời nhấn mạnh mục đích tối thượng của Bolshevik là xây dựng xã hội cộng sản.[159]

Tuy quyền lực tuyệt đối trên lý thuyết nằm trong tay chính phủ được thay mặt bởi Sovnarkom và Ủy ban Điều hành (VTSIK) do Đại hội Xô viết toàn Nga (ARCS) tuyển cử, thực chất thì Đảng Cộng sản mới nắm giữ mọi quyền hành, điều mà ai bấy giờ cũng hiểu rõ.[160] Tới năm 1918, Sovnarkom đã trở nên rất lớn mạnh còn ARCS và VTSIK thì bị lép vế trầm trọng,[161] thế nên các xô viết không nắm thực quyền nào đối với Nga.[162] Trong năm 1918 và 1919, chính phủ dần loại bỏ phe Menshevik và Cách mạng-Xã hội chủ nghĩa khỏi các xô viết.[163] Nga giờ đây đã trở thành quốc gia độc đảng.[164]
Hai cơ quan mới là Bộ Chính trị (Politburo) và Cục Tổ chức (Orgburo) đã được thành lập trong nội bộ Đảng để phối hợp với Ban Chấp hành Trung ương; quyết định đưa ra bởi các cơ quan đảng này phải được chấp nhận bởi Sovnarkom và Hội đồng Lao động và Quốc phòng.[165] Lenin là nhân vật quan trọng nhất trong cấu trúc chính trị này do ông là người giữ cương vị Chủ tịch của Sovnarkom và giữ một ghế trong Hội đồng Lao động và Quốc phòng, cũng như trong Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị của Đảng Cộng sản.[166] Người có quyền lực gần bằng Lenin lúc này là cánh tay phải đắc lực của ông, Yakov Sverdlov, mất vào tháng 3 năm 1919 trong đại dịch cúm.[167] Tháng 11 năm 1917, Lenin và vợ chuyển đến sống ở hai phòng ngủ của Viện Smolny; trong tháng sau họ đi nghỉ ở Halila, Phần Lan.[168] Tháng 1 năm 1918, Lenin suýt bị ám sát ở Petrograd; Fritz Platten đã chắn đạn cho ông và bị thương nặng.[169]
Quan ngại về mối đe dọa của quân Đức đối với thủ đô Petrograd, Sovnarkom di dời tới Moskva vào tháng 3 năm 1918, ban đầu chỉ mang tính chất phòng bị.[170] Lenin, Trotsky, và các thủ lĩnh Bolshevik chuyển vào sinh hoạt tại Điện Kremlin, nơi Lenin ở chung với vợ và em gái Maria trong căn phòng ở tầng một ngay bên cạnh phòng họp của Sovnarkom.[171] Lenin chưa từng thích Moskva,[172] song ông hiếm khi ra ngoài thành phố suốt phần đời còn lại.[173] Ông may mắn sống sót qua một vụ ám sát nữa tại Moskva vào tháng 8 năm 1918; ông bị bắn trọng thương sau một bài phát biểu trước công chúng.[174] Một người Cách mạng-Xã hội chủ nghĩa tên là Fanny Kaplan bị bắt và xử tử.[175] Cuộc tấn công được báo chí Nga lan truyền rầm rộ, góp phần dâng cao cảm tình của công chúng đối với Lenin và tăng thêm uy tín cho ông.[176] Tháng 9 năm 1918, ông tới Gorki Leninskiye để nghỉ dưỡng, ngay ngoại ô Moskva, mới được quốc hữu hóa bởi chính phủ bấy giờ.[177]
Cải cách kinh tế, pháp luật và xã hội: 1917–1918
Chính quyền xô-viết sẽ đề nghị với nhân dân tất cả các nước ký ngay tức khắc một hòa ước dân chủ và đình chiến ngay tức khắc trên tất cả các mặt trận. Chính quyền xô-viết sẽ đảm bảo chuyển giao lại cho các ủy ban nông dân xử lý những ruộng đất của bọn địa chủ, của các thái ấp và của các nhà tu, mà không phải bồi thường gì cả; sẽ bênh vực các quyền lợi của binh sĩ bằng cách tiến hành dân chủ hóa hoàn toàn quân đội; sẽ thiết lập chế độ kiểm soát của công nhân đối với sản xuất; sẽ đảm bảo kịp thời triệu tập Quốc hội lập hiến; sẽ chăm sóc việc cung cấp lương thực cho thành thị và các nhu yếu phẩm cho nông thôn; sẽ đảm bảo cho tất cả các dân tộc sống trên lãnh thổ nước Nga quyền thật sự được tự quyết ... Cách mạng muôn năm!
—Cương lĩnh chính trị của Lenin ngày 24 tháng 11 năm 1917, trích từ Lenin (2006a:11-12)
Ngay sau khi tiếm quyền, chế độ của Lenin ban hành một loạt các nghị định. Đầu tiên là Nghị định về đất, tuyên bố rằng đất của quý tộc và Giáo hội Chính thống phải được quốc hữu hóa và được tái phân phối cho các chính phủ địa phương. Điều này trái ngược với nguyện vọng của Lenin nhằm tập thể hóa đất canh tác. Song điều này đã cho chính quyền các cấp một nhận thức đúng đắn về việc trưng dụng đất cho nhân dân đã xảy ra sẵn từ trước.[178] Tháng 11 năm 1917, chính phủ ban hành Nghị định về Báo chí nhằm đóng cửa các hãng báo bị coi là phản cách mạng. Họ khẳng định điều này chỉ là tạm thời; nghị định này bị chỉ trích gay gắt, kể cả từ phía Bolshevik, do vi phạm quyền tự do báo chí.[179]
Tháng 11 năm 1917, Lenin cho ra đời bản Tuyên ngôn về Quyền của Nhân dân Nga, trong đó khẳng định các nhóm dân tộc phi-Nga dưới nền Cộng hòa có quyền li khai và gây dựng nền độc lập của riêng họ.[180] Theo đó, nhiều dân tộc đã tuyên bố độc lập và tách khỏi Nga (Phần Lan và Litva vào tháng 12 năm 1917, Latvia và Ukraina vào tháng 1 năm 1918, Estonia vào tháng 2 năm 1918, Liên Kavkaz vào tháng 4 năm 1918, và Ba Lan vào tháng 11 năm 1918).[181] Đảng Bolshevik chủ động quảng bá các đảng cộng sản mới ở các quốc gia non trẻ này.[182] Đồng thời vào tháng 7 năm 1918, Đại hội lần thứ 5 của Xô viết toàn Nga chính thức phê chuẩn hiến pháp tái lập Cộng hòa Nga thành Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Liên bang Nga.[183] Nhằm hiện đại hóa đất nước, chính phủ không sử dụng lịch Julius nữa mà chuyển sang dùng lịch Gregorius giống các quốc gia châu Âu khác.[184]
Tháng 11 năm 1917, Sovnarkom ban hành nghị định bãi bỏ hệ thống pháp luật của Nga, kêu gọi vận dụng "lương tâm cách mạng" thay thế pháp luật.[185] Tòa án được thay bằng hệ thống hai bậc, cụ thể bao gồm Tòa án Cách mạng chuyên xử các vụ án phản cách mạng[186] và Tòa án Nhân dân chuyên xử các vụ án dân sự hoặc hình sự. Hệ thống này xét xử không dựa trên bộ luật cũ, mà dựa trên các nghị định của Sovnarkom và cái gọi là "tinh thần chính nghĩa xã hội chủ nghĩa."[187] Quân đội được tái tổ chức toàn diện vào tháng 11; Sovnarkom thi hành các biện pháp cào bằng, bãi bỏ các chức hàm, chức danh, huân chương, và kêu gọi binh sĩ tự thành lập các ủy ban để bầu ra chỉ huy.[188]

Tháng 10 năm 1917, Lenin ban hành nghị định giảm giờ làm cho toàn thể nhân dân lao động xuống còn 8 tiếng một ngày.[189] Ông tiếp tục ban hành Nghị định Giáo dục Nhân dân, đảm bảo tất cả mọi đứa trẻ ở Nga được giáo dục thế tục miễn phí,[189] và thiết lập các trại trẻ mồ côi được tài trợ bởi nhà nước.[190] Ngoài ra, chính phủ cũng cương quyết khắc phục nạn mù chữ; tầm 5 triệu nhân dân đã tham dự các lớp xóa mù chữ thần tốc từ năm 1920 đến năm 1926.[191] Ủng hộ bình đẳng giới, các đạo luật đã được thông qua nhằm giải phóng phụ nữ, trao cho họ quyền tự chủ tài chính và dỡ bỏ các hạn chế đối với việc ly hôn.[192] Bộ Zhenotdel được thành lập để thúc đẩy các chính sách nữ quyền của Bolshevik.[193] Dưới thời Lenin, Nga trở thành quốc gia đầu tiên hợp pháp hóa nạo phá thai theo yêu cầu nếu người phụ nữ đang trong kỳ tam cá nguyệt thứ nhất.[194] Lenin và Đảng Cộng sản có ý định bãi bỏ các tôn giáo có tổ chức bài bản.[195] Tháng 1 năm 1918, chính phủ ra lệnh tách rời giáo hội và nhà nước, nghiêm cấm giảng dạy tôn giáo trong nhà trường.[196]
Tháng 11 năm 1917, Lenin ban hành Nghị định Quyền kiểm soát của Công nhân, kêu gọi công nhân của các tập đoàn thành lập một ủy ban tự bầu cử để giám sát công việc quản trị của các tập đoàn.[197] Tháng đó họ cũng ra tuyên bố trưng thu kim tệ của đất nước,[198] đồng thời quốc hữu hóa ngân hàng, chính sách mà Lenin coi là bước tiến quan trọng lên xã hội chủ nghĩa.[199] Vào tháng 12, Sovnarkom lập ra Xô viết Tối cao về Kinh tế Quốc dân (VSNKh) nắm giữ quyền hành đối với các ngành công nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp, và ngân quỹ.[200] Các ủy ban nhà máy nằm dưới các công đoàn, đều trực thuộc VSNKh; hoạch định kinh tế tập trung của nhà nước được ưu tiên trước các mối quan tâm kinh tế của công nhân địa phương.[201] Đầu năm 1918, Sovnarkom xóa nợ ngoại quốc và từ chối trả lợi tức cho chủ nợ.[202] Tháng 4 năm 1918, giao thương với nước ngoài được quốc hữu hóa, độc quyền nhà nước được thiết lập đối với việc nhập khẩu và xuất khẩu.[203] Tháng 6 năm 1918, tiện ích công cộng như đường ray, ngành kỹ thuật, ngành dệt may, ngành kim thuật, và ngành đào mỏ được quốc hữu hóa, tuy hầu hết chỉ trên danh nghĩa mà thôi.[204] Công cuộc quốc hữu hóa toàn diện không được tiến hành cho đến tận tháng 11 năm 1920, thời điểm khi mà các tập đoàn công nghiệp quy mô nhỏ rơi vào tầm kiểm soát của nhà nước.[205]
Một phe bên trong Bolshevik được gọi là "Cộng sản Tả khuynh" phê phán chính sách kinh tế của Sovnarkom là quá bình thường; họ đòi quốc hữu hóa toàn bộ nền công nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp, tài chính, giao thông, và liên lạc.[206] Lenin tin rằng điều này còn quá xa vời thực tiễn, cho rằng nhà nước chỉ nên quốc hữu các tập đoàn tư bản lớn, chẳng hạn như ngân hàng, đường ray, các bất động sản lớn, nhà máy công xưởng lớn và ngành khai mỏ, còn đâu vẫn cho phép tiểu tư bản hoạt động cho tới khi chúng đủ lớn để được quốc hữu một cách thành công.[207] Lenin bất đồng với những người cộng sản tả khuynh về tổ chức kinh tế; tháng 6 năm 1918, ông lập luận cho rằng sự kiểm soát kinh tế tập trung là điều cực kỳ cấp thiết. Trái lại, phái tả khuynh lại muốn công nhân kiểm soát từng nhà máy một, cách tiếp cận công đoàn chủ nghĩa mà Lenin cho là có hại cho chủ nghĩa xã hội.[207]
Với lập trường tả khuynh tự do cá nhân chủ nghĩa, Cộng sản Tả khuynh và các phe khác trong Đảng Cộng sản chỉ trích sự tụt dốc của nền dân chủ ở Nga.[208] Trên trường quốc tế, nhiều nhà xã hội chủ nghĩa gièm pha chế độ của Lenin và bác bỏ chủ nghĩa xã hội của ông; cụ thể, họ nhấn mạnh sự thiếu vắng sự tham gia chính trị của người dân, sự góp ý từ phía người dân, và nói chung là một nền dân chủ công nghiệp.[209] Cuối năm 1918, nhà Marxist người Séc-Áo Karl Kautsky xuất bản cuốn pamfơlê phê phán bản chất phi dân chủ của Nga Xô viết, song bị Lenin đáp trả kịch liệt.[210] Nhà Marxist người Đức Rosa Luxemburg đồng thuận với Kautsky ở nhiều điểm.[211] Nhà vô chính phủ người Nga Peter Kropotkin ví cuộc đảo chính của Bolshevik như là "mồ chôn Cách mạng Nga."[212]
Hòa ước Brest-Litovsk: 1917–1918
—Lenin nói về hòa bình với Liên minh Trung tâm, tạm dịch theo Fischer (1964:193–194)
Ngay khi lên nắm quyền, Lenin tin rằng chính sách quan trọng nhất lúc này là rút khỏi Thế chiến thứ nhất bằng cách cầu hòa với Liên minh Trung tâm gồm Đức và Áo-Hung.[213] Ông tin rằng chiến tranh tiếp diễn sẽ kích động sự uất ức trong hàng ngũ binh sĩ Nga kiệt quệ vì chiến tranh, những người mà ông đã hứa là sẽ có hòa bình. Hơn nữa những binh lính này và quân Đức đều là những mối hiểm họa đối với chính quyền cách mạng và sự nghiệp xã hội chủ nghĩa quốc tế.[214] Trái lại, những người Bolshevik khác, cụ thể là Nikolai Bukharin và phe Tả khuynh Cộng sản, cho rằng hòa hoãn với Liên minh Trung tâm là hành động phản bội chủ nghĩa xã hội, thay vào đó đề xuất Nga thực hiện "một cuộc chiến bảo vệ cách mạng" mà sẽ kích động giai cấp vô sản Đức đứng lên lật đổ chính quyền.[215]
Lenin đề xuất một hòa ước ba tháng trong Nghị định về Hòa bình vào tháng 11 năm 1917, được tán thành bởi Đại hội Xô viết lần 2, gửi cho chính quyền Đức và Áo-Hung.[216] Người Đức phản ứng rất tích cực, xem đây là cơ hội để tập trung lực lượng sang Mặt trận phía Tây và ngăn chặn thất bại kề cận.[217] Tháng 11, đàm phán hòa bình diễn ra ở Brest-Litovsk, trụ sở của bộ tư lệnh tối cao ở Mặt trận phía Đông của Đức, với phái đoàn của người Nga được dẫn đầu bởi Trotsky và Adolph Joffe.[218] Song song với sự kiện này, hai bên đã thỏa thuận ngừng bắn cho tới tháng 1.[219] Trong lúc đàm phán, người Đức kiên quyết giữ các phần lãnh thổ mà họ đã chiếm được, bao gồm Ba Lan, Litva, và Courland, còn người Nga cho rằng điều này vi phạm quyền tự quyết dân tộc.[220] Một số người Bolshevik hy vọng kéo dài đàm phán để chờ cách mạng vô sản nổ ra ở châu Âu.[221] Ngày 7 tháng 1 năm 1918, Trotsky trở về Sankt-Peterburg đem theo tối hậu thư của Liên minh Trung tâm: hoặc là Nga chấp nhận yêu sách lãnh thổ của Đức, hoặc là chiến tranh sẽ tiếp diễn.[222]

Vào tháng 1 và ít lâu sau vào tháng 2, Lenin thúc giục phái Bolshevik chấp nhận điều khoản của Đức. Ông cho rằng mất mát lãnh thổ có thể chấp nhận được nếu nó đảm bảo sự sống còn của chính quyền Bolshevik. Phần lớn những người Bolshevik bác bỏ ý kiến của ông, muốn kéo dài đàm phán và cáo buộc đây là lời dối trá của Đức.[223] Ngày 18 tháng 2, Quân đội Đức thực hiện Chiến dịch Faustschlag, xâm phạm sâu hơn vào lãnh thổ do Nga kiểm soát và chinh phục Dvinsk trong vòng một ngày.[224] Tại thời điềm đó, Lenin đã thuyết phục thành công một nhóm nhỏ của Ủy ban Trung ương Bolshevik chấp nhận yêu sách của Liên minh Trung tâm.[225] Ngày 23 tháng 2, Liên minh Trung tâm ra tối hậu thư mới: hoặc là Nga công nhận Ba Lan, các quốc gia Baltic và Ukraina đều thuộc về Đức; hoặc là đối mặt với nguy cơ bị xâm lược toàn diện.[226]
Ngày 3 tháng 3, Hiệp ước Brest-Litovsk được ký kết.[227] Nga chịu thiệt về lãnh thổ, trong đó bao gồm 26% dân số của cựu Đế quốc, 37% diện tích đất canh tác, 28% tiềm năng công nghiệp, 26% đường ray, 3/4 nguồn quặng than và sắt, đều bị mất cho Đức.[228] Hiệp ước này nhận phải phản ứng trái chiều trên khắp phổ chính trị,[229] nhiều người Bolshevik và Cách mạng-Xã hội chủ nghĩa từ chức Sovnarkom để phản đối.[230] Sovnarkom sau đó tập trung vào chiến dịch kích động cách mạng vô sản ở Đức, cho ấn hành hàng loạt sách báo phản chiến và chống chính quyền trên lãnh thổ Đức; chính phủ Đức đáp trả bằng cách trục xuất các nhà ngoại giao Nga.[231] Dẫu vậy, Liên minh Trung tâm vẫn không tránh được thất bại; vào tháng 11 năm 1918, Hoàng đế Đức Wilhelm II thoái vị và chính phủ thay thế ký kết Hòa ước với phe Đồng minh. Vì lẽ ấy, Sovnarkom tuyên bố Hiệp ước Brest-Litovsk rốt cuộc chẳng đạt được mục đích gì.[232]
Chống Kulak, Cheka, và Khủng bố Đỏ: 1918–1922
—Lenin nói về Khủng bố Đỏ, tạm dịch từ Volkogonov (1994:182)
Đầu năm 1918, nhiều thành phố ở phía tây Nga đối mặt với nạn đói do thiếu thốn lương thực dai dẳng.[233] Lenin lên án những kulak, tức tầng lớp phú nông ở Nga thời xưa, đã cố tình tích trữ ngũ cốc do họ sản xuất để tăng giá trị trao đổi trên thị trường. Tháng 5 năm 1918, ông lệnh cho quân dân vũ trang đi trưng thu ngũ cốc của kulak để đưa lên thành phố phân phối. Vào tháng 6, ông phát động thành lập Ủy ban Bần cố nông để viện trợ chiến dịch chống kulak.[234] Chính sách đã gây ra bất ổn xã hội lớn và khiến bạo lực lan rộng bởi lẽ các toán vũ trang thường hay ẩu đả với nông dân, góp phần làm tăng nguy cơ nổ ra một cuộc nội chiến thực sự.[235] Một trong những ví dụ điển hình nhất cho thấy sự kiên quyết lập trường của Lenin đó là bức điện tháng 8 năm 1918 gửi tới các Bolshevik ở Penza. Trong đó, ông hiệu triệu lực lượng địa phương dập tắt một cuộc nổi dậy nông dân bằng cách treo cổ làm gương ít nhất 100 "tên kulak, trọc phú, [và] lũ hút máu."[236]
Cuộc trưng thu ngũ cốc hà khắc của Lenin đã khiến nhiều nông dân thoái chí và không dám sản xuất vượt hơn số ngũ cốc họ tiêu thụ, hệ quả là sản lượng nông nghiệp sa sút tụt hậu.[237] Thị trường chợ đen bùng nổ đã bù trừ cho nền kinh tế bị nhà nước hạn chế.[238] Điều này đã khiến Lenin phải ban bố lệnh xử bắn những kẻ đầu cơ tích trữ, thương nhân chợ đen và trộm cướp.[239] Hai phái Cách mạng-Xã hội chủ nghĩa và Cách mạng-Xã hội chủ nghĩa Tả khuynh đã lên án chính sách trưng thu ngũ cốc bằng vũ lực của Bolshevik tại Đại hội Toàn Nga lần thứ 5 của Xô-viết vào tháng 7 năm 1918.[240] Nhận ra rằng Ủy ban Bần cố nông đôi khi xử tử cả nông dân không phải kulak, khiến tầng lớp này ngờ vực chính phủ, Lenin đành bãi bỏ chiến dịch vào tháng 12 năm 1918.[241]
Lenin liên tục nhấn mạnh sự cần thiết của chiến dịch khủng bố và bạo lực nhằm xóa bỏ trật tự cũ, cũng như đảm bảo thắng lợi cho công cuộc cách mạng.[242] Phát biểu trước Ủy ban Chấp hành Trung ương Toàn Nga Xô-viết vào tháng 11 năm 1917, ông tuyên bố rằng "nhà nước là một thiết chế được xây dựng nhằm thực thi bạo lực. Trước đó, bạo lực này được thực thi bởi lũ tham ô thiểu số đứng trên đầu toàn bộ nhân dân; giờ đây chúng ta muốn [...] tổ chức lại bạo lực đó nhân danh lợi ích của nhân dân."[243] Ông cực lực phản đối ý kiến bãi bỏ án tử hình.[244] Lo sợ các thế lực chống phá Bolshevik sẽ âm mưu lật đổ chính quyền, Lenin cho thành lập lực lượng cảnh sát chính trị Cheka vào tháng 12 năm 1917, lãnh đạo bởi Felix Dzerzhinsky.[245]

Tháng 9 năm 1918, Sovnarkom thông qua nghị quyết khánh thành cuộc Khủng bố Đỏ, một hệ thống áp chế thi hành bởi Cheka.[246] Tuy đôi khi được coi là công cụ để diệt trừ toàn bộ giai cấp tư sản,[247] Lenin thực chất không có ý định quét sạch hoàn toàn giai cấp này, mà chỉ nhắm chủ yếu vào những thành phần có tư tưởng muốn tái lập trật tự cũ.[248] Phần lớn nạn nhân của cuộc khủng bố là công dân giàu có hoặc là thành viên của chế độ Sa hoàng năm xưa;[249] trong đó cũng có cả những người chống tư sản bất đồng với Bolshevik và những thành phần xã hội lưu manh như đĩ điếm.[250] Cheka được ủy quyền xét xử và thi hành án đối với bất cứ thành phần nào thể hiện tư tưởng chống đối chính quyền mà không cần hỏi ý kiến của Tòa án Cách mạng.[251] Theo đó, tổ chức này đã xử tử rất nhiều người trên khắp Nga Xô viết, thường hàng loạt theo số đông.[252] Chẳng hạn như lực lượng Cheka ở Petrograd đã xử tử 512 người trong vòng vài ngày.[253] Không có tư liệu chính xác nào còn sót lại về số người chết trong cuộc Khủng bố Đỏ;[254] ước tính của các nhà sử học đời sau thường rơi vào tầm 10.000-15.000 người,[255] hoặc 50.000-140.000.[256]
Lenin chưa từng tận mắt chứng kiến hay tham gia vào chiến dịch khủng bố,[257] công khai cách li khỏi nó.[258] Các bài viết được xuất bản và diễn văn của Lenin rất hiếm khi nhắc đến xử tử, mà ông thường chỉ nói về điều này trong các bức điện mã hóa hoặc các bức mật thư.[259] Nhiều người Bolshevik tỏ ra e ngại trước các cuộc hành quyết hàng loạt của Cheka và sự vô trách nhiệm dễ thấy của tổ chức này.[260] Đảng Cộng sản đã cố gắng hạn chế hoạt động của Cheka vào tháng 2 năm 1919, tước bỏ quyền phán xử của Cheka ở những khu vực không có thiết quân luật, song tổ chức này vẫn tiếp tục hoành hành khắp đất nước.[261] Tới năm 1920, Cheka đã trở thành một thế lực hùng mạnh ở Nga Xô-viết, ảnh hưởng sâu sắc đến nhiều nhánh của bộ máy nhà nước.[262]
Một nghị định tháng 4 năm 1919 đã hạ lệnh thành lập các trại tập trung ủy thác cho Cheka,[263] sau được điều hành bởi cơ quan chính phủ mới gọi là Gulag.[264] Cuối năm 1920, 84 khu trại đã được thiết lập khắp Nga Xô viết, chứa tầm 50.000 tù nhân; tới tháng 10 năm 1923, số lượng tăng lên 315 trại và tầm 70.000 tù nhân.[265] Những người bị bắt được tận dụng làm lao động cưỡng bức.[266] Tháng 7 năm 1922, trí thức được coi là chống đối chính quyền Bolshevik bị đày tới những vùng thưa thớt dân cư hoặc ra hẳn nước ngoài; Lenin đích thân xem xét kĩ lưỡng danh sách những người bị kết án theo kiểu này.[267] Tháng 5 năm 1922, Lenin ra nghị định xử tử các linh mục chống đối Bolshevik, khiến 14.000 đến 20.000 người chết theo một ước tính.[268] Giáo hội Chính thống giáo Nga bị ảnh hưởng nặng nề nhất; ngoài ra các chính sách bài tôn giáo của chính quyền cũng ảnh hưởng xấu đến các giáo hội Công giáo La mã, Tin Lành, Do Thái giáo, và Hồi giáo.[269]
Nội chiến và xung đột với Ba Lan: 1918–1920
—Lenin nói về chiến tranh, tạm dịch theo Pipes (1990:610)
Lenin đã lường trước rằng tầng lớp quý tộc và tư sản Nga sẽ hiệp đồng với nhau để chống lại chính quyền cách mạng, song ông tin rằng lợi thế số lượng lớn hơn của tầng lớp thấp, cộng với khả năng tổ chức quân đội hiệu quả của Bolshevik, sẽ đảm bảo chiến thắng cuối cùng cho họ.[270] Tuy nhiên, Lenin đã không đoán được cường độ chống đối mãnh liệt như thế nào từ phe chống Bolshevik.[270] Nội chiến Nga tiếp đó chủ yếu là cuộc đối đầu giữa phe Hồng quân ủng hộ Bolshevik và phe Bạch vệ chống Bolshevik; song nó cũng bao gồm các cuộc chiến giành độc lập của các dân tộc ở biên giới phía Tây, các lực lượng nông dân đơn lập lẻ tẻ, và Quân Lục, trên khắp cựu lãnh thổ của Đế quốc Nga.[271] Vì vậy, các nhà sử học đánh giá cuộc chiến này thực chất ẩn chứa bên trong hai xung đột riêng lẻ: một là giữa phe cách mạng và phản cách mạng, hai là giữa các phe cách mạng đối chọi lẫn nhau.[272]
Quân Bạch vệ được sáng lập bởi các sĩ quan quân đội dưới chế độ Sa hoàng cũ,[273] bao gồm Tình nguyện quân của Anton Denikin ở miền Nam nước Nga,[274] lực lượng của Alexander Kolchak ở Siberi,[275] và lực lượng của Nikolai Yudenich ở các nước Baltic mới độc lập.[276] Bạch vệ được hỗ trợ bởi 35.000 binh lính của Quân đoàn Séc, khi trước là tù binh chiến tranh của Liên minh Trung tâm, quay ra phản bội Sovnarkom và hiệp đồng với tổ chức chống Bolshevik gọi là Ủy ban các Thành viên của Quốc hội Lập hiến (Komuch) ở Samara.[277] Hơn nữa, Bạch vệ được hậu thuẫn bởi các cường quốc phương Tây, những người coi Hiệp ước Brest-Litovsk là sự phản bội nỗ lực chiến tranh của Đồng minh và lo sợ nguy cơ cách mạng lan rộng thông qua lời hiệu triệu Bolshevik.[278] Năm 1918, 10.000 lính Anh, Pháp, Mỹ, Canada, Ý, và Serbia đổ bộ tại Murmansk, nhanh chóng chiếm cứ Kandalaksha. Cũng trong năm đó, các lực lượng Anh, Mỹ, và Nhật đổ bộ tại Vladivostok.[279] Quân phương Tây rốt cuộc rút khỏi cuộc chiến, chỉ đứng sau trợ cấp kĩ thuật viên và đạn dược cho Bạch vệ; tuy vậy Nhật Bản vẫn kiến định tham chiến với tham vọng mở rộng lãnh thổ.[280]
Lenin ủy thác cho Trotsky thành lập Hồng quân Công Nông, và với sự ủng hộ của Lenin, Trotsky thành lập thêm Hội đồng Quân sự Cách mạng vào tháng 9 năm 1918, giữ chức chủ tịch cho tới năm 1925.[281] Nhận thức rõ kinh nghiệm chinh chiến của các sĩ quan chế độ cũ, Lenin cho phép họ tham gia lãnh đạo Hồng quân dưới sự giám sát của Trotsky.[282] Hồng quân nắm giữ hai thành phố lớn nhất của Nga lúc bấy giờ là Moskva và Petrograd, cùng hầu hết khu vực trung tâm của Nga, trong khi đó Bạch vệ chỉ kiểm soát các phần lãnh thổ biên viễn.[283] Lực lượng Bạch vệ do vậy bị phân mảnh và cản trở bởi địa lý,[284] hơn nữa họ cũng không có được sự ủng hộ của các dân tộc thiểu số do tư tưởng thượng đẳng chủng tộc của lính Nga.[285] Đồng thời, quân chống Bolshevik thực thi chiến dịch Khủng bố Trắng nhằm diệt trừ những kẻ ủng hộ Bolshevik, phần lớn mang tính tự phát chứ không có tổ chức như cuộc Khủng bố Đỏ.[286] Cả hai phe tham chiến đều đã thực hiện nhiều vụ tấn công chống lại cộng đồng Do Thái; tội ác mà bị Lenin chỉ trích kịch liệt, cho rằng sự bài thị Do Thái bắt nguồn từ tuyên truyền của tư bản.[287]

Tháng 7 năm 1918, Sverdlov thông báo cho Sovnarkom rằng Xô viết Khu vực Ural đã hành quyết vị cựu Sa hoàng cùng thân tộc của ông ở Yekaterinburg để không cho họ rơi vào tay Bạch vệ.[288] Tuy thiếu bằng chứng, các nhà viết tiểu sử và sử học như Richard Pipes và Dmitri Volkogonov suy đoán rằng người ra mệnh lệnh có lẽ là Lenin.[289] Nhà sử học James Ryan phản đối cho rằng "không lý" gì để tin vào chuyện này.[290] Dù gì đi chăng nữa, Lenin vẫn coi cuộc hành quyết này là cần thiết, viện dẫn ví dụ về vụ hành quyết Louis XVI trong Cách mạng Pháp.[291]
Sau Hiệp ước Brest-Litovsk, phái Cách mạng-Xã hội chủ nghĩa Tả khuynh từ bỏ liên minh và ngày càng thù ghét phái Bolshevik.[292] Tháng 7 năm 1918, nhà Cách mạng-Xã hội chủ nghĩa Tả khuynh Yakov Blumkin ám sát đại sứ Đức được cử tới Nga là Wilhelm von Mirbach, hi vọng sự biến sẽ kích động một cuộc chiến cách mạng mới chống lại Đức.[293] Phái Cách mạng-Xã hội chủ nghĩa Tả khuynh sau đó thực hiện một cuộc đảo chính ở Moskva, pháo kích Điện Kremlin rồi chiếm đóng bưu điện trung tâm của thành phố, trước khi bị trấn áp bởi lực lượng của Trotsky.[294] Các thủ lĩnh và đảng viên thuộc phái này bị bắt giữ và bỏ tù, song họ được đối xử mềm mỏng hơn những kẻ thù khác của Bolshevik.[295]
Tới năm 1919, Bạch vệ đã thất thế trầm trọng, tới đầu năm 1920 đã bị đánh tan tác trên mọi mặt trận.[296] Tuy Sovnarkom giành được thắng lợi, lãnh thổ Nga đã bị thu nhỏ do các nhóm sắc tộc bên trong Nga thừa cơ tuyên bố độc lập.[297] Một vài trường hợp (ví dụ như các quốc gia ở phía đông-bắc của châu Âu là Estonia, Latvia, Litva, và Phần Lan) được Xô viết chính thức công nhận độc lập và thỏa thuận hòa ước.[298] Các trường hợp khác bị Hồng quân đàn áp thẳng tay; tới năm 1921, phong trào dân tộc Ukrainia đã bị đè bẹp và dãy Kavkaz đã trở lại quyền kiểm soát của Nga, tuy nhiên xung đột vẫn tiếp diễn ở Trung Á cho tới cuối những năm 1920.[299]
Sau khi quân đoàn Ober Ost của Đức rút khỏi Mặt trận phương Đông theo đúng Hòa ước, quân đội Nga Xô viết và Ba Lan bèn tiến vào để khỏa lấp khoảng trống quyền lực.[300] Nước Ba Lan non trẻ và chính quyền Xô viết đều có ý định mở rộng lãnh thổ tại đây.[301] Lính Ba Lan và Nga đụng độ lần đầu tiên vào tháng 2 năm 1919,[302] leo thang thành chiến tranh Ba Lan-Xô viết.[303] Không giống các cuộc chiến trước, cuộc chiến này đóng vai trò quan trọng trong việc xuất khẩu cách mạng sang các nước châu Âu khác.[304] Quân Ba Lan đánh lấn sang Ukraina và tới tháng 5 năm 1920 đã chiếm được Kiev từ tay Xô viết.[305] Sau khi đánh lui Quân đội Ba Lan, Lenin kêu gọi Hồng quân xâm lược Ba Lan với niềm tin rằng giai cấp vô sản của đất nước này sẽ vùng lên ủng hộ quân Nga và châm ngòi cho một cuộc cách mạng. Trotsky và các Bolshevik khác tỏ ra ngờ vực, song vẫn tiến hành cuộc xâm lược. Giai cấp vô sản Ba Lan đã không nổi dậy, và Hồng quân hứng chịu thất bại nặng nề tại Trận Warsaw.[306] Quân Ba Lan đẩy lùi Hồng quân về lãnh thổ Nga, buộc Sovnarkom cầu hòa; cuộc chiến khép lại với Hòa ước Riga, theo đó Nga phải nhượng đất cho Ba Lan.[307]
Đệ tam Quốc tế Cộng sản và cách mạng toàn cầu: 1919–1920

Sau Hòa ước ở Mặt trận phía Tây, Lenin tin rằng cuộc cách mạng ở châu Âu sớm muộn sẽ đến.[308] Chớp thời cơ này, Sovnarkom hậu thuẫn cho sự thành lập chính phủ xô viết Hungary của Béla Kun vào tháng 3 năm 1919, kèm theo đó là chính quyền xô viết ở Bayern và hàng loạt các cuộc nổi dậy xã hội chủ nghĩa khác ở Đức, bao gồm cuộc nổi dậy của Liên đoàn Spartacus.[309] Trong Nội chiến Nga, Hồng quân đã được được cử tới các đất nước non trẻ mới giành độc lập để hỗ trợ phái Marxist thành lập các chính phủ kiểu xô viết.[310] Ở châu Âu, điều này đã góp phần tạo dựng các chính phủ cộng sản ở Estonia, Latvia, Litva, Belarus, và Ukraina, tất cả đều độc lập với Nga,[310] còn về phía viễn đông thì đã góp phần tạo nên chính phủ cộng sản Ngoại Mông.[311] Nhiều thành viên cốt cán của Bolshevik muốn sáp nhập những vùng này vào Nga; Lenin nhấn mạnh rằng chủ quyền quốc gia và tự quyết dân tộc cần được tôn trọng, song vẫn đảm bảo rằng những chính phủ mới này trên thực tế đều nằm dưới sự điều hành của Sovnarkom.[312]
Cuối năm 1918, Đảng Lao động Anh kêu gọi thành lập hội nghị Quốc tế Lao động và Xã hội chủ nghĩa, với sự tham gia của các đảng xã hội chủ nghĩa trên khắp thế giới.[313] Lenin cho rằng đây chẳng qua là phiên bản khác của Đệ nhị Quốc tế, nên cho thành lập một hội nghị quốc tế riêng lẻ để chống lại nó.[314] Với sự giúp đỡ của Zinoviev, Nikolai Bukharin, Trotsky, Christian Rakovsky, và Angelica Balabanoff,[314] Đại hội lần thứ nhất của Quốc tế Cộng sản (Comintern) khai mạc ở Moskva vào tháng 3 năm 1919.[315] Sự kiện này không quá đình đám trên các phương tiện truyền thông; trong số 34 đại biểu đến dự, 30 đại biểu xuất thân từ cựu lãnh thổ của Đế quốc Nga, và hầu hết các đại biểu quốc tế không được công nhận chính thức là thành viên của các đảng xã hội chủ nghĩa ở nước nhà.[316] Phái Bolshevik vì vậy áp đảo hoàn toàn tại hội nghị.[317] Lenin sau đó thông qua một loạt các quy định, chỉ cho phép các đảng xã hội chủ nghĩa theo quan điểm Bolshevik tham dự Comintern.[318] Ở kỳ họp thứ nhất, Lenin đã trò chuyện với nhiều đại biểu, công kích tư tưởng dân chủ nghị viện đi lên xã hội chủ nghĩa của phái Marxist xét lại như Kautsky, và tiếp tục kêu gọi cách mạng bạo lực nhằm lật đổ các chính phủ tư sản trên khắp châu Âu.[319] Mặc dù Zinoviev giữ ghế chủ tịch của Comintern, Lenin vẫn cực kỳ có sức ảnh hưởng.[320]
Đại hội lần hai của Quốc tế Cộng sản khai mạc ở Viện Smolny vào tháng 7 năm 1920; lần cuối cùng Lenin rời khỏi Moskva.[321] Tại đây, ông khuyến khích các đại biểu ngoại quốc noi gương cuộc đảo chính thành công của Bolshevik, và đồng thời từ bỏ quan điểm bấy lâu cho rằng chủ nghĩa tư bản là giai đoạn cần thiết trong tiến trình phát triển xã hội, thay vào đó, khuyến khích các dân tộc dưới ách thực dân chủ động chuyển biến xã hội tiền-tư bản ở nước nhà thành xã hội chủ nghĩa.[322] Lenin viết tác phẩm Bệnh ấu trĩ "Tả khuynh" trong phong trào cộng sản dành riêng cho dịp này, một cuốn sách ngắn đả kích các thành phần bên trong đảng cộng sản Anh và Đức cố chấp từ chối gia nhập các nghị viện quốc gia và các tổ chức công đoàn; ông mong muốn họ chấp thuận để giúp đỡ sự nghiệp cách mạng.[323] Hội nghị bị trì hoãn vài ngày do cuộc chiến đang diễn ra với Ba Lan,[324] sau phải tiếp tục chương trình ở Moskva, kéo dài tới tháng 8.[325] Cuộc cách mạng toàn cầu trong dự đoán của Lenin rốt cuộc chẳng bao giờ tới; chính phủ cộng sản ở Hungary bị lật đổ và các cuộc khởi nghĩa Marxist ở Đức bị đàn áp.[326]
Nạn đói và Chính sách Kinh tế Mới: 1920–1922
Trong nội bộ Đảng Cộng sản phát sinh hai bè phái bất đồng chính kiến mới là Nhóm Tập trung Dân chủ và Đối lập Công nhân; cả hai phe đều cho rằng nước Nga đang trở nên quá tập trung và quan liêu.[327] Phái Đối lập Công nhân, có quan hệ của họ với các công đoàn nhà nước chính thức, bảy tỏ rằng giai cấp công nhân đang dần mất đi sự tin tưởng vào nhà nước.[328] Họ đã rất phẫn nộ khi biết tin Trotsky định bãi bỏ công đoàn. Ông ta cho rằng công đoàn là tổ chức thừa thãi trong một "nhà nước của công nhân", song Lenin bất đồng với ý kiến này; phần lớn những người Bolshevik ủng hộ quan điểm của Lenin trong cuộc tranh cãi.[329] Tại Đại hội Đảng lần thứ 10 diễn ra vào tháng 3 năm 1921, Lenin ra nghị quyết nghiêm cấm chia bè kết phái nội bộ, ai không tuân thủ sẽ bị khai trừ khỏi Đảng.[330]
Sức khỏe suy sụp và lục đục với Stalin: 1920–1923

Lenin hổ thẹn khi đảng Bolshevik tổ chức lễ mừng sinh nhật thứ 50 cho ông vào tháng 4 năm 1920, sự kiện mà cũng được tôn vinh khắp nước Nga bằng các bài thơ và tiểu sử dành riêng cho ông.[331] Giữa năm 1920 và 1926, toàn bộ 20 tập của công trình hợp tuyển Lenin được ấn hành; tuy vẫn có một số tư liệu bị cắt bỏ.[332] Trong năm 1920, nhiều nhân vật phương Tây sang Nga để thăm Lenin; họ bao gồm nhà văn H. G. Wells, triết gia Bertrand Russell,[333] nhà hoạt động vô chính phủ Emma Goldman và Alexander Berkman.[334] Armand, bấy giờ đã yếu đi nhiều, cũng tới thăm Lenin tại Điện Kremlin.[335] Ông khuyên bà đi điều dưỡng ở Kislovodsk để chóng hồi phục; song bà mất tại đó vào tháng 9 năm 1920 sau một trận dịch tả.[336] Thi hài Armand được đưa về Moskva và chôn cất tại Tường Điện Kremlin trước sự chứng kiến của một Lenin muộn phiền.[337]
Lenin đổ bệnh nặng cuối năm 1921,[338] trở nên nhạy cảm với âm thanh, mất ngủ, và đau đầu thường xuyên.[339] Theo khuyến nghị của Bộ Chính trị, ông rời Moskva để lui về dinh thự Gorki dưỡng bệnh vào tháng 7, nơi ông được vợ và em gái chăm sóc chu đáo.[340] Lenin bắt đầu nghĩ quẩn đến việc tự sát, hỏi Krupskaya và Stalin cho ông kali cyanide để kết liễu cuộc đời.[341] Hai mươi sáu vị bác sĩ đã được thuê để theo dõi bệnh tình của Lenin vào những năm cuối đời; một số là người ngoại quốc.[342] Có ý kiến cho rằng bệnh tình của Lenin bắt nguồn từ sự oxi hóa các mảnh đạn găm trong người từ vụ mưu sát năm 1918; khiến ông phải trải qua cuộc phẫu thuật vào tháng 4 năm 1922.[343] Các triệu chứng tiếp diễn sau đó đã làm các bác sĩ rất bối rối; có lẽ ông đã mắc phải bệnh suy nhược thần kinh hoặc xơ vữa động mạch não, thậm chí có đồn đoán cho rằng ông bị giang mai. Tháng 5 năm 1922, ông bị đột quỵ, mất khả năng nói tạm thời và bị liệt phần thân bên phải.[344] Sức khỏe Lenin đã hồi phục tương đối vào tháng 7.[345] Ông quay về Moskva vào tháng 10; tuy nhiên trong tháng 12, ông đột quỵ lần nữa và lại phải lui về Gorki.[346]

Bất chấp sức yếu, Lenin vẫn rất quan tâm đến các vấn đề chính trị. Khi giới lãnh đạo của Đảng Cách mạng Xã hội chủ nghĩa bị bê bối bày đặt âm mưu chống chính quyền trong một phiên tòa diễn ra giữa tháng 6 và tháng 8 năm 1922, Lenin đã kêu gọi phải xử tử nghiêm minh những kẻ phản trắc; thay vào đó họ bị cầm tù vô thời hạn, về sau bị giết trong cuộc Đại Thanh trừng của Stalin.[347] Với sự ủng hộ của Lenin, chính phủ đã nhổ rễ hiệu quả chủ nghĩa Menshevik khỏi Nga bằng cách đào thải tất cả các thành phần Menshevik khỏi các thiết chế cũng như các tập đoàn nhà nước vào tháng 3 năm 1923 và bắt giữ các thành viên của đảng này để thuyên chuyển tới các trại tập trung.[348] Lenin lo lắng về sự tiếp diễn của một hệ thống quan liêu kiểu Sa hoàng ở Nga Xô viết,[349] nhất là vào những năm cuối đời.[350] Phê phán thái độ quan liêu cửa quyền, ông đề nghị phải cải tổ triệt để nội bộ chính quyền để tránh tệ này,[351] cảnh báo trong một bức thư rằng "chúng ta đang bị cuốn vào một vũng lầy quan liêu bẩn thỉu".[352]
Tháng 10 năm 1922, Lenin đề cử Trotsky làm phó chủ tịch thứ nhất của Hội đồng Dân ủy Nga Xô tại một cuộc họp của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, song Trotsky khước từ. Điều này thường được diễn giải là Lenin đã chọn Trotsky làm người kế thừa cương vị đứng đầu chính phủ.[353][354][355][356] Trong tháng 12 năm 1922 và tháng 1 năm 1923, cái được giới sử gia hay gọi là "Di chúc Lenin" bắt đầu được thảo, trong đó có các nhận xét về phẩm chất của những người đồng chí của ông, đặc biệt là Trotsky và Stalin.[357] Ông khuyến nghị miễn nhiệm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng của Stalin, cho rằng ông ta không hợp với vị trí này.[358] Lenin muốn đưa Trotsky lên thay thế, khen Trotsky là "người có năng lực nhất trong Ban Chấp hành Trung ương Đảng hiện thời"; Lenin nêu bật trí tuệ của Trotsky, đồng thời phê phán thói tự cao và thiên hướng cậy quyền của ông ta.[359] Trong thời kỳ này, ông cũng đọc cho thư ký viết một bài luận chỉ trích bản chất quan liêu của Ban Thanh tra Công Nông, kêu gọi tuyển mộ thêm các nhân viên mới thuộc tầng lớp lao động để giải quyết vấn đề này;[360] còn trong một bài luận khác, ông kêu gọi nhà nước nỗ lực xóa bỏ nạn mù chữ, tuyên truyền sự đúng giờ và sự tận tâm trong quần chúng nhân dân, cũng như khuyến khích nông dân cùng tham gia vào các hợp tác xã.[361]
—Lenin, ngày 4 tháng 1 năm 1923, tạm dịch ý theo Service (2000:369)
Trong lúc Lenin vắng mặt, Stalin đã bắt đầu củng cố quyền lực bằng cách đề bạt các đồng minh lên giữ các vị trí chủ chốt,[362] đồng thời xây dựng hình ảnh bản thân như là người bằng hữu thân cận của Lenin và là người kế thừa xứng đáng.[363] Tháng 12 năm 1922, Stalin đảm nhận việc giám sát chế độ dưỡng bệnh của Lenin, được Bộ Chính trị giao phó phận sự kiểm soát các chuyến thăm hỏi Lenin của người ngoài.[364] Cùng lúc đó, Lenin đang ngày càng trở nên mâu thuẫn với Stalin.
Rạn nứt chính trị đáng kể nhất giữa hai người họ diễn ra trong Sự vụ Gruzia. Stalin khuyến nghị rằng các quốc gia bị Xô viết hóa cưỡng bức như Gruzia, Azerbaijan và Armenia, nên được sáp nhập hoàn toàn vào Nga, mặc cho nguyện vọng trái chiều của các chính phủ Xô viết địa phương.[365] Lenin cho rằng hành động của Stalin và những người ủng hộ ông ta mang tính chất sô vanh dân tộc Đại Nga, thay vào đó kêu gọi các quốc gia-dân tộc ấy nhập vào Nga với tư cách bán độc lập để cùng tạo dựng một liên bang thống nhất với quốc hiệu "Liên bang các Cộng hòa Xô viết của châu Âu và châu Á".[366] Tuy ban đầu phản đối, Stalin rốt cuộc chấp nhận ý kiến này. Được sự tán thành của Lenin, Stalin đổi quốc hiệu của liên bang được đề xướng thành Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết (USSR).[367] Lenin cử Trotsky thay mặt ông phát biểu tại phiên họp toàn thể của Ban Chấp hành Trung ương vào tháng 12; tại đây kế hoạch thành lập USSR được nhất trí; rồi được thông qua vào ngày 30 tháng 12 bởi Đại hội Xô viết, dẫn đến sự khai sinh của Liên bang Xô viết.[368] Mặc cho bệnh tình, Lenin được bầu làm chủ tịch trong chính phủ Liên Xô mới lập.[369]
Qua đời và tang lễ: 1923–1924

Tháng 3 năm 1923, Lenin trải qua cơn đột quỵ thứ ba, mất khả năng nói;[370] cùng tháng đó, ông lại bị liệt một phần thân phải và bắt đầu biểu hiện chứng thất ngôn giác quan.[371] Tới tháng 5, sức khỏe của ông có vẻ đã hồi phục, lấy lại được khả năng di chuyển, trò chuyện, và viết lách.[372] Vào tháng 10, ông tới Kremlin lần cuối.[373] Trong tuần cuối của cuộc đời, Lenin được ghé thăm bởi Zinoviev, Kamenev, và Bukharin; trong đó Bukharin là người cuối cùng thăm ông tại dinh thự Gorki trước ngày mất.[374] Ngày 21 tháng 1 năm 1924, Lenin rơi vào cơn mê sảng và mất không lâu sau.[375] Nguyên nhân cái chết được tuyên bố là do một căn bệnh mạch máu không thể chữa khỏi.[376]
Chính quyền Xô viết báo tin cho toàn thể nhân dân vào ngày hôm sau.[377] Ngày 23 tháng 1, đại diện từ Đảng Cộng sản, công đoàn, và Xô viết đã tới dinh thự Gorki để chứng kiến thi hài Lenin đặt trong chiếc cữu màu đỏ và được khiêng tiễn bởi những người Bolshevik.[378] Linh cữu được chuyển về Moskva bằng tàu hỏa, rồi được quàn trong Nhà Công đoàn.[379] Ba ngày tiếp theo, khoảng một triệu người thương tiếc đã tới viếng Lenin, nhiều trong số họ đứng chờ hàng tiếng đồng hồ bất chấp điều kiện lạnh giá.[380] Vào ngày 26 tháng 1, Đại hội đại biểu toàn thể Xô viết lần thứ 11 gặp mặt để tưởng nhớ Lenin, với các bài phát biểu của Kalinin, Zinovyev, và Stalin.[380] Đáng chú ý, Trotsky không xuất hiện tại sự kiện này; ông bấy giờ đang dưỡng bệnh tại Dãy Kavkaz, về sau cáo buộc Stalin gửi nhầm ngày tang lễ trong điện báo, khiến ông không thể nào đến dự kịp.[381] Lễ truy điệu được cử hành vào ngày hôm sau ở Quảng trường Đỏ, đồng hành bởi quân nhạc, nơi đám đông quần chúng nghe một loạt các bài điếu văn trước khi thi hài được đặt vào lăng.[382] Tuy thời tiết rét cóng, hàng chục ngàn người đã tới dự lễ.[383]
Bất chấp phản đối từ bà Krupskaya, thi hài của Lenin vẫn được bảo quản và lưu giữ để viếng thăm tại lăng Quảng trường Đỏ.[384] Năm 1925, một viện được lập ra để giải phẫu não của Lenin, phát hiện ra rằng nó bị xơ cứng rất nặng.[385] Tháng 7 năm 1929, Bộ Chính trị cho phép tháo dỡ lăng tạm thời để thay bằng một lăng vĩnh viễn làm từ đá granite, hoàn công vào năm 1933.[386] Quan tài của Lenin được thay thế vào năm 1940 và một lần nữa vào năm 1970.[387] Từ năm 1941 đến năm 1945, thi hài ông được di dời tạm thời đến Tyumen để đảm bảo an toàn trong Thế chiến thứ hai.[388] Cho đến năm 2022, thi hài vẫn được lưu giữ để viếng thăm bên trong Lăng Lenin ở Quảng trường Đỏ.[389]
Ý thức hệ chính trị
Chủ nghĩa Marx và chủ nghĩa Lenin
—Lenin ngày 11 tháng 12 năm 1917, tạm dịch từ Fischer (1964:150)
Lenin là một nhà Marxist tận tụy.[390] Ông tin tưởng rằng diễn giải của mình về chủ nghĩa Marx — lần đầu tiên được gọi là "chủ nghĩa Lenin" bởi Martov vào năm 1904[391] — là đúng nhất và chính thống nhất.[392] Theo lập trường Marxist của Lenin, nhân loại nhất định sẽ đạt đến chủ nghĩa cộng sản thuần túy, tạo lập một xã hội phi nhà nước, phi giai cấp và cào bằng của công nhân; nơi họ không còn bị bóc lột hoặc tha hóa nữa, được làm chủ vận mệnh của bản thân, và được "làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu".[393] Theo Volkogonov, Lenin tin tưởng "sâu sắc và thật lòng" vào con đường mà ông đã đặt ra cho nước Nga để tiến lên xã hội cộng sản.[394]
Theo lập trường Marxist của Lenin, các xã hội hiện thời không thể tiến trực tiếp lên xã hội cộng sản được, mà trước hết tất phải trải qua giai đoạn xã hội chủ nghĩa; do vậy mối quan tâm của ông là làm cách nào để nước Nga đạt được giai đoạn xã hội chủ nghĩa. Lenin cho rằng một nền "chuyên chính vô sản" là cần thiết nhằm trấn áp giai cấp tư sản và phát triển một thể chế kinh tế xã hội chủ nghĩa.[395] Trong bài luận "Bàn về chế độ hợp tác xã", ông giải thích rằng chủ nghĩa xã hội là "khi các tư liệu sản xuất đã thuộc về xã hội, khi giai cấp vô sản, với tư cách là giai cấp, đã thắng giai cấp tư sản — thì chế độ của những người xã viên hợp tác xã văn minh mới là chế độ xã hội chủ nghĩa."[396]
Vấn đề dân chủ và dân tộc
Lenin tin rằng chế độ dân chủ đại biểu ở các nước tư bản tạo nên ảo tưởng về dân chủ trong khi vẫn duy trì cái gọi là "chuyên chế tư sản"; ông miêu tả chế độ dân chủ đa đảng ở Hoa Kỳ như là "những cuộc đối đầu ngoạn mục và vô nghĩa giữa hai chính đảng tư sản", theo đó thì cả hai đảng đều được dẫn dắt bởi "những tỉ phú ranh mãnh" bóc lột giai cấp vô sản Mỹ.[397] Ông chống chủ nghĩa tự do (liberalism), thể hiện sự bất đồng cảm đối với sự trân trọng tự do (liberty) như một giá trị,[398] và tin rằng quyền tự do (freedom) dưới ách chủ nghĩa tự do chỉ là gian trá mà thôi, bởi suy cho cùng thì người lao động vẫn bị bóc lột bởi các nhà tư bản.[399]
Lenin khẳng định rằng "chính phủ Xô viết dân chủ gấp triệu lần cộng hòa tư sản dân chủ nhất", cho rằng dân chủ tư sản là "một nền dân chủ cho kẻ giàu."[400] Lenin coi "chuyên chính vô sản" có tính dân chủ vì lẽ nó cho phép công nhân bầu cử đại biểu trong các hội đồng xô viết và quan chức đại diện cho họ, thay phiên luân chuyển liên tục, cũng như cho phép họ tham gia vào việc quản lý nhà nước.[401]
Đời tư và tính cách

(chụp tháng 5 năm 1920)
Lenin nhìn nhận bản thân như một con người làm nên lịch sử, luôn vững tin vào sự chính đáng của công cuộc cách mạng cũng như khả năng lãnh đạo của mình.[402] Nhà viết tiểu sử Louis Fischer miêu tả ông là "một người yêu những sự thay đổi triệt để và sự biến động tột cùng", một người mà cho rằng "không có giải pháp trung gian. Ông là kiểu người phóng đại cái đúng-sai, đỏ-hoặc-đen".[403] Đánh giá cao "khả năng làm việc kỷ cương phi thường" và "sự cống hiến hết mình cho nghiệp cách mạng" của Lenin, nhà sử học Richard Pipes viết rằng ông là người cực kỳ có sức hút.[404] Tương tự, Volkogonov cho rằng "chỉ bằng tính cách của mình, [Lenin] đã sẵn có ảnh hưởng đến mọi người".[405] Trái lại, bằng hữu Gorky của Lenin miêu tả ông là "một người vững vàng, khỏe khoắn, bị hói đầu," nhìn trông "khá đời thường" và "không có mấy vẻ lãnh đạo".[406]
—Đánh giá của Louis Fischer về Lenin, 1964[407]
Nhà sử học Robert Service cho biết Lenin hồi nhỏ là một người có xúc cảm rất mãnh liệt,[408] thù ghét cay đắng chính quyền Sa hoàng.[409] Theo Service, Lenin đã phát triển một "sự gắn bó xúc cảm" đối với các hình tượng anh hùng như Marx, Engels, và Chernyshevsky.[410] Ông sở hữu ảnh chân dung của họ,[410] và từng nói trong một bức thư rằng ông "ái mộ" Marx và Engels.[411][e] Nhà nghiên cứu tiểu sử James D. White cho rằng Lenin coi giáo huấn của họ như "kinh thánh" hay "giáo điều", những thứ "không cần hoài nghi mà chỉ cần tin tưởng".[412] Theo Volkogonov, Lenin coi chủ nghĩa Marx như "chân lý tuyệt đối", theo đó mà hành xử như "một người cuồng tín".[413] Tương tự, triết gia Bertrand Russell cảm thấy rằng Lenin thể hiện một "niềm tin kiên định kiểu tôn giáo đối với chân lý Marxist".[414] Nhà viết tiểu sử Christopher Read ví Lenin như "một phiên bản thế tục của các thủ lĩnh thần quyền, [những người mà] lấy tính chính đáng từ cái chân lý [dường như] trong các học thuyết của họ, chứ không từ sự ủy thác của nhân dân".[415] Dẫu vậy Lenin là một người vô thần chỉ trích tôn giáo, tin rằng bản chất của chủ nghĩa xã hội là phản tôn giáo; vì lẽ ấy nên ông coi chủ nghĩa xã hội Kitô là một khái niệm tự mâu thuẫn.[416]
Di sản
Volkogonov, tuy bất đồng với hệ tư tưởng của Lenin, vẫn khen ngợi rằng "rất hiếm cá nhân nào trong lịch sử có khả năng thay đổi đáng kể một xã hội lớn ở tầm vĩ mô như vậy."[417] Chính quyền của Lenin đã xây dựng khung sườn cho hệ thống chính phủ điều hành Nga xuyên suốt bảy thập kỷ tới; đồng thời cung cấp mô hình cho các nhà nước cộng sản hậu thân, bao phủ 1/3 thế giới vào giữa thế kỷ thứ 20, noi theo.[418] Vì vậy, ảnh hưởng của Lenin mang tầm cỡ quốc tế.[419] Là một nhân vật lịch sử gây nhiều tranh cãi, Lenin vừa được tôn vinh ca ngợi bởi một số người, vừa bị trách nhiếc xỉ vả bởi một số khác.[420] Ngay cả lúc sinh thời, nhân dân Nga "có người yêu mến cũng có người căm ghét, có người ngưỡng mộ cũng có người khinh miệt" ông.[421] Những luồng tư tưởng ấy đã len lỏi vào các nghiên cứu về Lenin và chủ nghĩa Lenin, do các chia rẽ liên quan đến lập trường chính trị.[422]
Nhà sử học Albert Resis nhận định rằng nếu Cách mạng Tháng Mười được coi là sự kiện quan trọng nhất của thế kỷ thứ 20, thì Lenin "dù tốt hoặc xấu vẫn phải được công nhận là vị lãnh tụ chính trị quan trọng nhất thế kỷ."[423] White khen ngợi Lenin là "một trong những nhân vật lịch sử đương đại kiệt xuất mà không cần tranh cãi".[424] Service cũng ghi nhận rằng vị lãnh tụ Nga được nhiều người xem là một trong những "tác nhân chính yếu" của thế kỷ 20.[425] Read coi ông là "một trong những biểu tượng rộng rãi, dễ nhận ra một cách phổ quát, của thế kỷ thứ 20".[426] Ryan coi ông là "một trong những cá nhân đáng kể và có tầm ảnh hưởng nhất trong lịch sử đương đại."[427] Tạp chí Time vinh danh Lenin là một trong 100 nhân vật quan trọng nhất của thế kỷ 20,[428] đồng thời là một trong 25 chính khách tiêu biểu của mọi thời đại.[429]
Ở phương Tây, các nhà nghiên cứu tiểu sử bắt đầu viết về Lenin ít lâu sau khi ông qua đời; một số như Christopher Hill tỏ sự thông cảm đối với Lenin, song số khác như Richard Pipes và Robert Gellately lại chỉ trích ông. Các sử gia như Read và Lars Lih thì cố gắng giữ trung lập hoặc bình phẩm tốt về ông để tránh bị gán mác chính trị.[430] Những người có cảm tình với Lenin tôn vinh ông vì đã góp phần cải tiến thuyết Marxist sao cho phù hợp với điều kiện kinh tế-xã hội của Nga lúc bấy giờ.[431] Tường thuật của Liên Xô miêu tả ông là người nhận ra cái không thể tránh khỏi của lịch sử, nhờ đó đã giúp cho cái không thể tránh khỏi chắc chắn xảy ra.[432] Trái lại, phần lớn giới sử học phương Tây coi ông như một kẻ thao túng các sự kiện nhằm tiếm đoạt và chiếm giữ quyền bính chính trị; họ cáo buộc các tư tưởng của Lenin chỉ là cớ để ông hợp thức hóa các chính sách thực dụng của mình.[432] Về sau, những người xét lại lịch sử ở cả Nga lẫn phương Tây đều nhấn mạnh vào tác động của các ý tưởng sẵn có từ trước, cũng như áp lực từ phía nhân dân, lên bản thân Lenin và các chính sách của ông.[433]
Nhiều nhà sử học và nghiên cứu tiểu sử cho rằng chính quyền của Lenin mang tính chất toàn trị,[434] là một nhà nước cảnh sát,[435] và là một chế độ độc tài đơn đảng.[436] Nhiều học giả trong số đó cáo buộc Lenin là nhà độc tài;[437] Ryan cho rằng Lenin "không phải độc tài theo nghĩa rằng mọi khuyến nghị của ông phải được chấp thuận và thông qua", bởi lẽ nhiều người đồng cấp khác ý kiến với Lenin vẫn có thể phủ quyết chúng.[438] Fischer bình chú rằng tuy "Lenin là một người độc đoán, song ông không phải độc tài kiểu dạng Stalin về sau."[439] Volkogonov nhận định rằng Lenin là người đặt nền móng cho "chuyên chính của Đảng", và phải tới thời Stalin thì Liên Xô mới trở thành "chuyên chính của một người."[440]
Song để công bằng mà nói, nhiều nhà bình luận Marxist, bao gồm cả các sử gia phương Tây như Hill và John Rees, phản biện luận điệu vu cáo chính quyền của Lenin là một chế độ độc tài; thay vào đó họ nhìn nhận nó như một phương thức bảo toàn các yếu tố dân chủ chưa thực hoàn hảo, không cần tới các tiến trình ở các quốc gia dân chủ tự do.[441] Ryan cho rằng nhà sử học tả khuynh Paul Le Blanc "đã nhận định rất đúng rằng các phẩm chất cá nhân dẫn Lenin đến các chính sách tàn nhẫn của ông không nhất thiết là mạnh tay hơn khi so với chính sách của các nhà lãnh đạo phương Tây thế kỷ 20."[442] Hơn nữa Ryan cho rằng bạo lực cách mạng của Lenin chỉ đơn thuần là công cụ hướng đến một mục đích, cụ thể là xây dựng nên chế độ xã hội chủ nghĩa, tối hậu là thế giới cộng sản — một thế giới không còn bạo lực.[443] Nhà sử học J. Arch Getty nhận xét: "Lenin xứng đáng được tôn vinh vì quan niệm rằng kẻ hiền có phước được hưởng nước thiên đàng,[f] rằng có khả năng cho một phong trào chính trị dựa trên bình đẳng và công bằng xã hội."[444] Một số trí thức tả khuynh, tiêu biểu gồm có Slavoj Žižek, Alain Badiou, Lars T. Lih, và Fredric Jameson, khuyên rằng chúng ta cần làm bừng cháy lại tinh thần cách mạng cương quyết như của Lenin để giải quyết các vấn đề bất cập đương đại.[445]
Đối với các quốc gia hậu Xô viết

Trong suốt thời đại Xô Viết, nhiều bức tượng của Lenin được dựng lên khắp Đông Âu. Mặc dù rất nhiều bức tượng đã bị hạ xuống, một số vẫn còn tồn tại, và một số tượng lại được dựng mới[446].

Tại một số quốc gia, có sự mâu thuẫn trong việc xử lý các bức tượng Lenin. Khi di dời một bức tượng Lenin vào ngày 14/10/2012, Thị trưởng thủ đô Ulaanbaatar của Mông Cổ, ông Bat-Uul Erdene (một chính khách chống Cộng) đã gọi Lenin và các đồng chí của ông là "những kẻ sát nhân".[447] Ngược lại, nhiều người Mông Cổ thì tôn kính Lenin bởi ông đã ủng hộ Mông Cổ trong cuộc chiến giành độc lập khỏi Trung Quốc vào năm 1921, và sau đó Liên Xô còn giúp Mông Cổ một lần nữa trong Thế Chiến thứ 2 khi Nhật Bản xâm lược Mông Cổ[448].
Năm 2012, nhiều ủy viên của Đảng Dân chủ Tự do Nga đã đề xuất dự luật tháo dỡ các tượng đài Lenin. Ý kiến này nhận được sự ủng hộ của một bộ phận đảng viên của Đảng Thống nhất hiện đang nắm quyền ở Nga, song bị đảng Cộng sản Nga phản đối dữ dội. Dự luật này rốt cuộc bị rút lại.[449] Nga vẫn lưu giữ 7.000 bức tượng Lenin tồn tại vào năm 1991; tính đến năm 2022, khoảng 6.000 tượng đài Lenin vẫn tồn tại trên khắp đất nước này.[450]
Trong làn sóng biểu tình Euromaidan từ năm 2013-2014, tượng đài Lenin ở nhiều thành phố trên khắp Ukraina đã bị các đám đông quá khích phá hoại và kéo đổ.[451] Vào tháng 4 năm 2015, chính phủ Ukrainia ra lệnh dỡ bỏ tất cả những tượng đài còn sót lại tuân theo luật phi cộng sản hóa ở nước này.[452] Trong cuộc xâm lược toàn diện Ukraina của Nga vào năm 2022, nhiều bức tượng Lenin trước đó từng bị hạ bệ đã được dựng trở lại bởi quân Nga ở các khu vực bị chiếm đóng. Những hành động này tuy vậy chẳng liên quan gì đến chủ nghĩa cộng sản, mà thay vào đó chỉ nhằm mục đích phô diễn bá quyền của quân xâm lược Nga đối với Ukraina.[453][454][455][456]
Đối với phong trào cộng sản quốc tế

Theo nhà viết tiểu sử David Shub (1965), tấm gương của Lenin và những ý tưởng của ông đã góp phần "xây nên cơ sở của phong trào Cộng sản ngày nay."[457] Các nhà nước xã hội chủ nghĩa học hỏi từ tư tưởng của Lenin xuất hiện khắp thế giới trong khoảng thế kỷ thứ 20.[427] Năm 1972, nhà sử học Marcel Liebman khẳng định rằng "hiếm có phong trào nổi dậy nào ngày nay, từ Mỹ Latinh đến Angola, mà không thuộc về phạm trù di sản của chủ nghĩa Lenin."[458]
Nhận định

Trong hồi ký Ngôi nhà Bến Ngự và con đò sông Hương, nhà báo Tạ Quang Đạm (em giáo sư Tạ Quang Bửu) đã kể lại rằng trên tường căn nhà tranh 3 gian - nơi ở và cũng là nơi nhà Cách mạng Việt Nam Phan Bội Châu dạy học - có treo nhiều tranh ảnh, trong đó ấn tượng nhất là bức chân dung Lenin được treo trang trọng trên bức tường mặt trước gần sát trần nhà. Có lẽ là một bức họa vẽ theo một bức tượng kiểu huy hiệu. Dưới chân dung có hai chữ Hán: Liệt Ninh (Lenin)[459]. Phan Bội Châu còn viết "Lược truyện Liệt Ninh, vĩ nhân của nước Nga đỏ" viết in trên Binh sự tạp chí, Hàng Châu, Trung Quốc năm 1921[460].
Alexandra Kolontai (1872-1952) - nhà ngoại giao nổi tiếng của Liên Xô (cũ) - đánh giá về ông[461]:
“ | Có những cá nhân - hiếm thấy trong lịch sử loài người - là sản phẩm của một chuyển biến lớn lao đã chín muồi, đã tô đẹp cho cả một thời đại. Trong số những người vĩ đại về tinh thần và ý chí đó là Vladimir Ilich Lenin... Như ở một tiêu điểm, Người đã tập hợp vào trong mình tất cả những cái gì của Cách mạng là nghị lực, là hùng mạnh, không ủy mị trong phá bỏ cái cũ và rất kiên quyết trong xây dựng cái mới. | ” |
— Alexandra Kolontai |
Theo nhận định của văn hào Nga Maksim Gorky, tràn ngập trong đời sống và công việc của Lenin là "tinh thần hy sinh khắc khổ, thường thấy ở người cách mạng trí thức Nga trung thực, tin tưởng sắt đá vào khả năng thiết lập sự công bằng trên Trái Đất, tinh thần anh hùng của con người đã từ bỏ mọi niềm sung sướng trên đời để hiến mình cho hoạt động gian khổ vì hạnh phúc của mọi người".[461]
Văn hào Nga Maksim Gorky cũng cho rằng tư tưởng của Lenin "giống như cái kim địa bàn, bao giờ cũng chỉ về lợi ích giai cấp của nhân dân lao động... Điều đặc biệt vĩ đại ở Lenin chính là lòng căm thù quyết liệt, không bao giờ tắt trước sự bất hạnh của mọi người, niềm tin chói lọi của đồng chí rằng sự bất hạnh không phải là nền tảng không thể tiêu diệt được của cuộc đời, trái lại nó là điều xấu xa, nhơ nhuốc mà mọi người có thể và cần phải quét sạch đi"[461].
Tác giả "Người Xô Viết chúng tôi" là nhà văn Boris Polevoi đã ghi nhận:[461]
“ | Là người gan dạ và chính trực, đồng chí bao giờ cũng nhìn thẳng vào sự thật. Dù sự thật đôi khi cay đắng và thậm chí khủng khiếp đến thế nào đi nữa, đồng chí cũng không bao giờ giấu giếm mọi người xung quanh, không bao giờ giấu giếm đông đảo đám đông. | ” |
— Boris Polevoi |
Trong bốn ngày khi mà thi hài Lenin được quàn trong Điện Kremlin, hơn 900.000 người đã tới đưa tang ông. Một trong những chính khách bày tỏ lời chia buồn đến Liên Xô là Thủ tướng Trung Quốc, nhà cách mạng Tôn Trung Sơn, ông đã nói[462]:
- "Qua các thời đại của lịch sử thế giới, hàng ngàn nhà lãnh đạo và học giả đã xuất hiện và nói những lời hùng hồn, nhưng đó vẫn chỉ là những lời nói. Người, Lenin, là một ngoại lệ. Người không chỉ nói và dạy cho chúng ta, mà Người đã thực sự biến lời nói thành hành động. Người đã khai sinh ra một quốc gia mới. Người cho chúng ta thấy con đường của cuộc đấu tranh chung... Người, một vĩ nhân, sẽ sống mãi trong ký ức của những người bị áp bức qua hàng thế kỷ."
Nhà bác học thế kỉ XX Albert Einstein- một người theo chủ nghĩa xã hội đã đánh giá về Lenin:
- "Tôi tôn vinh Lenin như là một người hoàn toàn hy sinh bản thân và dành tất cả tâm huyết của mình để thực hiện công bằng xã hội. Tôi không quan tâm phương pháp của ông ấy có thực tế không, nhưng chắc chắn một điều là: ông ấy là mẫu người bảo vệ và phục hưng nhân loại."
Xem thêm
Phụ chú
- ^ Đảng Xô viết Cách mạng XHCN Bolshevik-Tả khuynh tuyên bố giải tán Quốc hội Lập hiến, chính là ngày kết thúc nhiệm kỳ.
- ^ Gia đình Lenin có tổng cộng 8 anh chị em, song chỉ có 4 người được liệt kê ở đây và Lenin sống qua tuổi 20.
- ^ Có nhiều suy đoán cho rằng ông là người Nga, người Chuvash, người Mordvin, hoặc người Kalmyk.[3]
- ^ Chữ N ở đây thực chất không tượng trưng cho gì hết, người ta thường hiểu lầm rằng nó là viết tắt của Nikolai.[63]
- ^ Cụ thể là lá thư gửi bà Inessa Armand vào ngày 30 tháng 1 năm 1917.
- ^ Nguyên văn ở đây là thành ngữ tiếng Anh "the meek shall inherit the earth".
Tham khảo
Cước chú
- ^ “Tạp chí Time số 14|Vol. 151 ngày 13 tháng 4 năm 1998. 100 người nổi bật của thế kỷ”. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 6 năm 2013. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2013.
- ^ Read 2005, tr. 5: "Going back to his great-grandparents, Russian, Jewish, Swedish, German and possibly Kalmyk influences can be discovered"
- ^ Fischer 1964, tr. 1–2; Rice 1990, tr. 12–13; Volkogonov 1994, tr. 7; Service 2000, tr. 21–23; White 2001, tr. 13–15; Read 2005, tr. 6; Schmermund & Edwards 2016, tr. 9.
- ^ “Владимир Ильич Ленин (1870–1924)” (bằng tiếng Nga). Uniros.ru. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 3 tháng 8 năm 2015.
- ^ Fischer 1964, tr. 1–2; Rice 1990, tr. 12–13; Service 2000, tr. 21–23; White 2001, tr. 13–15; Read 2005, tr. 6.
- ^ Fischer 1964, tr. 5; Rice 1990, tr. 13; Service 2000, tr. 23.
- ^ Fischer 1964, tr. 2–3; Rice 1990, tr. 12; Service 2000, tr. 16–19, 23; White 2001, tr. 15–18; Read 2005, tr. 5; Lih 2011, tr. 20.
- ^ Petrovsky-Shtern 2010, tr. 66–67.
- ^ Payne 1967, tr. 43.
- ^ Fischer 1964, tr. 6; Rice 1990, tr. 13–14, 18; Service 2000, tr. 25, 27; White 2001, tr. 18–19; Read 2005, tr. 4, 8; Lih 2011, tr. 21; Yakovlev 1988, tr. 112.
- ^ Sebestyen 2017, tr. 33.
- ^ Fischer 1964, tr. 6; Rice 1990, tr. 12; Service 2000, tr. 13.
- ^ Fischer 1964, tr. 6; Rice 1990, tr. 12, 14; Service 2000, tr. 25; White 2001, tr. 19–20; Read 2005, tr. 4; Lih 2011, tr. 21, 22.
- ^ Fischer 1964, tr. 3, 8; Rice 1990, tr. 14–15; Service 2000, tr. 29.
- ^ Fischer 1964, tr. 8; Service 2000, tr. 27; White 2001, tr. 19.
- ^ Rice 1990, tr. 18; Service 2000, tr. 26; White 2001, tr. 20; Read 2005, tr. 7; Petrovsky-Shtern 2010, tr. 64.
- ^ Fischer 1964, tr. 7; Rice 1990, tr. 16; Service 2000, tr. 32–36.
- ^ Fischer 1964, tr. 7; Rice 1990, tr. 17; Service 2000, tr. 36–46; White 2001, tr. 20; Read 2005, tr. 9.
- ^ Fischer 1964, tr. 6, 9; Rice 1990, tr. 19; Service 2000, tr. 48–49; Read 2005, tr. 10.
- ^ Fischer 1964, tr. 9; Service 2000, tr. 50–51, 64; Read 2005, tr. 16; Petrovsky-Shtern 2010, tr. 69.
- ^ Fischer 1964, tr. 10–17; Rice 1990, tr. 20, 22–24; Service 2000, tr. 52–58; White 2001, tr. 21–28; Read 2005, tr. 10; Lih 2011, tr. 23–25.
- ^ Fischer 1964, tr. 18; Rice 1990, tr. 25; Service 2000, tr. 61; White 2001, tr. 29; Read 2005, tr. 16; Theen 2004, tr. 33.
- ^ Fischer 1964, tr. 18; Rice 1990, tr. 26; Service 2000, tr. 61–63.
- ^ Rice 1990, tr. 26–27; Service 2000, tr. 64–68, 70; White 2001, tr. 29.
- ^ Fischer 1964, tr. 18; Rice 1990, tr. 27; Service 2000, tr. 68–69; White 2001, tr. 29; Read 2005, tr. 15; Lih 2011, tr. 32.
- ^ Fischer 1964, tr. 18; Rice 1990, tr. 28; White 2001, tr. 30; Read 2005, tr. 12; Lih 2011, tr. 32–33.
- ^ Fischer 1964, tr. 18; Rice 1990, tr. 310; Service 2000, tr. 71.
- ^ Fischer 1964, tr. 19; Rice 1990, tr. 32–33; Service 2000, tr. 72; White 2001, tr. 30–31; Read 2005, tr. 18; Lih 2011, tr. 33.
- ^ Rice 1990, tr. 33; Service 2000, tr. 74–76; White 2001, tr. 31; Read 2005, tr. 17.
- ^ Rice 1990, tr. 34; Service 2000, tr. 78; White 2001, tr. 31.
- ^ Rice 1990, tr. 34; Service 2000, tr. 77; Read 2005, tr. 18.
- ^ Rice 1990, tr. 34, 36–37; Service 2000, tr. 55–55, 80, 88–89; White 2001, tr. 31; Read 2005, tr. 37–38; Lih 2011, tr. 34–35.
- ^ Fischer 1964, tr. 23–25, 26; Service 2000, tr. 55; Read 2005, tr. 11, 24.
- ^ Service 2000, tr. 79, 98.
- ^ Rice 1990, tr. 34–36; Service 2000, tr. 82–86; White 2001, tr. 31; Read 2005, tr. 18, 19; Lih 2011, tr. 40.
- ^ Fischer 1964, tr. 21; Rice 1990, tr. 36; Service 2000, tr. 86; White 2001, tr. 31; Read 2005, tr. 18; Lih 2011, tr. 40.
- ^ Fischer 1964, tr. 21; Rice 1990, tr. 36, 37.
- ^ Fischer 1964, tr. 21; Rice 1990, tr. 38; Service 2000, tr. 93–94.
- ^ Pipes 1990, tr. 354; Rice 1990, tr. 38–39; Service 2000, tr. 90–92; White 2001, tr. 33; Lih 2011, tr. 40, 52.
- ^ Pipes 1990, tr. 354; Rice 1990, tr. 39–40; Lih 2011, tr. 53.
- ^ Rice 1990, tr. 40, 43; Service 2000, tr. 96.
- ^ Pipes 1990, tr. 355; Rice 1990, tr. 41–42; Service 2000, tr. 105; Read 2005, tr. 22–23.
- ^ Fischer 1964, tr. 22; Rice 1990, tr. 41; Read 2005, tr. 20–21.
- ^ Fischer 1964, tr. 27; Rice 1990, tr. 42–43; White 2001, tr. 34, 36; Read 2005, tr. 25; Lih 2011, tr. 45–46.
- ^ Fischer 1964, tr. 30; Pipes 1990, tr. 354; Rice 1990, tr. 44–46; Service 2000, tr. 103; White 2001, tr. 37; Read 2005, tr. 26; Lih 2011, tr. 55.
- ^ Rice 1990, tr. 46; Service 2000, tr. 103; White 2001, tr. 37; Read 2005, tr. 26.
- ^ Fischer 1964, tr. 30; Rice 1990, tr. 46; Service 2000, tr. 103; White 2001, tr. 37; Read 2005, tr. 26.
- ^ Rice 1990, tr. 47–48; Read 2005, tr. 26.
- ^ Fischer 1964, tr. 31; Pipes 1990, tr. 355; Rice 1990, tr. 48; White 2001, tr. 38; Read 2005, tr. 26.
- ^ Fischer 1964, tr. 31; Rice 1990, tr. 48–51; Service 2000, tr. 107–108; Read 2005, tr. 31; Lih 2011, tr. 61.
- ^ Fischer 1964, tr. 31; Rice 1990, tr. 48–51; Service 2000, tr. 107–108.
- ^ Fischer 1964, tr. 31; Rice 1990, tr. 52–55; Service 2000, tr. 109–110; White 2001, tr. 38, 45, 47; Read 2005, tr. 31.
- ^ Fischer 1964, tr. 31–32; Rice 1990, tr. 53, 55–56; Service 2000, tr. 110–113; White 2001, tr. 40; Read 2005, tr. 30, 31.
- ^ Fischer 1964, tr. 33; Pipes 1990, tr. 356; Service 2000, tr. 114, 140; White 2001, tr. 40; Read 2005, tr. 30; Lih 2011, tr. 63.
- ^ a b Fischer 1964, tr. 33–34; Rice 1990, tr. 53, 55–56; Service 2000, tr. 117; Read 2005, tr. 33.
- ^ Rice 1990, tr. 57–58; Service 2000, tr. 121–124, 137; White 2001, tr. 40–45; Read 2005, tr. 34, 39; Lih 2011, tr. 62–63.
- ^ Fischer 1964, tr. 34–35; Rice 1990, tr. 64; Service 2000, tr. 124–125; White 2001, tr. 54; Read 2005, tr. 43; Rappaport 2010, tr. 27–28.
- ^ Fischer 1964, tr. 35; Pipes 1990, tr. 357; Rice 1990, tr. 66–65; White 2001, tr. 55–56; Read 2005, tr. 43; Rappaport 2010, tr. 28.
- ^ Fischer 1964, tr. 35; Pipes 1990, tr. 357; Rice 1990, tr. 64–69; Service 2000, tr. 130–135; Rappaport 2010, tr. 32–33.
- ^ Rice 1990, tr. 69–70; Read 2005, tr. 51; Rappaport 2010, tr. 41–42, 53–55.
- ^ Rice 1990, tr. 69–70.
- ^ Fischer 1964, tr. 4–5; Service 2000, tr. 137; Read 2005, tr. 44; Rappaport 2010, tr. 66.
- ^ Rappaport 2010, tr. 66; Lih 2011, tr. 8–9.
- ^ Fischer 1964, tr. 39; Pipes 1990, tr. 359; Rice 1990, tr. 73–75; Service 2000, tr. 137–142; White 2001, tr. 56–62; Read 2005, tr. 52–54; Rappaport 2010, tr. 62; Lih 2011, tr. 69, 78–80.
- ^ Fischer 1964, tr. 37; Rice 1990, tr. 70; Service 2000, tr. 136; Read 2005, tr. 44; Rappaport 2010, tr. 36–37.
- ^ Fischer 1964, tr. 37; Rice 1990, tr. 78–79; Service 2000, tr. 143–144; Rappaport 2010, tr. 81, 84.
- ^ Read 2005, tr. 60.
- ^ Fischer 1964, tr. 38; Lih 2011, tr. 80.
- ^ Fischer 1964, tr. 38–39; Rice 1990, tr. 75–76; Service 2000, tr. 147.
- ^ Fischer 1964, tr. 40, 50–51; Rice 1990, tr. 76; Service 2000, tr. 148–150; Read 2005, tr. 48; Rappaport 2010, tr. 82–84.
- ^ Rice 1990, tr. 77–78; Service 2000, tr. 150; Rappaport 2010, tr. 85–87.
- ^ Fischer 1964, tr. 44; Rice 1990, tr. 86–88; Service 2000, tr. 167; Read 2005, tr. 75; Rappaport 2010, tr. 117–120; Lih 2011, tr. 87.
- ^ Fischer 1964, tr. 44–45; Pipes 1990, tr. 362–363; Rice 1990, tr. 88–89.
- ^ Service 2000, tr. 170–171.
- ^ Pipes 1990, tr. 363–364; Rice 1990, tr. 89–90; Service 2000, tr. 168–170; Read 2005, tr. 78; Rappaport 2010, tr. 124.
- ^ Fischer 1964, tr. 60; Pipes 1990, tr. 367; Rice 1990, tr. 90–91; Service 2000, tr. 179; Read 2005, tr. 79; Rappaport 2010, tr. 131.
- ^ Fischer 1964, tr. 51; Rice 1990, tr. 94; Service 2000, tr. 175–176; Read 2005, tr. 81; Read 2005, tr. 77, 81; Rappaport 2010, tr. 132, 134–135.
- ^ Rice 1990, tr. 94–95; White 2001, tr. 73–74; Read 2005, tr. 81–82; Rappaport 2010, tr. 138.
- ^ Rice 1990, tr. 96–97; Service 2000, tr. 176–178.
- ^ Fischer 1964, tr. 70–71; Pipes 1990, tr. 369–370; Rice 1990, tr. 104.
- ^ Rice 1990, tr. 95; Service 2000, tr. 178–179.
- ^ Fischer 1964, tr. 53; Pipes 1990, tr. 364; Rice 1990, tr. 99–100; Service 2000, tr. 179–180; White 2001, tr. 76.
- ^ Rice 1990, tr. 103–105; Service 2000, tr. 180–182; White 2001, tr. 77–79.
- ^ Rice 1990, tr. 105–106; Service 2000, tr. 184–186; Rappaport 2010, tr. 144.
- ^ Brackman 2000, tr. 59, 62.
- ^ Service 2000, tr. 186–187.
- ^ Fischer 1964, tr. 67–68; Rice 1990, tr. 111; Service 2000, tr. 188–189.
- ^ Fischer 1964, tr. 64; Rice 1990, tr. 109; Service 2000, tr. 189–190; Read 2005, tr. 89–90.
- ^ Fischer 1964, tr. 63–64; Rice 1990, tr. 110; Service 2000, tr. 190–191; White 2001, tr. 83, 84.
- ^ Rice 1990, tr. 110–111; Service 2000, tr. 191–192; Read 2005, tr. 91.
- ^ Fischer 1964, tr. 64–67; Rice 1990, tr. 110; Service 2000, tr. 192–193; White 2001, tr. 84, 87–88; Read 2005, tr. 90.
- ^ Fischer 1964, tr. 69; Rice 1990, tr. 111; Service 2000, tr. 195.
- ^ Fischer 1964, tr. 81–82; Pipes 1990, tr. 372–375; Rice 1990, tr. 120–121; Service 2000, tr. 206; White 2001, tr. 102; Read 2005, tr. 96–97.
- ^ Fischer 1964, tr. 70; Rice 1990, tr. 114–116.
- ^ Fischer 1964, tr. 68–69; Rice 1990, tr. 112; Service 2000, tr. 195–196.
- ^ Fischer 1964, tr. 75–80; Rice 1990, tr. 112; Pipes 1990, tr. 384; Service 2000, tr. 197–199; Read 2005, tr. 103.
- ^ Rice 1990, tr. 115; Service 2000, tr. 196; White 2001, tr. 93–94.
- ^ Fischer 1964, tr. 71–72; Rice 1990, tr. 116–117; Service 2000, tr. 204–206; White 2001, tr. 96–97; Read 2005, tr. 95.
- ^ Fischer 1964, tr. 72; Rice 1990, tr. 118–119; Service 2000, tr. 209–211; White 2001, tr. 100; Read 2005, tr. 104.
- ^ Fischer 1964, tr. 93–94; Pipes 1990, tr. 376; Rice 1990, tr. 121; Service 2000, tr. 214–215; White 2001, tr. 98–99.
- ^ Rice 1990, tr. 122; White 2001, tr. 100.
- ^ Service 2000, tr. 216; White 2001, tr. 103; Read 2005, tr. 105.
- ^ Fischer 1964, tr. 73–74; Rice 1990, tr. 122–123; Service 2000, tr. 217–218; Read 2005, tr. 105.
- ^ Rice 1990, tr. 127; Service 2000, tr. 222–223.
- ^ Fischer 1964, tr. 94; Pipes 1990, tr. 377–378; Rice 1990, tr. 127–128; Service 2000, tr. 223–225; White 2001, tr. 104; Read 2005, tr. 105.
- ^ Fischer 1964, tr. 94; Pipes 1990, tr. 378; Rice 1990, tr. 128; Service 2000, tr. 225; White 2001, tr. 104; Read 2005, tr. 127.
- ^ Fischer 1964, tr. 107; Service 2000, tr. 236.
- ^ Fischer 1964, tr. 85; Pipes 1990, tr. 378–379; Rice 1990, tr. 127; Service 2000, tr. 225; White 2001, tr. 103–104.
- ^ Fischer 1964, tr. 94; Rice 1990, tr. 130–131; Pipes 1990, tr. 382–383; Service 2000, tr. 245; White 2001, tr. 113–114, 122–113; Read 2005, tr. 132–134.
- ^ Fischer 1964, tr. 85; Rice 1990, tr. 129; Service 2000, tr. 227–228; Read 2005, tr. 111.
- ^ Pipes 1990, tr. 380; Service 2000, tr. 230–231; Read 2005, tr. 130.
- ^ Rice 1990, tr. 135; Service 2000, tr. 235.
- ^ Fischer 1964, tr. 95–100, 107; Rice 1990, tr. 132–134; Service 2000, tr. 245–246; White 2001, tr. 118–121; Read 2005, tr. 116–126.
- ^ Service 2000, tr. 241–242.
- ^ Service 2000, tr. 243.
- ^ Service 2000, tr. 238–239.
- ^ Rice 1990, tr. 136–138; Service 2000, tr. 253.
- ^ Service 2000, tr. 254–255.
- ^ Fischer 1964, tr. 109–110; Rice 1990, tr. 139; Pipes 1990, tr. 386, 389–391; Service 2000, tr. 255–256; White 2001, tr. 127–128.
- ^ Ted Widmer (20 tháng 4 năm 2017). “Lenin and the Russian Spark”. The New Yorker. Truy cập ngày 26 tháng 11 năm 2019.
- ^ Fischer 1964, tr. 110–113; Rice 1990, tr. 140–144; Pipes 1990, tr. 391–392; Service 2000, tr. 257–260.
- ^ Merridale 2017, tr. ix.
- ^ Fischer 1964, tr. 113, 124; Rice 1990, tr. 144; Pipes 1990, tr. 392; Service 2000, tr. 261; White 2001, tr. 131–132.
- ^ Pipes 1990, tr. 393–394; Service 2000, tr. 266; White 2001, tr. 132–135; Read 2005, tr. 143, 146–147.
- ^ Service 2000, tr. 266–268, 279; White 2001, tr. 134–136; Read 2005, tr. 147, 148.
- ^ Service 2000, tr. 267, 271–272; Read 2005, tr. 152, 154.
- ^ Service 2000, tr. 282; Read 2005, tr. 157.
- ^ Pipes 1990, tr. 421; Rice 1990, tr. 147; Service 2000, tr. 276, 283; White 2001, tr. 140; Read 2005, tr. 157.
- ^ Pipes 1990, tr. 422–425; Rice 1990, tr. 147–148; Service 2000, tr. 283–284; Read 2005, tr. 158–61; White 2001, tr. 140–141; Read 2005, tr. 157–159.
- ^ Pipes 1990, tr. 431–434; Rice 1990, tr. 148; Service 2000, tr. 284–285; White 2001, tr. 141; Read 2005, tr. 161.
- ^ Fischer 1964, tr. 125; Rice 1990, tr. 148–149; Service 2000, tr. 285.
- ^ Pipes 1990, tr. 436, 467; Service 2000, tr. 287; White 2001, tr. 141; Read 2005, tr. 165.
- ^ Pipes 1990, tr. 468–469; Rice 1990, tr. 149; Service 2000, tr. 289; White 2001, tr. 142–143; Read 2005, tr. 166–172.
- ^ Service 2000, tr. 288.
- ^ Pipes 1990, tr. 468; Rice 1990, tr. 150; Service 2000, tr. 289–292; Read 2005, tr. 165.
- ^ Pipes 1990, tr. 439–465; Rice 1990, tr. 150–151; Service 2000, tr. 299; White 2001, tr. 143–144; Read 2005, tr. 173.
- ^ Pipes 1990, tr. 465.
- ^ Pipes 1990, tr. 465–467; White 2001, tr. 144; Lee 2003, tr. 17; Read 2005, tr. 174.
- ^ Pipes 1990, tr. 471; Rice 1990, tr. 151–152; Read 2005, tr. 180.
- ^ Pipes 1990, tr. 473, 482; Rice 1990, tr. 152; Service 2000, tr. 302–303; Read 2005, tr. 179.
- ^ Pipes 1990, tr. 482–484; Rice 1990, tr. 153–154; Service 2000, tr. 303–304; White 2001, tr. 146–147.
- ^ Pipes 1990, tr. 471–472; Service 2000, tr. 304; White 2001, tr. 147.
- ^ Service 2000, tr. 306–307.
- ^ Rigby 1979, tr. 14–15; Leggett 1981, tr. 1–3; Pipes 1990, tr. 466; Rice 1990, tr. 155.
- ^ Pipes 1990, tr. 485–486, 491; Rice 1990, tr. 157, 159; Service 2000, tr. 308.
- ^ Pipes 1990, tr. 492–493, 496; Service 2000, tr. 311; Read 2005, tr. 182.
- ^ Pipes 1990, tr. 491; Service 2000, tr. 309.
- ^ Pipes 1990, tr. 499; Service 2000, tr. 314–315.
- ^ Pipes 1990, tr. 496–497; Rice 1990, tr. 159–161; Service 2000, tr. 314–315; Read 2005, tr. 183.
- ^ Service 2000, tr. 316.
- ^ Shub 1966, tr. 314; Service 2000, tr. 317.
- ^ Shub 1966, tr. 315; Pipes 1990, tr. 540–541; Rice 1990, tr. 164; Volkogonov 1994, tr. 173; Service 2000, tr. 331; Read 2005, tr. 192.
- ^ Volkogonov 1994, tr. 176; Service 2000, tr. 331–332; White 2001, tr. 156; Read 2005, tr. 192.
- ^ Rice 1990, tr. 164.
- ^ Pipes 1990, tr. 546–547.
- ^ Pipes 1990, tr. 552–553; Rice 1990, tr. 165; Volkogonov 1994, tr. 176–177; Service 2000, tr. 332, 336–337; Read 2005, tr. 192.
- ^ Fischer 1964, tr. 158; Shub 1966, tr. 301–302; Rigby 1979, tr. 26; Leggett 1981, tr. 5; Pipes 1990, tr. 508, 519; Service 2000, tr. 318–319; Read 2005, tr. 189–190.
- ^ Rigby 1979, tr. 166–167; Leggett 1981, tr. 20–21; Pipes 1990, tr. 533–534, 537; Volkogonov 1994, tr. 171; Service 2000, tr. 322–323; White 2001, tr. 159; Read 2005, tr. 191.
- ^ Fischer 1964, tr. 219, 256, 379; Shub 1966, tr. 374; Service 2000, tr. 355; White 2001, tr. 159; Read 2005, tr. 219.
- ^ Rigby 1979, tr. 160–164; Volkogonov 1994, tr. 374–375; Service 2000, tr. 377.
- ^ Sandle 1999, tr. 74; Rigby 1979, tr. 168–169.
- ^ Fischer 1964, tr. 432.
- ^ Leggett 1981, tr. 316; Lee 2003, tr. 98–99.
- ^ Rigby 1979, tr. 160–161; Leggett 1981, tr. 21; Lee 2003, tr. 99.
- ^ Service 2000, tr. 388; Lee 2003, tr. 98.
- ^ Service 2000, tr. 388.
- ^ Rigby 1979, tr. 168, 170; Service 2000, tr. 388.
- ^ Service 2000, tr. 325–326, 333; Read 2005, tr. 211–212.
- ^ Shub 1966, tr. 361; Pipes 1990, tr. 548; Volkogonov 1994, tr. 229; Service 2000, tr. 335–336; Read 2005, tr. 198.
- ^ Fischer 1964, tr. 156; Shub 1966, tr. 350; Pipes 1990, tr. 594; Volkogonov 1994, tr. 185; Service 2000, tr. 344; Read 2005, tr. 212.
- ^ Fischer 1964, tr. 320–321; Shub 1966, tr. 377; Pipes 1990, tr. 94–595; Volkogonov 1994, tr. 187–188; Service 2000, tr. 346–347; Read 2005, tr. 212.
- ^ Service 2000, tr. 345.
- ^ Fischer 1964, tr. 466; Service 2000, tr. 348.
- ^ Fischer 1964, tr. 280; Shub 1966, tr. 361–362; Pipes 1990, tr. 806–807; Volkogonov 1994, tr. 219–221; Service 2000, tr. 367–368; White 2001, tr. 155.
- ^ Fischer 1964, tr. 282–283; Shub 1966, tr. 362–363; Pipes 1990, tr. 807, 809; Volkogonov 1994, tr. 222–228; White 2001, tr. 155.
- ^ Volkogonov 1994, tr. 222, 231.
- ^ Service 2000, tr. 369.
- ^ Fischer 1964, tr. 252–253; Pipes 1990, tr. 499; Volkogonov 1994, tr. 341; Service 2000, tr. 316–317; White 2001, tr. 149; Read 2005, tr. 194–195.
- ^ Shub 1966, tr. 310; Leggett 1981, tr. 5–6, 8, 306; Pipes 1990, tr. 521–522; Service 2000, tr. 317–318; White 2001, tr. 153; Read 2005, tr. 235–236.
- ^ Fischer 1964, tr. 249; Pipes 1990, tr. 514; Service 2000, tr. 321.
- ^ Fischer 1964, tr. 249; Pipes 1990, tr. 514; Read 2005, tr. 219.
- ^ White 2001, tr. 159–160.
- ^ Fischer 1964, tr. 249.
- ^ Sandle 1999, tr. 84; Read 2005, tr. 211.
- ^ Leggett 1981, tr. 172–173; Pipes 1990, tr. 796–797; Read 2005, tr. 242.
- ^ Leggett 1981, tr. 172; Pipes 1990, tr. 798–799; Ryan 2012, tr. 121.
- ^ Hazard 1965, tr. 270; Leggett 1981, tr. 172; Pipes 1990, tr. 796–797.
- ^ Volkogonov 1994, tr. 170.
- ^ a b Service 2000, tr. 321.
- ^ Fischer 1964, tr. 260–261.
- ^ Sandle 1999, tr. 174.
- ^ Fischer 1964, tr. 554–555; Sandle 1999, tr. 83.
- ^ Sandle 1999, tr. 122–123.
- ^ David 1974, tr. 417.
- ^ Fischer 1964, tr. 552; Leggett 1981, tr. 308; Sandle 1999, tr. 126; Read 2005, tr. 238–239; Ryan 2012, tr. 176, 182.
- ^ Volkogonov 1994, tr. 373; Leggett 1981, tr. 308; Ryan 2012, tr. 177.
- ^ Pipes 1990, tr. 709; Service 2000, tr. 321.
- ^ Volkogonov 1994, tr. 171.
- ^ Rigby 1979, tr. 45–46; Pipes 1990, tr. 682, 683; Service 2000, tr. 321; White 2001, tr. 153.
- ^ Rigby 1979, tr. 50; Pipes 1990, tr. 689; Sandle 1999, tr. 64; Service 2000, tr. 321; Read 2005, tr. 231.
- ^ Fischer 1964, tr. 437–438; Pipes 1990, tr. 709; Sandle 1999, tr. 64, 68.
- ^ Fischer 1964, tr. 263–264; Pipes 1990, tr. 672.
- ^ Fischer 1964, tr. 264.
- ^ Pipes 1990, tr. 681, 692–693; Sandle 1999, tr. 96–97.
- ^ Pipes 1990, tr. 692–693; Sandle 1999, tr. 97.
- ^ Fischer 1964, tr. 236; Service 2000, tr. 351–352.
- ^ a b Fischer 1964, tr. 259, 444–445.
- ^ Sandle 1999, tr. 120.
- ^ Service 2000, tr. 354–355.
- ^ Fischer 1964, tr. 307–308; Volkogonov 1994, tr. 178–179; White 2001, tr. 156; Read 2005, tr. 252–253; Ryan 2012, tr. 123–124.
- ^ Shub 1966, tr. 329–330; Service 2000, tr. 385; White 2001, tr. 156; Read 2005, tr. 253–254; Ryan 2012, tr. 125.
- ^ Shub 1966, tr. 383.
- ^ Shub 1966, tr. 331; Pipes 1990, tr. 567.
- ^ Fischer 1964, tr. 151; Pipes 1990, tr. 567; Service 2000, tr. 338.
- ^ Fischer 1964, tr. 190–191; Shub 1966, tr. 337; Pipes 1990, tr. 567; Rice 1990, tr. 166.
- ^ Fischer 1964, tr. 151–152; Pipes 1990, tr. 571–572.
- ^ Fischer 1964, tr. 154; Pipes 1990, tr. 572; Rice 1990, tr. 166.
- ^ Fischer 1964, tr. 161; Shub 1966, tr. 331; Pipes 1990, tr. 576.
- ^ Fischer 1964, tr. 162–163; Pipes 1990, tr. 576.
- ^ Fischer 1964, tr. 171–172, 200–202; Pipes 1990, tr. 578.
- ^ Rice 1990, tr. 166; Service 2000, tr. 338.
- ^ Service 2000, tr. 338.
- ^ Fischer 1964, tr. 195; Shub 1966, tr. 334, 337; Service 2000, tr. 338–339, 340; Read 2005, tr. 199.
- ^ Fischer 1964, tr. 206, 209; Shub 1966, tr. 337; Pipes 1990, tr. 586–587; Service 2000, tr. 340–341.
- ^ Pipes 1990, tr. 587; Rice 1990, tr. 166–167; Service 2000, tr. 341; Read 2005, tr. 199.
- ^ Shub 1966, tr. 338; Pipes 1990, tr. 592–593; Service 2000, tr. 341.
- ^ Fischer 1964, tr. 211–212; Shub 1966, tr. 339; Pipes 1990, tr. 595; Rice 1990, tr. 167; Service 2000, tr. 342; White 2001, tr. 158–159.
- ^ Pipes 1990, tr. 595; Service 2000, tr. 342.
- ^ Fischer 1964, tr. 213–214; Pipes 1990, tr. 596–597.
- ^ Service 2000, tr. 344.
- ^ Fischer 1964, tr. 313–314; Shub 1966, tr. 387–388; Pipes 1990, tr. 667–668; Volkogonov 1994, tr. 193–194; Service 2000, tr. 384.
- ^ Fischer 1964, tr. 303–304; Pipes 1990, tr. 668; Volkogonov 1994, tr. 194; Service 2000, tr. 384.
- ^ Fischer 1964, tr. 236; Pipes 1990, tr. 558, 723; Rice 1990, tr. 170; Volkogonov 1994, tr. 190.
- ^ Fischer 1964, tr. 236–237; Shub 1966, tr. 353; Pipes 1990, tr. 560, 722, 732–736; Rice 1990, tr. 170; Volkogonov 1994, tr. 181, 342–343; Service 2000, tr. 349, 358–359; White 2001, tr. 164; Read 2005, tr. 218.
- ^ Fischer 1964, tr. 254; Pipes 1990, tr. 728, 734–736; Volkogonov 1994, tr. 197; Ryan 2012, tr. 105.
- ^ Fischer 1964, tr. 277–278; Pipes 1990, tr. 737; Service 2000, tr. 365; White 2001, tr. 155–156; Ryan 2012, tr. 106.
- ^ Fischer 1964, tr. 450; Pipes 1990, tr. 726.
- ^ Pipes 1990, tr. 700–702; Lee 2003, tr. 100.
- ^ Fischer 1964, tr. 195; Pipes 1990, tr. 794; Volkogonov 1994, tr. 181; Read 2005, tr. 249.
- ^ Fischer 1964, tr. 237.
- ^ Service 2000, tr. 385; White 2001, tr. 164; Read 2005, tr. 218.
- ^ Shub 1966, tr. 344; Pipes 1990, tr. 790–791; Volkogonov 1994, tr. 181, 196; Read 2005, tr. 247–248.
- ^ Shub 1966, tr. 312.
- ^ Fischer 1964, tr. 435–436.
- ^ Shub 1966, tr. 345–347; Rigby 1979, tr. 20–21; Pipes 1990, tr. 800; Volkogonov 1994, tr. 233; Service 2000, tr. 321–322; White 2001, tr. 153; Read 2005, tr. 186, 208–209.
- ^ Leggett 1981, tr. 174; Volkogonov 1994, tr. 233–234; Sandle 1999, tr. 112; Ryan 2012, tr. 111.
- ^ Shub 1966, tr. 366; Sandle 1999, tr. 112.
- ^ Ryan 2012, tr. 116.
- ^ Pipes 1990, tr. 821; Ryan 2012, tr. 114–115.
- ^ Shub 1966, tr. 366; Sandle 1999, tr. 113; Read 2005, tr. 210; Ryan 2012, tr. 114–115.
- ^ Leggett 1981, tr. 173–174; Pipes 1990, tr. 801.
- ^ Leggett 1981, tr. 199–200; Pipes 1990, tr. 819–820; Ryan 2012, tr. 107.
- ^ Shub 1966, tr. 364; Ryan 2012, tr. 114.
- ^ Pipes 1990, tr. 837.
- ^ Ryan 2012, tr. 114.
- ^ Pipes 1990, tr. 834.
- ^ Volkogonov 1994, tr. 202; Read 2005, tr. 247.
- ^ Pipes 1990, tr. 796.
- ^ Volkogonov 1994, tr. 202.
- ^ Pipes 1990, tr. 825; Ryan 2012, tr. 117, 120.
- ^ Leggett 1981, tr. 174–175, 183; Pipes 1990, tr. 828–829; Ryan 2012, tr. 121.
- ^ Pipes 1990, tr. 829–830, 832.
- ^ Leggett 1981, tr. 176–177; Pipes 1990, tr. 832, 834.
- ^ Pipes 1990, tr. 835; Volkogonov 1994, tr. 235.
- ^ Leggett 1981, tr. 178; Pipes 1990, tr. 836.
- ^ Leggett 1981, tr. 176; Pipes 1990, tr. 832–833.
- ^ Volkogonov 1994, tr. 358–360; Ryan 2012, tr. 172–173, 175–176.
- ^ Volkogonov 1994, tr. 376–377; Read 2005, tr. 239; Ryan 2012, tr. 179.
- ^ Volkogonov 1994, tr. 381.
- ^ a b Service 2000, tr. 357.
- ^ Service 2000, tr. 391–392.
- ^ Lee 2003, tr. 84, 88.
- ^ Read 2005, tr. 205.
- ^ Shub 1966, tr. 355; Leggett 1981, tr. 204; Rice 1990, tr. 173, 175; Volkogonov 1994, tr. 198; Service 2000, tr. 357, 382; Read 2005, tr. 187.
- ^ Fischer 1964, tr. 334, 343, 357; Leggett 1981, tr. 204; Service 2000, tr. 382, 392; Read 2005, tr. 205–206.
- ^ Leggett 1981, tr. 204; Read 2005, tr. 206.
- ^ Fischer 1964, tr. 288–289; Pipes 1990, tr. 624–630; Service 2000, tr. 360; White 2001, tr. 161–162; Read 2005, tr. 205.
- ^ Fischer 1964, tr. 262–263.
- ^ Fischer 1964, tr. 291; Shub 1966, tr. 354.
- ^ Fischer 1964, tr. 331, 333.
- ^ Pipes 1990, tr. 610, 612; Volkogonov 1994, tr. 198.
- ^ Fischer 1964, tr. 337; Pipes 1990, tr. 609, 612, 629; Volkogonov 1994, tr. 198; Service 2000, tr. 383; Read 2005, tr. 217.
- ^ Fischer 1964, tr. 248, 262.
- ^ Pipes 1990, tr. 651; Volkogonov 1994, tr. 200; White 2001, tr. 162; Lee 2003, tr. 81.
- ^ Fischer 1964, tr. 251; White 2001, tr. 163; Read 2005, tr. 220.
- ^ Leggett 1981, tr. 201; Pipes 1990, tr. 792; Volkogonov 1994, tr. 202–203; Read 2005, tr. 250.
- ^ Leggett 1981, tr. 201; Volkogonov 1994, tr. 203–204.
- ^ Shub 1966, tr. 357–358; Pipes 1990, tr. 781–782; Volkogonov 1994, tr. 206–207; Service 2000, tr. 364–365.
- ^ Pipes 1990, tr. 763, 770–771; Volkogonov 1994, tr. 211.
- ^ Ryan 2012, tr. 109.
- ^ Volkogonov 1994, tr. 208.
- ^ Pipes 1990, tr. 635.
- ^ Fischer 1964, tr. 244; Shub 1966, tr. 355; Pipes 1990, tr. 636–640; Service 2000, tr. 360–361; White 2001, tr. 159; Read 2005, tr. 199.
- ^ Fischer 1964, tr. 242; Pipes 1990, tr. 642–644; Read 2005, tr. 250.
- ^ Fischer 1964, tr. 244; Pipes 1990, tr. 644; Volkogonov 1994, tr. 172.
- ^ Leggett 1981, tr. 184; Service 2000, tr. 402; Read 2005, tr. 206.
- ^ Hall 2015, tr. 83.
- ^ Goldstein 2013, tr. 50.
- ^ Hall 2015, tr. 84.
- ^ Davies 2003, tr. 26–27.
- ^ Davies 2003, tr. 27–30.
- ^ Davies 2003, tr. 22, 27.
- ^ Fischer 1964, tr. 389; Rice 1990, tr. 182; Volkogonov 1994, tr. 281; Service 2000, tr. 407; White 2001, tr. 161; Davies 2003, tr. 29–30.
- ^ Davies 2003, tr. 22.
- ^ Fischer 1964, tr. 389; Rice 1990, tr. 182; Volkogonov 1994, tr. 281; Service 2000, tr. 407; White 2001, tr. 161.
- ^ Fischer 1964, tr. 391–395; Shub 1966, tr. 396; Rice 1990, tr. 182–183; Service 2000, tr. 408–409, 412; White 2001, tr. 161.
- ^ Rice 1990, tr. 183; Volkogonov 1994, tr. 388; Service 2000, tr. 412.
- ^ Shub 1966, tr. 387; Rice 1990, tr. 173.
- ^ Fischer 1964, tr. 333; Shub 1966, tr. 388; Rice 1990, tr. 173; Volkogonov 1994, tr. 395.
- ^ a b Service 2000, tr. 385–386.
- ^ Fischer 1964, tr. 531, 536.
- ^ Service 2000, tr. 386.
- ^ Shub 1966, tr. 389–390.
- ^ a b Shub 1966, tr. 390.
- ^ Fischer 1964, tr. 525; Shub 1966, tr. 390; Rice 1990, tr. 174; Volkogonov 1994, tr. 390; Service 2000, tr. 386; White 2001, tr. 160; Read 2005, tr. 225.
- ^ Fischer 1964, tr. 525; Shub 1966, tr. 390–391; Rice 1990, tr. 174; Service 2000, tr. 386; White 2001, tr. 160.
- ^ Service 2000, tr. 387; White 2001, tr. 160.
- ^ Fischer 1964, tr. 525; Shub 1966, tr. 398; Read 2005, tr. 225–226.
- ^ Service 2000, tr. 387.
- ^ Shub 1966, tr. 395; Volkogonov 1994, tr. 391.
- ^ Shub 1966, tr. 397; Service 2000, tr. 409.
- ^ Service 2000, tr. 409–410.
- ^ Fischer 1964, tr. 415–420; White 2001, tr. 161, 180–181.
- ^ Service 2000, tr. 410.
- ^ Shub 1966, tr. 397.
- ^ Fischer 1964, tr. 341; Shub 1966, tr. 396; Rice 1990, tr. 174.
- ^ Fischer 1964, tr. 437–438; Shub 1966, tr. 406; Rice 1990, tr. 183; Service 2000, tr. 419; White 2001, tr. 167–168.
- ^ Shub 1966, tr. 406; Service 2000, tr. 419; White 2001, tr. 167.
- ^ Fischer 1964, tr. 436, 442; Rice 1990, tr. 183–184; Sandle 1999, tr. 104–105; Service 2000, tr. 422–423; White 2001, tr. 168; Read 2005, tr. 269.
- ^ White 2001, tr. 170.
- ^ Fischer 1964, tr. 414; Rice 1990, tr. 177–178; Service 2000, tr. 405; Read 2005, tr. 260–261.
- ^ Volkogonov 1994, tr. 283.
- ^ Fischer 1964, tr. 404–409; Rice 1990, tr. 178–179; Service 2000, tr. 440.
- ^ Fischer 1964, tr. 409–411.
- ^ Fischer 1964, tr. 433–434; Shub 1966, tr. 380–381; Rice 1990, tr. 181; Service 2000, tr. 414–415; Read 2005, tr. 258.
- ^ Fischer 1964, tr. 434; Shub 1966, tr. 381–382; Rice 1990, tr. 181; Service 2000, tr. 415; Read 2005, tr. 258.
- ^ Rice 1990, tr. 181–182; Service 2000, tr. 416–417; Read 2005, tr. 258.
- ^ Shub 1966, tr. 426; Lewin 1969, tr. 33; Rice 1990, tr. 187; Volkogonov 1994, tr. 409; Service 2000, tr. 435.
- ^ Shub 1966, tr. 426; Rice 1990, tr. 187; Service 2000, tr. 435.
- ^ Service 2000, tr. 436; Read 2005, tr. 281; Rice 1990, tr. 187.
- ^ Volkogonov 1994, tr. 420, 425–426; Service 2000, tr. 439; Read 2005, tr. 280, 282.
- ^ Volkogonov 1994, tr. 443; Service 2000, tr. 437.
- ^ Fischer 1964, tr. 598–599; Shub 1966, tr. 426; Service 2000, tr. 443; White 2001, tr. 172; Read 2005, tr. 258.
- ^ Fischer 1964, tr. 600; Shub 1966, tr. 426–427; Lewin 1969, tr. 33; Service 2000, tr. 443; White 2001, tr. 173; Read 2005, tr. 258.
- ^ Shub 1966, tr. 427–428; Service 2000, tr. 446.
- ^ Fischer 1964, tr. 634; Shub 1966, tr. 431–432; Lewin 1969, tr. 33–34; White 2001, tr. 173.
- ^ Fischer 1964, tr. 600–602; Shub 1966, tr. 428–430; Leggett 1981, tr. 318; Sandle 1999, tr. 164; Service 2000, tr. 442–443; Read 2005, tr. 269; Ryan 2012, tr. 174–175.
- ^ Volkogonov 1994, tr. 310; Leggett 1981, tr. 320–322; Aves 1996, tr. 175–178; Sandle 1999, tr. 164; Lee 2003, tr. 103–104; Ryan 2012, tr. 172.
- ^ Lewin 1969, tr. 8–9; White 2001, tr. 176; Read 2005, tr. 270–272.
- ^ Fischer 1964, tr. 578; Rice 1990, tr. 189.
- ^ Rice 1990, tr. 192–193.
- ^ Fischer 1964, tr. 578.
- ^ Bullock, Alan (1991). Hitler and Stalin : parallel lives. London : HarperCollins. tr. 163. ISBN 978-0-00-215494-9.
- ^ Mandel, Ernest (1995). Trotsky as alternative. London: Verso. tr. 149. ISBN 185984085X.
- ^ Ceplair, Larry (21 tháng 7 năm 2020). Revolutionary Pairs: Marx and Engels, Lenin and Trotsky, Gandhi and Nehru, Mao and Zhou, Castro and Guevara (bằng tiếng Anh). University Press of Kentucky. tr. 93. ISBN 978-0-8131-7945-2.
- ^ Rubenstein, Joshua (2011). Leon Trotsky : a revolutionary's life. New Haven: Yale University Press. tr. 127. ISBN 0300198329.
- ^ Fischer 1964, tr. 638–639; Shub 1966, tr. 433; Lewin 1969, tr. 73–75; Volkogonov 1994, tr. 417; Service 2000, tr. 464; White 2001, tr. 173–174.
- ^ Fischer 1964, tr. 647; Shub 1966, tr. 434–435; Rice 1990, tr. 192; Volkogonov 1994, tr. 273; Service 2000, tr. 469; White 2001, tr. 174–175; Read 2005, tr. 278–279.
- ^ Fischer 1964, tr. 640; Shub 1966, tr. 434–435; Volkogonov 1994, tr. 249, 418; Service 2000, tr. 465; White 2001, tr. 174.
- ^ Fischer 1964, tr. 666–667, 669; Lewin 1969, tr. 120–121; Service 2000, tr. 468; Read 2005, tr. 273.
- ^ Fischer 1964, tr. 650–654; Service 2000, tr. 470.
- ^ Shub 1966, tr. 426, 434; Lewin 1969, tr. 34–35.
- ^ Volkogonov 1994, tr. 263–264.
- ^ Lewin 1969, tr. 70; Rice 1990, tr. 191; Volkogonov 1994, tr. 273, 416.
- ^ Fischer 1964, tr. 607–608; Lewin 1969, tr. 43–49; Rice 1990, tr. 190–191; Volkogonov 1994, tr. 421; Service 2000, tr. 452, 453–455; White 2001, tr. 175–176.
- ^ Fischer 1964, tr. 608; Lewin 1969, tr. 50; Leggett 1981, tr. 354; Volkogonov 1994, tr. 421; Service 2000, tr. 455; White 2001, tr. 175.
- ^ Service 2000, tr. 455, 456.
- ^ Lewin 1969, tr. 40, 99–100; Volkogonov 1994, tr. 421; Service 2000, tr. 460–461, 468.
- ^ Rigby 1979, tr. 221.
- ^ Fischer 1964, tr. 671; Shub 1966, tr. 436; Lewin 1969, tr. 103; Leggett 1981, tr. 355; Rice 1990, tr. 193; White 2001, tr. 176; Read 2005, tr. 281.
- ^ Fischer 1964, tr. 671; Shub 1966, tr. 436; Volkogonov 1994, tr. 425; Service 2000, tr. 474; Lerner, Finkelstein & Witztum 2004, tr. 372.
- ^ Fischer 1964, tr. 672; Rigby 1979, tr. 192; Rice 1990, tr. 193–194; Volkogonov 1994, tr. 429–430.
- ^ Fischer 1964, tr. 672; Shub 1966, tr. 437; Volkogonov 1994, tr. 431; Service 2000, tr. 476; Read 2005, tr. 281.
- ^ Rice 1990, tr. 194; Volkogonov 1994, tr. 299; Service 2000, tr. 477–478.
- ^ Fischer 1964, tr. 673–674; Shub 1966, tr. 438; Rice 1990, tr. 194; Volkogonov 1994, tr. 435; Service 2000, tr. 478–479; White 2001, tr. 176; Read 2005, tr. 269.
- ^ Volkogonov 1994, tr. 435; Lerner, Finkelstein & Witztum 2004, tr. 372.
- ^ Rice 1990, tr. 7.
- ^ Rice 1990, tr. 7–8.
- ^ Fischer 1964, tr. 674; Shub 1966, tr. 439; Rice 1990, tr. 7–8; Service 2000, tr. 479.
- ^ a b Rice 1990, tr. 9.
- ^ History, tháng 4 năm 2009.
- ^ Shub 1966, tr. 439; Rice 1990, tr. 9; Service 2000, tr. 479–480.
- ^ Volkogonov 1994, tr. 440.
- ^ Fischer 1964, tr. 674; Shub 1966, tr. 438; Volkogonov 1994, tr. 437–438; Service 2000, tr. 481.
- ^ Fischer 1964, tr. 625–626; Volkogonov 1994, tr. 446.
- ^ Volkogonov 1994, tr. 444, 445.
- ^ Volkogonov 1994, tr. 445.
- ^ Volkogonov 1994, tr. 444.
- ^ Moscow.info.
- ^ Ryan 2012, tr. 18.
- ^ Volkogonov 1994, tr. 409.
- ^ Sandle 1999, tr. 35; Service 2000, tr. 237.
- ^ Sandle 1999, tr. 41.
- ^ Volkogonov 1994, tr. 206.
- ^ Sandle 1999, tr. 35.
- ^ Lenin 2006b, tr. 425.
- ^ Rice 1990, tr. 121.
- ^ Volkogonov 1994, tr. 471.
- ^ Shub 1966, tr. 443.
- ^ Fischer 1964, tr. 310; Shub 1966, tr. 442.
- ^ Sandle 1999, tr. 36–37.
- ^ Service 2000, tr. 159, 202; Read 2005, tr. 207.
- ^ Fischer 1964, tr. 47, 148.
- ^ Pipes 1990, tr. 348, 351.
- ^ Volkogonov 1994, tr. 246.
- ^ Fischer 1964, tr. 57.
- ^ Fischer 1964, tr. 21–22.
- ^ Service 2000, tr. 73.
- ^ Fischer 1964, tr. 44; Service 2000, tr. 81.
- ^ a b Service 2000, tr. 118.
- ^ Service 2000, tr. 232; Lih 2011, tr. 13.
- ^ White 2001, tr. 88.
- ^ Volkogonov 1994, tr. 362.
- ^ Fischer 1964, tr. 409.
- ^ Read 2005, tr. 262.
- ^ Fischer 1964, tr. 40–41; Volkogonov 1994, tr. 373; Service 2000, tr. 149.
- ^ Volkogonov 1994, tr. 326.
- ^ Service 2000, tr. 391.
- ^ Volkogonov 1994, tr. 259.
- ^ Ryan 2012, tr. 3; Read 2005, tr. 284.
- ^ Fischer 1964, tr. 414.
- ^ Liebman 1975, tr. 19–20.
- ^ Encyclopedia Britannica.
- ^ White 2001, tr. iix.
- ^ Service 2000, tr. 488.
- ^ Read 2005, tr. 283.
- ^ a b Ryan 2012, tr. 5.
- ^ Time, 13 tháng 4 năm 1998.
- ^ Time, 4 tháng 2 năm 2011.
- ^ Lee 2003, tr. 14; Ryan 2012, tr. 3.
- ^ Lee 2003, tr. 14.
- ^ a b Lee 2003, tr. 123.
- ^ Lee 2003, tr. 124.
- ^ Fischer 1964, tr. 516; Shub 1966, tr. 415; Leggett 1981, tr. 364; Volkogonov 1994, tr. 307, 312.
- ^ Leggett 1981, tr. 364.
- ^ Lewin 1969, tr. 12; Rigby 1979, tr. x, 161; Sandle 1999, tr. 164; Service 2000, tr. 506; Lee 2003, tr. 97; Read 2005, tr. 190; Ryan 2012, tr. 9.
- ^ Fischer 1964, tr. 417; Shub 1966, tr. 416; Pipes 1990, tr. 511; Pipes 1996, tr. 3; Read 2005, tr. 247.
- ^ Ryan 2012, tr. 1.
- ^ Fischer 1964, tr. 524.
- ^ Volkogonov 1994, tr. 313.
- ^ Lee 2003, tr. 120.
- ^ Ryan 2012, tr. 191.
- ^ Ryan 2012, tr. 184.
- ^ Biography.
- ^ Ryan 2012, tr. 3; Budgen, Kouvelakis & Žižek 2007, tr. 1–4.
- ^ Two Lenin monuments opened in Luhansk Oblast, UNIAN (ngày 22 tháng 4 năm 2008)
- ^ “Thủ đô Mông Cổ kéo đổ tượng Lenin”. BBC. ngày 14 tháng 10 năm 2012.
- ^ “Last stand for Ulaanbaatar's Lenin statue”. Australia Network News. Truy cập 11 tháng 2 năm 2015.
- ^ The Moscow Times, 24 October 2013.
- ^ “Relics of the Soviet era remain in Russia”. 23 tháng 1 năm 2012.
- ^ BBC, 22 tháng 2 năm 2014.
- ^ BBC, 14 tháng 4 năm 2015.
- ^ Harding, Luke (23 tháng 4 năm 2022). “Back in the USSR: Lenin statues and Soviet flags reappear in Russian-controlled cities”. The Guardian. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 5 năm 2022. Truy cập ngày 4 tháng 5 năm 2022.
- ^ Fink, Andrew (20 tháng 4 năm 2022). “Lenin Returns to Ukraine”. The Dispatch. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 4 tháng 5 năm 2022.
- ^ Bowman, Verity (27 tháng 4 năm 2022). “Kyiv pulls down Soviet-era monument symbolising Russian-Ukrainian friendship”. The Telegraph. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 4 tháng 5 năm 2022.
- ^ Trofimov, Yaroslav (1 tháng 5 năm 2022). “Russia's Occupation of Southern Ukraine Hardens, With Rubles, Russian Schools and Lenin Statues”. The Wall Street Journal. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 5 năm 2022. Truy cập ngày 4 tháng 5 năm 2022.
- ^ Shub 1966, tr. 10.
- ^ Liebman 1975, tr. 22.
- ^ Phan Bội Châu, người đầu tiên treo ảnh Lê-nin ở Việt Nam, Nguyễn Khắc Phê, Ông già Bến Ngự" – Nhà xuất bản Thuận Hóa, 1987
- ^ PHAN BỘI CHÂU – NHÀ VĂN HÓA Lưu trữ 2013-09-28 tại Wayback Machine, Nguyễn Đình Chú, Trung tâm Văn hóa học Lý luận và Ứng dụng, Trường Đại học KHXH & NV - ĐHQG Tp. HCM
- ^ a b c d “Lãnh tụ Xôviết Vladimir Ilich Lenin: Một người Nga chân chính”. CAND.com. ngày 12 tháng 6 năm 2008. Truy cập ngày 8 tháng 12 năm 2016.
- ^ Gorin, Vadim, Lenin: A Biography (1983) Progress Publishers, pp. 469–70
Thư mục
- Tiếng Việt
- Lenin, Vladimir Ilyich (2005). Đinh Lục; Trần Trung Thành; Vũ Phương Hà (biên tập). V. I. Lê-nin Toàn tập, tập 33: Nhà nước và cách mạng. Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị quốc gia.
- Lenin, Vladimir Ilyich (2006a). Hoàng Phong Hà; Phạm Việt (biên tập). V. I. Lê-nin Toàn tập, tập 35: Tháng Mười 1917 - Tháng Ba 1918. Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị quốc gia.
- Lenin, Vladimir Ilyich (2006b). Ban Kinh Tế (biên tập). V. I. Lê-nin Toàn tập, tập 45: Tháng Ba 1922 - Tháng Ba 1923. Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị quốc gia.
- Ngoại ngữ
- Aves, Jonathan (1996). Workers Against Lenin: Labour Protest and the Bolshevik Dictatorship. London: I.B. Tauris. ISBN 978-1-86064-067-4.
- Brackman, Roman (2000). The Secret File of Joseph Stalin: A Hidden Life. Portland, Oregon: Psychology Press. ISBN 978-0-7146-5050-0.
- Budgen, Sebastian; Kouvelakis, Stathis; Žižek, Slavoj (2007). Lenin Reloaded: Toward a Politics of Truth. Durham, North Carolina: Duke University Press. ISBN 978-0-8223-3941-0.
- David, H. P. (1974). “Abortion and Family Planning in the Soviet Union: Public Policies and Private Behaviour”. Journal of Biosocial Science. 6 (4): 417–426. doi:10.1017/S0021932000009846. PMID 4473125. S2CID 11271400.
- Davies, Norman (2003) [1972]. White Eagle, Red Star: The Polish-Soviet War 1919–20 and 'the Miracle on the Vistula'. London: Pimlico. ISBN 978-0-7126-0694-3.
- Fischer, Louis (1964). The Life of Lenin. London: Weidenfeld and Nicolson.
- Hazard, John N. (1965). “Unity and Diversity in Socialist Law”. Law and Contemporary Problems. 30 (2): 270–290. doi:10.2307/1190515. JSTOR 1190515. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 2 năm 2017. Truy cập ngày 8 tháng 8 năm 2016.
- Lee, Stephen J. (2003). Lenin and Revolutionary Russia. London: Routledge. ISBN 978-0-415-28718-0.
- Leggett, George (1981). The Cheka: Lenin's Political Police. Oxford: Oxford University Press. ISBN 978-0-19-822552-2.
- Lerner, Vladimir; Finkelstein, Y.; Witztum, E. (2004). “The Enigma of Lenin's (1870–1924) Malady”. European Journal of Neurology. 11 (6): 371–376. doi:10.1111/j.1468-1331.2004.00839.x. PMID 15171732. S2CID 14966309.
- Goldstein, Erik (2013). The First World War Peace Settlements, 1919–1925. London: Routledge. ISBN 978-1-31-7883-678.
- Hall, Richard C. (2015). Consumed by War: European Conflict in the 20th Century. Lexington: University Press of Kentucky. ISBN 978-0-81-3159-959.
- Liebman, Marcel (1975) [1973]. Leninism Under Lenin. Brian Pearce biên dịch. London: Jonathan Cape. ISBN 978-0-224-01072-6.
- Merridale, Catherine (2017). Lenin on the Train. London: Penguin Books. ISBN 978-0-241-01132-4.
- Montefiore, Simon Sebag (2007). Young Stalin. London: Weidenfeld & Nicolson. ISBN 978-0-297-85068-7.
- Lewin, Moshe (1969). Lenin's Last Struggle. Sheridan Smith, A. M. biên dịch. London: Faber and Faber.
- Lih, Lars T. (2011). Lenin. Critical Lives. London: Reaktion Books. ISBN 978-1-86189-793-0.
- Page, Stanley W. (1948). “Lenin, the National Question and the Baltic States, 1917–19”. The American Slavic and East European Review. 7 (1): 15–31. doi:10.2307/2492116. JSTOR 2492116.
- Page, Stanley W. (1950). “Lenin and Self-Determination”. The Slavonic and East European Review. 28 (71): 342–358. JSTOR 4204138.
- Petrovsky-Shtern, Yohanan (2010). Lenin's Jewish Question. New Haven, Connecticut: Yale University Press. ISBN 978-0-300-15210-4. JSTOR j.ctt1npd80.
- Pipes, Richard (1990). The Russian Revolution: 1899–1919. London: Collins Harvill. ISBN 978-0-679-73660-8.
- Pipes, Richard (1996). The Unknown Lenin: From the Secret Archive. New Haven, Connecticut: Yale University Press. ISBN 978-0-300-06919-8.
- Rappaport, Helen (2010). Conspirator: Lenin in Exile. New York: Basic Books. ISBN 978-0-465-01395-1.
- Read, Christopher (2005). Lenin: A Revolutionary Life. Routledge Historical Biographies. London: Routledge. ISBN 978-0-415-20649-5.
- Remnick, David (13 tháng 4 năm 1998). “TIME 100: Vladimir Lenin”. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 4 năm 2011.
- Resis, Albert. “Vladimir Ilich Lenin”. Encyclopædia Britannica. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 6 năm 2015. Truy cập ngày 4 tháng 2 năm 2016.
- Rice, Christopher (1990). Lenin: Portrait of a Professional Revolutionary. London: Cassell. ISBN 978-0-304-31814-8.
- Rigby, T. H. (1979). Lenin's Government: Sovnarkom 1917–1922. Cambridge, England: Cambridge University Press. ISBN 978-0-521-22281-5.
- Ryan, James (2012). Lenin's Terror: The Ideological Origins of Early Soviet State Violence. London: Routledge. ISBN 978-1-138-81568-1.
- Sandle, Mark (1999). A Short History of Soviet Socialism. London: UCL Press. doi:10.4324/9780203500279. ISBN 978-1-85728-355-6.
- Schmermund, Elizabeth; Edwards, Judith (2016). Vladimir Lenin and the Russian Revolution. Enslow Publishing. ISBN 978-0-7660-7414-9.
- Sebestyen, Victor (2017). Lenin the Dictator: An Intimate Portrait. London: Weidenfeld & Nicolson. ISBN 978-1-47460-044-6.
- Service, Robert (2000). Lenin: A Biography. London: Macmillan. ISBN 978-0-333-72625-9.
- Shevchenko, Vitaly (14 tháng 4 năm 2015). “Goodbye, Lenin: Ukraine moves to ban communist symbols”. BBC News. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 3 năm 2016.
- Shub, David (1966). Lenin: A Biography . London: Pelican.
- Sun, Feifei (4 tháng 2 năm 2011). “Top 25 Political Icons: Lenin”. Time. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 1 năm 2015. Truy cập ngày 4 tháng 2 năm 2016.
- Thatcher, Ian D. (tháng 4 năm 2009). “Trotskii and Lenin's Funeral, 27 January 1924: A Brief Note”. History. 94 (2): 194–202. doi:10.1111/j.1468-229X.2009.00451.x. JSTOR 24428587.
- Theen, Rolf (2004). Lenin: Genesis and Development of a Revolutionary. Princeton, New Jersey: Princeton University Press. ISBN 978-0-691-64358-8.
- Tumarkin, Nina (1997). Lenin Lives! The Lenin Cult in Soviet Russia . Cambridge, Massachusetts: Harvard University Press. ISBN 978-0-674-52431-6.
- Volkogonov, Dmitri (1994). Lenin: Life and Legacy. Shukman, Harold biên dịch. London: HarperCollins. ISBN 978-0-00-255123-6.
- White, James D. (2001). Lenin: The Practice and Theory of Revolution. European History in Perspective. Basingstoke, England: Palgrave. ISBN 978-0-333-72157-5.
- Wistrich, Robert (1982). Trotsky: Fate of a Revolutionary. Stein & Day. ISBN 0-8128-2774-0.
- Yakovlev, Yegor (1988). The Beginning The Story about the Ulyanov Family, Lenin's Childhood and Youth. Progress Publishers. ISBN 978-5010005009.
- “Lenin”. Random House Webster's Unabridged Dictionary. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 8 tháng 1 năm 2021.
- Payne, Robert (1967). The Life And Death of Lenin. Simon & Schuster.
- “Lenin Mausoleum on Red Square in Moscow”. www.moscow.info. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 1 năm 2019. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2017.
- “Lenin Statue Beheaded in Orenburg”. The Moscow Times. 24 tháng 10 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 17 tháng 7 năm 2020.
- “Mongolia capital Ulan-Bator removes Lenin statue”. BBC News. 14 tháng 10 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 17 tháng 7 năm 2020.
- “Ukraine crisis: Lenin statues toppled in protest”. BBC News. 22 tháng 2 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 1 năm 2016.
- “Vladimir Lenin Biography”. Biography. 42:10 phút. A&E Television Networks. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 2 năm 2017. Truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2016.
Đọc thêm
- Ali, Tariq (2017). The Dilemmas of Lenin: Terrorism, War, Empire, Love, Revolution. New York/London: Verso. ISBN 978-1-78663-110-7.
- Cliff, Tony (1986). Building the Party: Lenin, 1893–1914. Chicago: Haymarket Books. ISBN 978-1-931859-01-1.
- Felshtinsky, Yuri (2010). Lenin and His Comrades: The Bolsheviks Take Over Russia 1917–1924. New York: Enigma Books. ISBN 978-1-929631-95-7.
- Gellately, Robert (2007). Lenin, Stalin, and Hitler: The Age of Social Catastrophe. New York: Knopf. ISBN 978-1-4000-3213-6.
- Gooding, John (2001). Socialism in Russia: Lenin and His Legacy, 1890–1991. Basingstoke, England: Palgrave Macmillan. doi:10.1057/9781403913876. ISBN 978-0-333-97235-9.
- Hill, Christopher (1993). Lenin and the Russian Revolution. London: Pelican Books.
- Lenin, V.I.; Žižek, Slavoj (2017). Lenin 2017: Remembering, Repeating, and Working Through. Verso. ISBN 978-1-78663-188-6.
- Lih, Lars T. (2008) [2006]. Lenin Rediscovered: What is to be Done? in Context. Chicago: Haymarket Books. ISBN 978-1-931859-58-5.
- Lukács, Georg (1970) [1924]. Lenin: A Study on the Unity of his Thought. Jacobs, Nicholas biên dịch. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 10 năm 2016. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2016.
- Nimtz, August H. (2014). Lenin's Electoral Strategy from 1907 to the October Revolution of 1917: The Ballot, the Streets—or Both. New York: Palgrave Macmillan. ISBN 978-1-137-39377-7.
- Nomad, Max (1961) [1939]. “The Messiah: Vladimir Lenin, the New Teacher”. Apostles of Revolution. New York: Collier Books. tr. 300–370. LCCN 61018566. OCLC 984463383.
- Pannekoek, Anton (1938). Lenin as Philosopher. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 16 tháng 8 năm 2016.
- Ryan, James (2007). “Lenin's The State and Revolution and Soviet State Violence: A Textual Analysis”. Revolutionary Russia. 20 (2): 151–172. doi:10.1080/09546540701633452. S2CID 144309851.
- Service, Robert (1985). Lenin: A Political Life – Volume One: The Strengths of Contradiction. Indiana University Press. ISBN 978-0-253-33324-7.
- Service, Robert (1991). Lenin: A Political Life – Volume Two: Worlds in Collision. Indiana University Press. ISBN 978-0-253-33325-4.
- Service, Robert (1995). Lenin: A Political Life – Volume Three: The Iron Ring. Indiana University Press. ISBN 978-0-253-35181-4.
- Wade, Rex A. "The Revolution at One Hundred: Issues and Trends in the English Language Historiography of the Russian Revolution of 1917." Journal of Modern Russian History and Historiography 9.1 (2016): 9–38. doi:10.1163/22102388-00900003
Liên kết ngoài
![]() |
Từ điển từ Wiktionary |
![]() |
Tập tin phương tiện từ Commons |
![]() |
Danh ngôn từ Wikiquote |
![]() |
Văn kiện từ Wikisource |
![]() |
Dữ liệu từ Wikidata |
Thư viện tài nguyên ngoại văn về Vladimir Ilyich Lenin |
- Marx2Mao.org – Thư viện Internet Lenin
- V.I. Lenin (1975). Selected Works. 1. Moskva: NXB Tiến bộ.
- V.I. Lenin (1975). Selected Works. 2. Moskva: NXB Tiến bộ.
- V.I. Lenin (1975). Selected Works. 3. Moskva: NXB Tiến bộ.
- Newsreel về Vladimir Lenin // Net-Film Newsreels và Documentary Films Archive
- Lenin: A Biography, tường thuật chính thức của Liên Xô về cuộc đời của Lenin.
- Diễn văn của Lenin (video) trên YouTube – Diễn văn của Lenin có phụ đề tiếng Anh
- Thư mục Lưu trữ Internet Lenin bao gồm các cuộc phỏng vấn và bài viết về Lenin
- Các tác phẩm của Vladimir Ilyich Lenin tại Dự án Gutenberg
- Các tác phẩm của hoặc nói về Vladimir Ilyich Lenin tại Internet Archive (narrowed results)
- Các tác phẩm của hoặc nói về Vladimir Ilyich Lenin tại Internet Archive (broad results)
- Tác phẩm của Vladimir Ilyich Lenin trên LibriVox (sách audio thuộc phạm vi công cộng)
- Marxists.org Lenin Internet Archive – Tập hợp các bản thảo, một tiểu sử, cùng nhiều bức ảnh về Lenin.
- Các bài báo về Vladimir Ilyich Lenin tại Cục Lưu trữ Báo chí Thế kỷ 20 của ZBW
- Bài viết chứa nhận dạng Semantic Scholar author
- Người Nga gốc Do Thái
- Lãnh tụ Liên Xô
- Nhà báo Liên Xô
- Nhà báo Nga
- Lãnh tụ Cộng sản
- Vladimir Lenin
- Người cộng sản Nga
- Luật sư Nga
- Nhà triết học Nga
- Nhà triết học vô thần
- Triết gia chính trị
- Nhà lý luận Mác-xít
- Sinh năm 1870
- Mất năm 1924
- Tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô
- Chính khách Liên Xô
- Nhà cách mạng Nga
- Tử vong do đột quỵ