Iosif Vissarionovich Stalin
Iosif Vissarionovich Stalin | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
| |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
![]() Chân dung Stalin năm 1937 | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
![]() Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Nhiệm kỳ 3 tháng 4 năm 1922 – 16 tháng 10 năm 1952 | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Tiền nhiệm | Vyacheslav Molotov giữ chức Bí thư phụ trách | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Kế nhiệm | Nikita Khrushchev giữ chức Bí thư thứ nhất | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
![]() Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Nhiệm kỳ 15 tháng 3 năm 1946 – 5 tháng 3 năm 1953 | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Thủ tướng | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Phó Thủ tướng thứ nhất |
| ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Tiền nhiệm | Bản thân giữ chức Chủ tịch Hội đồng Dân ủy | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Kế nhiệm | Georgy Malenkov | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
![]() Chủ tịch Hội đồng Dân ủy Liên Xô | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Nhiệm kỳ 6 tháng 5 năm 1941 – 15 thảng 3 năm 1946 | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Tiền nhiệm | Vyacheslav Molotov | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Kế nhiệm | Bản thân giữ chức Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
| |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Thông tin cá nhân | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Sinh | Ioseb Besarionis dze Jughashvili[b] 18 tháng 12 [lịch cũ 6] năm 1878[c] Gori, Tiflis, Đế quốc Nga (nay là Gruzia) | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Mất | 5 tháng 3 năm 1953 Moskva, Nga Xô, Liên Xô (nay là Nga) | (74 tuổi)||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Nơi an nghỉ |
| ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Quốc tịch | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Đảng chính trị | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Phối ngẫu |
| ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Con cái | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Cha mẹ | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Giáo dục | Chủng viện Tbilisi | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Nghề nghiệp | Chính khách | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Chữ ký | ![]() | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Phục vụ trong quân đội | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Thuộc | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Phục vụ | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Năm tại ngũ |
| ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Cấp bậc | Nguyên soái (1943) | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Chỉ huy |
| ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Tham chiến | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
| |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Ủy viên trung ương
Chức vụ khác
|
Iosif Vissarionovich Stalin[e] hay Joseph Stalin[f] (tên khai sinh: Ioseb Besarionis dze Jughashvili;[b] 18 tháng 12 [lịch cũ 6 tháng 12] năm 1878[1] – 5 tháng 3 năm 1953) là một nhà cách mạng, nhà chính trị và lý luận chính trị người Gruzia. Ông giữ chức Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô giai đoạn 1922–1952 và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô giai đoạn 1941–1953. Về ý thức hệ, Stalin là người tin tưởng các kiến giải của Lenin đối với chủ nghĩa Marx, sau được ông hình thức hóa thành chủ nghĩa Marx-Lenin. Trong khi đó, các chính sách do ông ban hành thường được gọi là chủ nghĩa Stalin.
Stalin sinh thành trong một gia đình dân tộc Gruzia bần cùng ở thị trấn Gori, tỉnh Tiflis thuộc Đế quốc Nga (nay là Gruzia). Năm 1901, ông gia nhập Đảng Lao động Dân chủ Xã hội Nga Marxist và làm biên tập viên cho tờ Pravda. Trong khoảng thời gian này, ông tài trợ hoạt động của cánh Bolshevik do V. I. Lenin dẫn đầu bằng nhiều thủ đoạn như: trộm cướp nhà băng Đế quốc Nga, bắt cóc tống tiền quý tộc và bảo kê thu phí các khu mỏ tư bản. Liên tục bị chính quyền bắt giữ, ông đã dành nhiều năm tháng đày đọa ở Siberia. Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười và sự thành lập nhà nước cộng sản đơn đảng vào năm 1917, Stalin được bổ nhiệm vào Bộ Chính trị Bolshevik. Ông phục vụ Hồng quân trong Nội chiến Nga và giám sát hiệp ước thành lập Liên Xô vào năm 1922. Sau khi Lenin qua đời, Stalin vươn lên thâu tóm quyền lực và áp đặt "chủ nghĩa xã hội trong một quốc gia" làm chủ thuyết của Đảng Cộng sản Liên Xô. Nhờ các kế hoạch 5 năm do ông chủ trương, Liên Xô đã thực hiện tập thể hóa nông nghiệp và công nghiệp hóa nhanh chóng, kiến thiết nền kinh tế tập trung do nhà nước hoạch định. Tuy nhiên, sự gián đoạn nghiêm trọng đối với chuỗi cung cấp thực phẩm đã gây ra nạn đói 1930–1933 ở Liên Xô. Bên cạnh đó, nhằm diệt trừ "kẻ thù của giai cấp công nhân", Stalin đã tiến hành Đại thanh trừng, theo đó khoảng một triệu người đã bị bắt tới các trại lao động khổ sai gọi là Gulag và ít nhất 700.000 người đã bị xử tử từ năm 1936 đến năm 1938.
Stalin truyền bá chủ nghĩa Marx–Lenin thông qua Quốc tế Cộng sản và hỗ trợ các phong trào chống phát xít ở Châu Âu hồi những năm 1930, đơn cử như trong Nội chiến Tây Ban Nha. Năm 1939, chế độ của ông ký kết hiệp ước không xâm phạm với Đức Quốc xã, đặt tiền đề cho cuộc xâm lược Ba Lan tiếp sau. Năm 1941, Đức bãi bỏ hiệp ước và xâm lược Liên Xô, buộc Stalin phải gia nhập Khối Đồng minh với tư cách một trong ba lãnh đạo quyền lực nhất của khối này. Tuy thất bại trong giai đoạn đầu, Hồng quân Xô viết đã dần lấy lại đà thắng trước quân Đức và chiếm đóng Berlin vào năm 1945. Trong quá trình càn quét lãnh thổ địch, Liên Xô đã tiện thể sáp nhập các nước Baltic, Bessarabia và Bắc Bukovina, đồng thời dựng lên các chính phủ ủng hộ mình ở Đông–Trung Âu và một phần Đông Á. Với sự khép lại của Thế chiến II, Liên Xô và Hoa Kỳ trở thành hai siêu cường toàn cầu và bước vào giai đoạn căng thẳng mới gọi là Chiến tranh Lạnh. Stalin đảm trách công cuộc tái thiết Liên Xô thời kỳ hậu chiến và ủy nhiệm dự án phát triển bom hạt nhân vào năm 1949. Trong thời gian này, Liên Xô trải qua nạn đói lớn thứ hai và một làn sóng bài Do Thái, lên tới cao trào trong Âm mưu Bác sĩ. Sau khi Stalin qua đời vào năm 1953, nhà lãnh đạo mới của Liên Xô, Nikita Khrushchev, đã tố cáo chế độ cũ của người tiền nhiệm và khơi mào chính sách phi Stalin hóa mọi mặt đời sống xã hội Liên Xô.
Stalin được công nhận là một trong những nhân vật lịch sử cực kỳ quan trọng của thế kỷ 20. Ông là đối tượng của sự sùng bái cá nhân trong phong trào Marx-Lenin quốc tế, được tôn vinh là vị lãnh tụ xã hội chủ nghĩa đứng về phía nhân dân lao động. Kể từ khi Liên Xô giải thể vào năm 1991, Stalin vẫn giữ được tiếng tăm ở Nga và Gruzia vì nhân dân hai nơi đó xem ông như người có công đánh thắng phát-xít và đưa nước họ lên vị thế siêu cường. Dù vậy, chính quyền thời Stalin thường bị chỉ trích là toàn trị và bản thân Stalin cũng bị phê phán vì thực hiện nhiều chính sách tàn nhẫn như: áp bức chính trị, thanh lọc sắc tộc, trục xuất quy mô lớn, xử tử hàng loạt và trưng thu lương thực dẫn đến nạn đói nghiêm trọng.
Đầu đời
Tuổi thơ và thiếu thời: 1878–1899
Stalin chào đời tại thị trấn Gori, Gruzia;[2] bấy giờ là Tỉnh Tiflis thuộc Đế quốc Nga, ngôi nhà chung của các dân tộc Gruzia, Azerbaijan, Armenia, Nga, và Do Thái.[3] Ông sinh ngày 18 tháng 12 [lịch cũ 6 tháng 12] năm 1878,[4][g] và được rửa tội vào ngày 29 tháng 12 cùng năm.[6] Tên khai sinh của ông là Ioseb Besarionis dze Jughashvili,[b] hồi nhỏ còn được đặt biệt danh là "Soso", cách gọi yêu cái tên "Ioseb".[7] Cha ông tên là Besarion Jughashvili, còn mẹ ông tên là Ekaterine Geladze.[8] Stalin là người con duy nhất của cặp vợ chồng Geladze sống sót qua tuổi sơ sinh.[9]
Besarion là thợ vá giày làm thuê cho một nhà xưởng.[10] Ban đầu thu nhập của ông khá khẩm song về sau sa sút,[11] khiến gia đình rơi vào cảnh éo le.[12] Besarion trở nên nghiện rượu,[13] quay ra đánh đập vợ con.[14] Stalin và mẹ Ekaterine bỏ nhà ra đi vào năm 1883, phiêu bạt đó đây, chuyển nơi sống tận 9 lần trong vòng một thập kỷ tới.[15] Năm 1886, họ ở nhờ nhà người bạn là Cha Christopher Charkviani.[16] Ekaterine làm nghề giúp việc nhà để kiếm sống và mong muốn cho con trai đi học.[17] Tháng 9 năm 1888, Stalin được nhận vào trường Giáo hội Chính thống Gori,[18] nhờ sự giúp đỡ của Charkviani.[19] Tuy hay ẩu đả với đồng lứa,[20] Stalin học rất giỏi,[21] bộc lộ năng khiếu vẽ vời và kịch nghệ,[22] biết tự viết thơ,[23] và thích hát bè cùng các bạn.[24] Stalin từng có nhiều vấn đề về sức khỏe: Trận đậu mùa năm 1884 lưu lại trên mặt ông một vết sẹo;[25] năm 12 tuổi thì bị đâm trọng thương bởi một cỗ xe ngựa phaeton, đây có lẽ là lí do tại sao tay trái ông thường bị tê liệt suốt đời.[26]

Tháng 8 năm 1894, Stalin được nhận vào Chủng viện Tâm linh Chính thống giáo ở Tiflis. Do có trợ cấp học bổng, ông không phải trả một số khoản học phí.[27] Ông nội trú ở đây cùng 600 thực tập sinh mục sư,[28] đạt điểm số khá cao.[29] Ông tiếp tục sáng tác thơ; năm bài trong số đó, viết về các chủ đề như thiên nhiên, đất nước và tư tưởng ái quốc, được xuất bản dưới bút danh "Soselo" và đăng trên báo Iveria (Gruzia) của Ilia Chavchavadze.[30] Theo nhà nghiên cứu tiểu sử Simon Sebag Montefiore, chúng trở thành "những vần thơ Gruzia nhỏ song kinh điển",[31] xuất hiện ở nhiều quyển tuyển tập thơ Gruzia trong vòng vài năm tới.[32] Lớn lên, Stalin mất hứng thú với việc học tôn giáo, khiến điểm số trên lớp của ông sa sút.[33] Theo một số nguồn, ông thường xuyên bị cấm túc vì hành vi nổi loạn ở trường.[34]
Stalin tham gia một câu lạc bộ đọc sách cấm ở trường;[35] ông chịu ảnh hưởng rất lớn từ tiểu thuyết cách mạng Phải làm gì? (1863) của Nikolay Chernyshevsky[36] và Kẻ giết bố của Alexander Kazbegi; bí danh "Koba" của Stalin bắt nguồn từ tên nhân vật chính trong cuốn sách này.[37] Stalin biết đến tác phẩm Das Kapital (1867) của nhà lý luận người Đức Karl Marx.[38] Ông trở nên tin tưởng vào thuyết chính trị-xã hội Marxist,[39] bấy giờ đang khá thời thượng ở Gruzia; đây cũng là một trong những hình thức chủ nghĩa xã hội chống lại chế độ chuyên chế Sa hoàng.[40] Vào mỗi buổi đêm, ông tham dự các cuộc họp bí mật của công nhân[41] và được giới thiệu với Silibistro "Silva" Jibladze, nhà Marxist sáng lập phái Mesame Dasi ("Nhóm thứ ba").[42] Stalin rời chủng viện vào tháng 4 năm 1899 và không bao giờ quay trở lại.[43]
Đảng Lao động Dân chủ Xã hội Nga: 1899–1904

Tháng 10 năm 1899, Stalin làm việc cho đài khí tượng Tiflis.[44] Do khối lượng công việc không nhiều, ông dành thời gian rảnh cho các hoạt động cách mạng. Stalin thu hút một nhóm những người ủng hộ qua các lớp dạy lý thuyết xã hội chủ nghĩa của ông,[45] bí mật chủ trì một cuộc họp công nhân vào ngày 1 tháng 5 năm 1900,[46] và thuyết phục họ tổ chức biểu tình đình công.[47] Tới thời điểm này, cục cảnh sát mật Okhrana đã biết đến các hoạt động của Stalin trong hội nhóm cách mạng ở Tiflis.[47] Họ dự định bắt giữ Stalin vào tháng 3 năm 1901, song ông tẩu thoát kịp thời, lẩn trốn[48] và sống qua ngày nhờ khoản tiền do người thân chu cấp.[49] Phải sống lẩn lút, ông giúp đỡ để lên kế hoạch cho một cuộc biểu tình công nhân vào ngày 1 tháng 5 năm 1901, với sự tham gia của tầm 3.000 người, đụng độ với lực lượng trị an của triều đình.[50] Ông liên tiếp tránh né được sự lùng sục gắt gao của chính quyền bằng cách dùng tên giả và tạm trú ở nhiều căn hộ khác nhau.[51] Tháng 11 năm 1901, ông được bầu vào Ủy ban Tiflis của Đảng Lao động Dân chủ Xã hội Nga (RSDRP), một chính đảng Marxist thành lập vào năm 1898.[52]
Tháng đó Stalin lữ hành tới cảng thị Batum.[53] Luận điệu chủ chiến của ông đã gây chia rẽ nội bộ những người Marxist ở thành phố, một số nghi ngờ rằng ông là điệp viên hai mang của chính quyền Sa hoàng.[54] Ông tìm được một công việc tại nhà kho tinh luyện Rothschild, nơi ông đồng tổ chức hai cuộc đình công lớn.[55] Sau khi các thủ lĩnh công nhân bị bắt, ông tổ chức một cuộc biểu tình quần chúng, đột nhập vào nhà ngục địa phương; quân lính xả súng vào đám đông biểu tình, khiến 13 người thiệt mạng.[56] Stalin tổ chức một cuộc biểu tình nữa vào ngày tang lễ của họ,[57] trước khi bị bắt giam vào tháng 4 năm 1902.[58] Ban đầu bị tạm giam ở Nhà tù Batumi,[59] sau đó chuyển sang Nhà tù Kutaisi,[60] rồi vào giữa năm 1903 bị kết án 3 năm tù đày ở Siberi.[61]
Stalin rời Batum vào tháng 10, bị thuyên chuyển tới thị trấn Novaya Uda ở Siberi cuối tháng 11 năm 1903.[62] Tại đây, ông sống trong một căn nhà nông dân hai phòng, ngủ trong phòng trữ lương thực.[63] Ông từng hai lần định tẩu thoát: Lần đầu, ông chạy tới được Balagansk song phải quay lại vì bỏng lạnh;[64] lần thứ hai, vào tháng 1 năm 1904, thành công và tới được Tiflis.[65] Tại đây, ông cùng Philip Makharadze chủ bút tờ báo Marxist Gruzia Proletariatis Brdzola ("Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản").[66] Ông kêu gọi phong trào Marxist Gruzia mạnh dạn tách khỏi phong trào Marxist Nga; điều này đã khiến một số đảng viên RSDRP cáo buộc ông là có thái độ dân tộc đi ngược lại chủ nghĩa Marxist quốc tế, đồng thời kiến nghị khai trừ ông khỏi Đảng. Stalin rốt cuộc phải rút lại lời kêu gọi của mình.[67] Trong những năm tháng ông đi đày ải, RSDRP đã rạn nứt thành hai bè phái là "Bolshevik" của Vladimir Lenin và "Menshevik" của Julius Martov.[68] Stalin bất đồng với nhiều thành viên Menshevik ở Gruzia nên ngả theo phái Bolshevik.[69] Mặc dù tồn tại một bản doanh Bolshevik do Stalin thành lập tại thành phố mỏ Chiatura,[70] phái này vẫn chỉ là lực lượng thiểu số trong địa bàn Gruzia có phần đông là phe Menshevik.[71]
Cách mạng 1905 và hệ quả: 1905–1912
Tháng 1 năm 1905, quân đội Sa hoàng thảm sát người biểu tình ở Sankt-Peterburg. Bất ổn dần lan rộng toàn Đế quốc Nga và leo thang thành Cách mạng năm 1905.[73] Gruzia bị ảnh hưởng đáng kể từ sự kiện này.[74] Stalin trú ở Baku vào tháng 2, thời điểm mà căng thẳng sắc tộc giữa người Armenia và Azerbaijan đang lên đến đỉnh điểm; ít nhất 2.000 người thiệt mạng trong cuộc xung đột đi kèm.[75] Ông công khai khiển trách "cuộc pogrom chống lại người Do Thái và người Armenia" như một phần nỗ lực của Sa hoàng Nikolai II nhằm "củng cố ngai vàng đáng khinh của hắn ta".[76] Stalin thành lập Đội Biệt động Bolshevik, đóng vai trò chêm đệm giữa hai phe phái thù địch nhau tại Baku; ông cũng thừa cơ này để trộm cắp công cụ in ấn.[76] Ông tiếp tục mở rộng quy mô Đội Biệt động giữa triền miên xung đột Gruzia, đồng thời với động thái của phe Menshevik.[77] Các toán quân của Stalin giải giáp binh lính và cảnh sát địa phương,[78] đột kích kho vũ khí của chính phủ,[79] gây quỹ thông qua việc bảo kê các nhà kinh doanh và các hầm mỏ địa phương.[80] Họ thực hiện nhiều đợt tấn công nhắm vào lính Cossack và phiến quân Chernosotentsy ủng hộ Sa hoàng,[81] đôi khi còn phối hợp lực lượng với dân quân Menshevik.[82]
Tháng 11 năm 1905, những người Bolshevik Gruzia đề cử Stalin làm đại biểu thay mặt họ tham dự hội nghị Bolshevik được tổ chức tại Sankt-Peterburg.[83] Lúc tới nơi, ông hay tin trực tiếp từ người vợ của Lenin, bà Nadezhda Krupskaya, rằng địa điểm cuộc hẹn đã được chuyển đến Tampere ở Đại công quốc Phần Lan.[84] Tại hội nghị năm 1905, Stalin đã có vinh dự gặp mặt Lenin lần đầu tiên trong đời.[85] Tuy cực kì tôn kính Lenin, Stalin bày tỏ bất đồng đối với quan điểm của Lenin rằng phái Bolshevik phải cài những người ứng cử trong cuộc bỏ phiếu sắp tới vào trong Duma Quốc gia; Stalin cho rằng quá trình tiến cử quốc hội chỉ tổ phí thời gian mà thôi.[86] Tháng 4 năm 1906, Stalin dự Đại hội RSDRP lần thứ tư ở Stockholm; đây cũng là chuyến đi đầu tiên của ông ngoài Đế quốc Nga.[87] Tại hội nghị, Đảng RSDRP – khi đó phái Menshevik chiếm đa số – đồng thuận là sẽ không cướp có vũ trang để chu cấp cho các hoạt động cách mạng.[88] Lenin và Stalin bất đồng với quyết định này,[89] nên ngầm thảo luận với những đảng viên Bolshevik khác, lên kế hoạch cướp tiền Đế quốc nhân danh công cuộc cách mạng.[90]
Tháng 7 năm 1906, Stalin kết hôn với Kato Svanidze tại một nhà thờ Chính thống giáo ở Senaki.[91] Tháng 3 năm 1907, bà sinh cho ông một người con trai, đặt tên là Yakov.[92] Bấy giờ – theo nhà sử học Robert Service – Stalin đã xây dựng tên tuổi cho mình là "người Bolshevik tiên phong của Gruzia".[93] Ông dự Đại hội RSDRP lần thứ năm, được tổ chức tại Nhà thờ Brotherhood ở London từ tháng 5 đến tháng 6 năm 1907.[94] Trở về Tiflis, Stalin vạch kế hoạch cướp tiền của Ngân hàng Đế quốc vào tháng 6 năm 1907. Băng nhóm của ông đánh chặn thành công một đoàn hộ tống chờ tiền đi qua Quảng trường Erivansky bằng súng và bom tự chế. Khoảng 40 người thiệt mạng trong vụ cướp, song tất cả các thành viên của băng nhóm đều chạy thoát.[95] Sau phi vụ đó, Stalin chuyển tới sống ở Baku cùng vợ và con trai.[96] Tại đây, phái Menshevik đối mặt với Stalin về vụ tai tiếng, đồng thời đầu phiếu để khai trừ ông khỏi RSDRP, song Stalin phớt lờ họ.[97]

Stalin đảm bảo phe Bolshevik chiếm được thế thượng phong trong nhánh RSDRP ở Baku,[98] đồng thời biên tập hai tờ báo Bolshevik là Bakinsky Proletary và Gudok ("Tiếng huýt").[99] Tháng 8 năm 1907, ông tham dự Đại hội lần 7 của Đệ nhị Quốc tế – một tổ chức chính trị theo chủ nghĩa xã hội – ở Stuttgart, Đức.[100] Tháng 11 năm 1907, vợ của Stalin qua đời vì sốt typhus,[101] khiến ông đành giao phó con trai cho nhà ngoại nuôi ở Tiflis.[102] Tại Baku, ông tái hợp băng nhóm tội phạm Trang phục.[103] Họ tiếp tục đánh chặn phiến quân Chernosotentsy nhờ nguồn quỹ gây dựng bằng các thủ đoạn như bảo kê, rửa tiền, và trộm cướp.[104] Họ cũng bắt giữ nhiều con em quý tộc nhà giàu làm con tin để tống tiền.[105] Đầu năm 1908, Stalin lữ hành đến Geneva ở Thụy Sĩ để gặp Lenin và nhà lí thuyết Marxist người Nga nổi tiếng Georgi Plekhanov – vị này không có thiện cảm đối với Stalin.[106]
Tháng 3 năm 1908, Stalin bị bắt tạm giam tại Nhà tù Bailov ở Baku.[107] Ông trở thành thủ lĩnh của những người Bolshevik bị cầm tù, tổ chức các hội nhóm thảo luận, và ra lệnh giết những kẻ tình nghi tố giác.[108] Ông bị kết án hai năm đày ải ở Solvychegodsk, Tỉnh Vologda, tới đó vào tháng 2 năm 1909.[109] Tháng 6 cùng năm, ông trốn thoát khỏi ngôi làng, cải trang thành phụ nữ và chạy tới Kotlas, rồi từ đó đi Sankt-Peterburg.[110] Tháng 3 năm 1910, ông lại bị bắt và giải về Solvychegodsk.[111] Ở đây, ông nảy sinh tình cảm với bà chủ đất Maria Kuzakova – người đã sinh đứa con trai thứ hai cho Stalin tên là Konstantin.[112] Tháng 6 năm 1911, Stalin được phép chuyển tới Vologda, ở trong vòng hai tháng.[113] Tại đây, ông nảy sinh mối tình với Pelageya Onufrieva.[114] Ông trốn đi Sankt-Peterburg,[115] nhưng lại bị bắt vào tháng 9 năm 1911, lần này án lưu đày bị gia hạn thêm ba năm tại Vologda.[116]
Ủy ban Trung ương Đảng và tờ Pravda: 1912–1917

Tháng 1 năm 1912, những người Bolshevik tiến hành bầu cử Ủy ban chấp hành Trung ương Đảng tại Hội nghị Prague.[117] Ít lâu sau, Lenin và Grigory Zinoviev quyết định trao cho Stalin một ghế trong ủy ban.[117] Vẫn trú ở Vologda, Stalin đồng ý và giữ vị trí đó đến cuối đời.[118] Lenin tin tưởng Stalin vì lẽ, với tư cách là người dân tộc Gruzia, Stalin có thể vận động các dân tộc thiểu số khác ủng hộ Bolshevik.[119] Tháng 2 năm 1912, Stalin trốn tới Sankt-Peterburg lần nữa.[120] Tại đây, ông chịu trách nhiệm chuyển đối tuần báo Bolshevik Zvezda ("Tinh tú") thành nhật báo Pravda ("Sự thật"),[121] chính thức ấn hành vào tháng 4 năm 1912.[122] Vai trò biên tập viên của Stalin được giữ kín.[122]
Tháng 5 năm 1912, ông lại bị bắt và tống giam tại Nhà tù Shpalerhy, lần này lĩnh án ba năm đày ải ở Siberia.[123] Tháng 7 cùng năm, ông đặt chân đến ngôi làng hẻo lánh Narym,[124] ở đó cùng nhà cách mạng Bolshevik Yakov Sverdlov.[125] Hai tháng sau, Stalin và Sverdlov đào tẩu tới Sankt-Peterburg.[126] Trong khoảng thời gian ngắn quay lại Tiflis sau đó, Stalin và băng nhóm Trang phục đã mai phục một toa xe chở thư, nhưng hầu hết thành viên của băng này – trừ Stalin – bị chính quyền vây bắt.[127] Stalin trở về Sankt-Peterburg, tiếp tục biên tập và viết bài đăng trên tờ Pravda.[128]

Sau cuộc bầu cử Duma tháng 10 năm 1912, trong đó sáu đảng viên Bolshevik và sáu đảng viên Menshevik trúng cử, Stalin đã viết các bài báo kêu gọi sư hòa giải giữa hai phái Marxist, khiến Lenin phật lòng.[129] Cuối năm 1912, Stalin hai lần qua Áo-Hung để gặp Lenin ở Kraków,[130] rốt cuộc quy thuận sự phản đối của Lenin với phái Menshevik.[131] Tháng 1 năm 1913, Stalin đi Viên,[132] nhằm tìm kiếm lời giải cho 'vấn đề dân tộc', thiểu số hoặc đa số, trong Đế quốc Nga.[133] Lenin khuyến khích Stalin viết một bài luận về chủ đề này để lôi kéo các dân tộc muốn độc lập về phía Bolshevik, đồng thời cũng hy vọng sau đó họ sẽ liên minh với nước Nga do Bolshevik kiểm soát.[134]
Bài viết Chủ nghĩa Marx và Vấn đề Dân tộc của Stalin[135] lần đầu tiên được đăng trên số tháng Ba, tháng Tư, và tháng Năm năm 1913 trên tạp chí Prosveshcheniye của Bolshevik;[136] rất được Lenin ưng thuận.[137] Theo nhà nghiên cứu Montefiore, đây là "công trình nổi tiếng nhất của Stalin".[134] Ông xuất bản nó dưới bí danh "K. Stalin",[137] cái tên mà đã được sử dụng từ năm 1912,[138] gốc là từ "thép" (stal) trong tiếng Nga.[139] Vì vậy, biệt danh này có thể được dịch nôm na là "người thép".[140] Stalin có lẽ đã bắt chước cách dùng bí danh của Lenin,[141] và lấy đây làm tên riêng suốt phần đời còn lại.[142]
Tháng 2 năm 1913, Stalin bị bắt ở Sankt-Peterburg,[143] lần này lĩnh bốn năm đày ải ở Turukhansk hẻo lánh thuộc Siberia, nơi mà việc trốn chạy sẽ rất khó thành công.[144] Vào tháng 8, ông đặt chân đến ngôi làng Monastyrskoe, tuy nhiên sau sáu tuần lưu trú thì bị chuyển tới Kostino.[145] Tháng 3 năm 1914, quan ngại về cơ hội tẩu thoát của các phạm nhân, chính quyền đã áp giải Stalin sang thôn Kureika, tọa lạc gần mép Vòng Bắc Cực.[146] Tại đây, Stalin có mối tình với Lidia Pereprygina, khi đó mới 14 tuổi, tức là nằm trong tuổi cập kê hồi ấy.[147] Theo nhà nghiên cứu Montefiore, vào khoảng tầm tháng 12 năm 1914, họ sinh một đứa con nhỏ song nó bị chết non,[148] và sinh một đứa nữa, đặt tên là Alexander, vào tháng 4 năm 1917.[149][150]
Tại Kureika, Stalin chung sống với các tộc thổ dân người Tungus và người Ostyak,[151] dành phần lớn thời gian câu cá.[152]
Cách mạng Nga: 1917
Trong lúc Stalin thụ án phát lưu, Nga bước vào Thế chiến thứ nhất. Tháng 10 năm 1916, Stalin và nhiều đảng viên Bolshevik lưu đày khác bị gọi tòng quân, được thuyên chuyển đến Monastyrskoe.[153] Họ dừng chân ở Krasnoyarsk vào tháng 2 năm 1917,[154] nơi Stalin được miễn quân dịch vì cánh tay tàn tật của ông.[155] Do không muốn trải qua bốn tháng tù đày nữa, ông xin phép được hoàn thành quân vụ tại Achinsk.[156] Cách mạng Tháng Hai khơi mào khi Stalin ở đây; nhân dân Nga đứng lên khởi nghĩa ở Petrograd – tên mới của Sankt-Peterburg – khiến Sa hoàng Nicholas II phải hoảng hốt thoái vị để tránh bị lật đổ bạo lực. Đế quốc Nga giờ đây trở thành một nền cộng hòa trên thực tế, được điều hành bởi Chính phủ Lâm thời Nga theo chủ nghĩa tự do tư sản (liberal).[157] Trong bầu không khí hân hoan phấn khởi, Stalin đã bắt tàu hỏa đi Petrograd vào tháng 3.[158] Tại đây, Stalin và cộng sự Bolshevik Lev Kamenev lấy lại quyền kiểm soát tờ Pravda,[159] và Stalin được bổ nhiệm làm đại biểu của Bolshevik trong Ủy ban Chấp hành Xô viết Petrograd, một hội đồng công nhân khá quyền uy của thành phố.[160] Tháng 4 cùng năm, Stalin là người nhận được nhiều phiếu tín nhiệm thứ ba trong cuộc bầu cử cho vị trí trong Ủy ban Chấp hành Trung ương Bolshevik; Lenin đứng thứ nhất và Zinoviev thứ hai.[161] Điều này minh chứng cho vị thế cao cấp của Stalin trong nội bộ Đảng lúc bấy giờ.[162]
Chỉnh phủ ngụy hiện thời không do nhân dân lựa chọn và không chịu trách nhiệm trước nhân dân phải được thay thế bằng một chính phủ được nhân dân công nhận, được đại biểu của công nhân, binh sĩ và nông dân bầu chọn, và phải chịu trách nhiệm trước các đại biểu đó.
— Xã luận của Stalin trên tờ Pravda vào tháng 10 năm 1917, tạm dịch từ Service (2004:144)
Stalin tham gia tổ chức cuộc biểu tình vũ trang của những người ủng hộ Bolshevik vào tháng 7 năm 1917 ở Petrograd.[163] Sau khi sự biến này bị dập tắt, Chính phủ Lâm thời đã phát lệnh truy bức và đàn áp phái Bolshevik.[164] Vào đêm xảy ra vụ bố ráp trụ sở Pravda, Stalin đã kịp thời đưa Lenin trốn khỏi văn phòng, sau đó di chuyển lén nhà lãnh đạo Bolshevik từ nhà an toàn này sang nhà an toàn khác ở Petrograd, bảo đảm đường máu tới Razliv cho ông.[165] Với sự vắng mặt của Lenin, Stalin tiếp tục biên soạn tờ Pravda và giữ vai trò thay quyền lãnh đạo Bolshevik, giám sát Đại hội lần sáu được tổ chức chui của Đảng.[166] Lenin bắt đầu kêu gọi những người Bolshevik tiếm quyền bằng cách lật đổ Chính phủ Lâm thời Nga. Stalin và đồng sự cấp cao Leon Trotsky đều ủng hộ lời hiệu triệu của Lenin, song họ vấp phải phản đối từ phía Kamenev và nhiều đảng viên khác.[167] Lenin trở về Petrograd và thuyết phục tổ chức đảo chính tại cuộc họp của Ban Chấp hành Trung ương vào ngày 10 tháng 10.[168]
Ngày 24 tháng 10, cảnh sát bất ngờ khám xét các văn phòng báo chí của Bolshevik, đập phá trang thiết bị và máy in; Stalin cứu vớt được một số đồ đạc để tiếp tục viết lách.[169] Sớm ngày 25 tháng 10, Stalin cùng Lenin dự cuộc họp chốt của Ban Chấp hành Trung ương tại Viện Smolny, trụ sở điều hành cuộc Cách mạng Tháng Mười.[170] Dân quân Bolshevik nhanh chóng nắm quyền kiểm soát các trạm điện, bưu cục, nhà băng, tổng đài điện thoại và các cây cầu ở Petrograd.[171] Tàu tuần tiễu Rạng Đông, do Bolshevik kiểm soát, bắn phát pháo lệnh vào Cung điện Mùa đông; các đại biểu Chính phủ Lâm thời ra mặt đầu hàng và bị bắt giữ.[172] Mặc dù được giao trách nhiệm họp bàn với các đại biểu Bolshevik tại Đại hội Xô viết Toàn Nga lần hai về tình hình chính sự, vai trò của Stalin trong Cách mạng Tháng Mười không quá nổi bật.[173] Trotsky và các đối thủ Bolshevik khác của Stalin lấy đây là bằng chứng để xem nhẹ đóng góp của Stalin trong cuộc đảo chính, song giới sử gia hậu thế bác bỏ điều này.[174] Theo nhà sử học Oleg Khlevniuk, Stalin "giữ một vai trò quan trọng [trong Cách mạng Tháng Mười]... với tư cách là đảng viên Bolshevik cao cấp, ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, và chủ biên tờ Pravda";[175] nhà sử học Stephen Kotkin cũng công nhận Stalin đã có nhiều đóng góp lớn lao dẫn tới cuộc đảo chính.[176]
Phục vụ chính quyền của Lenin
Củng cố quyền lực: 1917–1918

Ngày 26 tháng 10 năm 1917, Lenin trở thành chủ tịch Hội đồng Dân ủy Nga Xô ("Sovnarkom").[177] Stalin ủng hộ quyết định của Lenin, không liên minh với phái Menshevik và Đảng Cách mạng Xã hội chủ nghĩa, song họ vẫn nhượng bộ một số vị trí cho Đảng Cách mạng Xã hội chủ nghĩa Tả khuynh.[178] Stalin bấy giờ là một trong tứ trụ của chính phủ mới, bên cạnh Lenin, Trotsky, và Sverdlov;[179] trong bốn người này, Sverdlov thường xuyên vắng mặt và qua đời vào tháng 3 năm 1919.[180] Văn phòng của Stalin ở gần nơi làm việc của Lenin bên trong Viện Smolny;[181] chỉ riêng ông và Trotsky có quyền ra vào phòng đọc của vị lãnh tụ mà không cần hẹn trước.[182] Mặc dù ít tiếng tăm hơn Lenin hoặc Trotsky,[183] ảnh hưởng của Stalin bên trong Đảng Bolshevik đang từ từ được củng cố.[184] Ông cùng Lenin ký các sắc lệnh đóng cửa các tờ báo thù địch chính quyền cách mạng,[185] và cùng Sverdlov chủ trì phiên họp của ủy ban tạo lập hiến pháp mới cho Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Liên bang Nga.[186] Ông nhiệt tình ủng hộ quyết định thành lập Cheka của Lenin, cũng như chiến dịch Khủng bố Đỏ do ủy ban mới này chịu trách nhiệm; viện dẫn rằng bạo lực nhà nước đã phục vụ đắc lực cho chính quyền tư bản, nên cũng sẽ tỏ ra hữu hiệu nếu được vận dụng bởi chính quyền Xô viết.[187] Không giống như các đảng viên Bolshevik cao cấp khác như Kamenev và Nikolai Bukharin, Stalin chưa bao giờ e ngại trước sự lớn mạnh của Cheka và sự lan rộng của cuộc Khủng bố Đỏ.[187]
Sau khi nghỉ việc Pravda,[188] Stalin được bổ nhiệm làm Dân ủy phụ trách Vấn đề Dân tộc. Ông chọn Nadezhda Alliluyeva làm thư ký riêng[189] và cưới bà vào một thời điểm sau đó.[190] Tháng 11 năm 1917, Stalin ký duyệt Sắc lệnh Dân tộc, trao quyền được ly khai và tự quyết cho các dân tộc thiểu số trong Đế quốc Nga.[191] Mục đích của Sắc lệnh chủ yếu mang tính chiến lược; những người Bolshevik muốn sự ủng hộ của các dân tộc thiểu số song vẫn hy vọng họ không thực sự muốn độc lập lãnh thổ.[192] Tháng đó, ông lữ hành tới Helsinki để trò chuyện với Đảng Dân chủ Xã hội Phần Lan, chấp nhận yêu sách độc lập của Phần Lan vào tháng 12.[192] Ban ngành của ông cung cấp kinh phí để thành lập các cơ sở in ấn và trường học sử dụng thổ ngữ thiểu số.[193] Đảng Cách mạng Xã hội chủ nghĩa cáo buộc các đàm phán của Stalin về liên bang và tự quyết dân tộc là bình phong cho các chính sách đế quốc chủ nghĩa và chuyên quyền của Sovnarkom.[186]
Vì sự tiếp diễn của Thế chiến thứ nhất, theo đó Nga vẫn đang gồng mình chống Đức và Áo-Hung, chính phủ của Lenin di chuyển từ Petrograd tới Moskva vào tháng 3 năm 1918. Stalin, Trotsky, Sverdlov, và Lenin chuyển tới sống và làm việc ở Điện Kremli.[194] Stalin ủng hộ ý kiến hòa hoãn với Liên minh Trung tâm của Lenin bằng cách đánh đổi một phần lãnh thổ.[195] Stalin cho rằng điều này là cần thiết vì – không như Lenin – ông cảm thấy một cuộc cách mạng vô sản ở Châu Âu chưa kề cận.[196] Lenin thuyết phục các đảng viên Bolshevik cao cấp chấp thuận ý kiến của ông, dẫn đến việc ký kết Hiệp ước Brest-Litovsk vào tháng 3 năm 1918.[197] Việc nhượng đất cho Liên minh Trung tâm đã khiến dân tình Nga rất phẫn nộ; Đảng Cách mạng Xã hội chủ nghĩa Tả khuynh rút khỏi chính phủ sau sự kiện này.[198] Đảng RSDRP sau đó được đổi tên thành Đảng Cộng sản Nga.[199]
Chỉ huy quân đội: 1918–1921

Sau Cách mạng Tháng Mười, các quân đội tả khuynh lẫn hữu khuynh dấy binh chống chính quyền mới, khơi mào cuộc Nội chiến Nga.[200] Nhằm đảm bảo chuỗi cung thực phẩm, vào tháng 5 năm 1918, Sovnarkom cử Stalin tới Tsaritsyn để trông coi việc thu mua lương thực ở miền nam nước Nga.[201] Nóng lòng muốn chứng tỏ tư chất chỉ huy,[202] ông liền nắm quyền điều hành chiến dịch của đạo Hồng quân tại đây,[203] ngoài ra còn kết thân với hai chiến hữu là Kliment Voroshilov và Semyon Budyonny.[204] Vì tin rằng mình có lợi thế quân số, Stalin áp dụng chiến thuật biển người để xuyên thủng hàng ngũ của phe Bạch Vệ chống-Bolshevik ở Tsaritsyn, gây tổn thất nhân mạng không đáng có.[205] Ngoài ra, ông cũng chỉ huy một chi nhánh Cheka địa phương, ủy quyền cho họ hành quyết những người bị tình nghi là phản cách mạng, đôi khi không cần qua xét xử.[206] Trái với quy định của chính phủ, ông cho phép Cheka thanh trừng quân đội và các cơ quan phụ trách thực phẩm của chuyên viên địa phương thuộc tầng lớp trung lưu.[207] Sự lạm dụng chiến dịch khủng bố của Stalin vượt trên mức hạn định của các lãnh đạo Bolshevik;[208] chẳng hạn, ông từng hạ lệnh cho đốt làng mạc để nông dân tuân thủ giao nộp lương thảo.[209]
Tháng 12 năm 1918, Stalin được cử tới Perm để điều tra xem tại sao lực lượng Bạch vệ của Alexander Kolchak có thể càn quét căn cứ Hồng quân ở đó.[210] Ông về Moskva khoảng giữa tháng 1 và tháng 3 năm 1919,[211] rồi được điều sang Mặt trận Tây tại Petrograd.[212] Khi binh lính của Trung đoàn Hồng quân 3 đào ngũ, ông đã ra lệnh xử tử nhiều kẻ để làm gương.[211] Vào tháng 12, ông quay lại Mặt trận Nam.[211] Trong thời chiến, ông đã chứng tỏ bản thân đối với Ủy ban Chấp hành Trung ương Đảng, phô diễn tinh thần quyết đoán, ý chí quyết tâm, và sẵn lòng lãnh trách nhiệm trong các tình huống xung đột.[202] Tuy nhiên, ông hay bất tuân mệnh lệnh và liên tục dọa từ chức khi bị mất thể diện.[213] Ông bị chỉ trích công khai bởi Lenin tại Đại hội Đảng lần 8 vì vận dụng chiến thuật không hợp lý, gây thiệt hại nhân mạng không đáng có.[214] Dù vậy, chính phủ vẫn trao tặng ông Huân chương Cờ đỏ vì sự tận tâm trong Nội chiến vào tháng 11 năm 1919.[215]
Cuối năm 1919, phái Bolshevik đã kiểm soát hoàn toàn chiến cục.[216] Sovnarkom bèn chuyển hướng sang việc lan truyền cách mạng vô sản ra toàn cầu, thành lập Quốc tế Cộng sản vào tháng 3 năm 1919; Stalin dự lễ khai mạc của tổ chức mới này.[217] Tuy Stalin không chung quan điểm với Lenin về cách mạng vô sản châu Âu, ông vẫn nhận thấy rằng, chừng nào Nga Xô còn đứng một mình thì nó sẽ cực kỳ yếu ớt.[218] Tháng 12 năm 1918, Stalin chuẩn bị sắc lệnh công nhận các cộng hòa Xô viết ở Estonia, Litva, và Latvia.[219] Những chính phủ Marxist này vốn từng bị lật đổ trong cuộc nội chiến, điều mà Stalin coi là không chính đáng.[220] Tháng 2 năm 1920, ông được bổ nhiệm làm Trưởng Ban Thanh tra Công Nông,[221] rồi được cử tới Mặt trận Kavkaz vào cùng tháng đó.[222]

Tiếp nối các giao tranh trước đó giữa Ba Lan và Nga, chiến tranh Ba Lan – Xô viết bùng nổ vào năm 1920, mở màn với sự kiện quân Ba Lan xâm lược Ukraina và chiếm đóng Kiev vào ngày 7 tháng 5.[223] Ngày 26 tháng 5, Stalin được điều tới Ukraina ở Mặt trận Tây Nam.[224] Hồng quân tái chiếm Kiev vào ngày 10 tháng 6, đánh lui quân Ba Lan về lãnh thổ của họ.[225] Ngày 16 tháng 7, Ban Chấp hành Trung ương phê duyệt quyết định đánh lấn sang Ba Lan.[226] Lenin tin rằng giai cấp vô sản Ba Lan sẽ nổi dậy để hỗ trợ quân Nga lật đổ chính phủ Józef Piłsudski.[226] Stalin khá dè chứng với đánh giá của Lenin, vì ông cho rằng chủ nghĩa dân tộc sẽ khiến công nhân Ba Lan ủng hộ cuộc chiến với Nga.[226] Ông cũng cho rằng, Hồng quân chưa có đủ trang bị để tiến hành một cuộc tổng tấn công, và điều này chẳng may sẽ giúp Quân Bạch vệ ở Krym củng cố lực lượng, rất có khả năng châm ngòi lại cuộc Nội chiến.[226] Tuy nhiên, lập luận của Stalin không có sức thuyết phục, nên ông đành thuận theo quyết sách của Lenin.[222] Tại Mặt trận Tây Nam, ông quyết tâm đánh chiếm Lvov; nhằm thực hiện được ý đồ này, ông bất tuân lệnh chuyển quân cho nỗ lực tấn công Warsaw của Mikhail Tukhachevsky vào đầu tháng 8.[227]
Giữa tháng 8 năm 1920, quân Ba Lan đã đẩy lùi cuộc tiến công của Nga, và Stalin quay về Moskva để hội kiến với Bộ Chính trị.[228] Ở Moskva, Lenin và Trotsky khiển trách thái độ của ông trong cuộc chiến với Ba Lan.[229] Stalin cảm thấy mình bị xem thường và tủi nhục; vào ngày 17 tháng 8, ông xin từ chức quân ngũ, được chấp thuận vào ngày 1 tháng 9.[230] Tại Hội nghị Bolshevik lần thứ 9 giữa tháng 9, Trotsky cáo buộc Stalin đã mắc phải "sai sót chiến lược" trong việc quản lí trận địa.[231] Trotsky cho rằng Stalin đã gây tổn hại đến chiến dịch do không tuân lệnh chuyển quân.[232] Lenin đồng tình với Trotsky, và không một ai trong cuộc họp đứng ra bảo vệ Stalin.[233] Do vậy, ông cảm thấy bị thất sủng và ngày càng thù ghét Trotsky.[214] Chiến tranh Ba Lan - Xô viết khép lại vào ngày 18 tháng 3 năm 1921 với việc ký kết Hòa ước Riga.[234]
Cuối đời Lenin: 1921–1923

Chính quyền Bolshevik bắt đầu tìm cách mở rộng tầm ảnh hưởng sang các nước láng giềng. Tháng 2 năm 1921, Nga Xô viết tuyên chiến với chính quyền Menshevik ở Gruzia.[235] Tháng 4 năm 1921, Stalin cử Hồng quân tiếp quản Turkestan.[236] Với tư cách Dân ủy viên phụ trách vấn đề Dân tộc, Stalin tin rằng mỗi quốc gia dân tộc và nhóm sắc tộc nên có quyền được tự biểu lộ quan điểm,[237] chủ trương đề ra khái niệm "cộng hòa tự trị" bên trong một liên bang thống nhất.[238] Một số nhà lý luận Marxist chỉ trích Stalin vì lập trường mang màu sắc dân tộc chủ nghĩa tư sản này, còn số khác lại cáo buộc ông là có quan điểm thiên vị Nga.[237]
Dãy Kavkaz đa sắc tộc, nơi chôn rau cắt rốn của Stalin, bấy giờ lại là rào cản lớn nhất đối với chính sách dân tộc do ông ban bố.[239] Stalin phản đối việc lập ra các nhà nước cộng hòa Gruzia, Armenia, và Azeri tự chủ, viện lý rằng các dân tộc thiểu số vẫn sẽ bị đàn áp nếu làm vậy; thay vào đó, ông kêu gọi thành lập duy nhất một nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Liên bang Ngoại Kavkaz.[240] Đảng Cộng sản Gruzia tuy vậy không tiếp thu ý kiến của Stalin, dẫn đến mâu thuẫn mà thường được gọi là sự vụ Gruzia.[241] Giữa năm 1921, Stalin trở về quê nhà ở miền nam Kavkaz, nhằm khuyển nhủ các đảng viên Gruzia chớ có tư tưởng sô-vanh dân tộc chủ nghĩa mà chà đạp quyền lợi của các dân tộc thiểu số sống cạnh bên như người Abkhazia, người Ossetia, và người Adjara.[242] Nhân tiện dịp này, Stalin thăm con trai Yakov và đưa cậu lên Moskva nuôi nấng.[243] Tháng 3 năm 1921, Nadezhda hạ sinh con trai thứ hai của Stalin, đặt tên là Vasily.[243]
Sau khi cuộc Nội chiến Nga kết thúc, các cuộc đình công của công nhân và các cuộc khởi nghĩa nông dân bùng nổ xuyên khắp Nga, hầu hết là để phản đối lệnh trưng thu lương thực của Sovnarkom; do vậy mà Lenin đành thông qua Chính sách kinh tế mới (NEP) vào năm 1921.[244] Lục đục cũng bắt đầu biểu hiện bên trong Đảng Cộng sản Nga, bắt nguồn từ việc Trotsky muốn bãi bỏ các công đoàn; Lenin phản đối điều này, dẫn đến việc Stalin phải giúp thành lập một bè phái chống Trotsky bên trong Đảng.[245]
—"Di chúc Lenin" ngày 4 tháng 1 năm 1923. Tạm dịch từ bản tiếng Anh của Service (2000).[246][i]

Tháng 5 năm 1922, Lenin đột quỵ, tê liệt một phần thân.[248] Do phải dưỡng bệnh ở dacha Gorki, Lenin liên lạc với Sovnarkom thông qua Stalin, người thường xuyên đến thăm ông.[249] Lenin từng hai lần hỏi Stalin cho ông thuốc độc để tự tử, song bị từ chối.[250] Bất chấp tình đồng chí giữa hai người, Lenin không thích cách xử sự "Á Châu" của Stalin, từng nói với em gái Maria rằng Stalin "không sáng suốt".[251] Về chính sách, Lenin và Stalin mâu thuẫn về vấn đề ngoại thương; Lenin tin rằng nhà nước Xô viết nên giữ độc quyền về ngoại thương, còn Stalin ủng hộ lập trường của Grigori Sokolnikov rằng làm vậy là chưa thiết thực ở thời điểm hiện tại.[252] Một tranh cãi khác nảy sinh giữa hai người trong Sự vụ Gruzia, theo đó Lenin ủng hộ nguyện vọng thành lập Cộng hòa Xô viết Gruzia của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Gruzia, hơn là ý kiến của Stalin nhằm thành lập một Liên bang Ngoại Kavkaz.[253]
Lenin và Stalin cũng bất đồng với nhau về bản chất của nhà nước Xô viết. Lenin kêu gọi thành lập "Liên bang các Cộng hòa Xô viết của Châu Âu và Châu Á", phản ánh mong muốn của ông nhằm lan rộng tầm ảnh hưởng của Xô viết ra hai châu lục và khuyên Nga Xô nên tham gia liên bang này với tư cách bình đẳng như các Cộng hòa khác.[254] Stalin tin rằng điều này sẽ khiến các dân tộc phi-Nga muốn độc lập hơn, vậy nên ông đề nghị các dân tộc thiểu số gia nhập Nga Xô với tư cách "cộng hòa tự trị".[255] Lenin phê phán Stalin vì "tư tưởng sô vanh Đại Nga", còn Stalin vu cáo Lenin có "tư tưởng tự do tư sản dân tộc".[256] Rốt cuộc hai người họ đi đến thỏa hiệp, đổi tên liên bang mới thành "Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết" (Liên Xô).[254] Sự khai sinh của Liên Xô được chính thức phê chuẩn vào tháng 12 năm 1922; tuy là một nhà nước liên bang trên danh nghĩa, tất cả các quyết định quan trọng đều phải được chuẩn y bởi Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Liên Xô ở Moskva.[257]
Lenin và Stalin cũng nảy sinh xích mích trong đời tư; Lenin đã rất tức giận khi hay tin Stalin xỉ mắng Krupskaya qua một cuộc điện thoại.[258] Vào năm cuối đời của Lenin, Krupskaya đã trình bày cái gọi là "Di chúc Lenin" cho một số nhân vật cấp cao, trong đó có chỉ trích thái độ thô lỗ và chuyên quyền của Stalin, đồng thời khuyến nghị miễn nhiệm chức Tổng Bí thư của ông ta.[259] Nhà sử học Kotkin đã đặt nghi vấn về tính xác thực của tài liệu này, gợi ý rằng có lẽ Krupskaya đã thảo nó.[247] Tuy nhiên, bản thân Stalin chưa bao giờ nghi ngại về vấn đề này.[260]
Gia tăng quyền bính
Kế tục Lenin: 1924–1927

Lenin trút hơi thở cuối cùng vào tháng 1 năm 1924.[261] Stalin cáng đáng tang sự cho vị lãnh tụ; tại tang lễ, ông là một trong những người đứng ra khiêng tiễn linh cữu của Lenin; trái với nguyện vọng của bà Krupskaya, Bộ Chính trị quyết định bảo quản và lưu giữ thi hài của Lenin trong lăng Quảng trường Đỏ ở Moskva.[262] Điều này dần trở thành một phần của tục sùng bái cá nhân Lenin ở Liên Xô; Petrograd được đổi tên thành "Leningrad" cùng năm.[263] Nhằm xây dựng hình ảnh của mình như một người Leninist tận tụy, Stalin thuyết giảng chín bài giảng mang tên "Các nền tảng của chủ nghĩa Lenin" tại Đại học Sverdlov, sau được xuất bản dưới dạng sách in.[264] Tại Đại hội Đảng lần thứ 13 vào tháng 5 năm 1924, "Di chúc Lenin" được đọc trước các đại biểu tỉnh ủy.[265] Hổ thẹn với những lời phê bình trong đó, Stalin xin từ chức Tổng Bí thư; hành động khiêm nhường này đã cứu vãn thể diện của ông, và Bộ Chính trị cho phép ông tiếp tục đảm đương chức nhiệm.[266]
Trên cương vị Tổng Bí thư, Stalin gần như nắm toàn quyền bổ nhiệm cán bộ, cho phép ông đưa đồng minh lên giữ các chức vụ chủ chốt trong Đảng và chính phủ.[267] Bên trong Đảng, ông thiên vị các đảng viên trẻ tuổi có xuất thân vô sản, hơn là nhóm "Bolshevik Già", những người mà xuất thân chủ yếu từ tầng lớp trung lưu đã tốt nghiệp đại học.[268] Bên cạnh việc tiếp xúc thường xuyên với những viên chức non trẻ,[269] Stalin cũng gây dựng mối quan hệ thân thiết với ba thủ trưởng cảnh sát mật (Cheka và cơ quan hậu thân, Tổng cục Chính trị Nhà nước): Felix Dzerzhinsky, Genrikh Yagoda, và Vyacheslav Menzhinsky.[270] Tháng 2 năm 1926, vợ ông sinh bé gái Svetlana.[271]
Sau khi Lenin mất, nhiều nhân vật cốt cán nổi lên muốn được kế tục di sản của ông: bên cạnh Stalin còn có Trotsky, Zinoviev, Kamenev, Bukharin, Alexei Rykov, và Mikhail Tomsky.[272] Stalin coi Trotsky – người mà ông có tư thù day dứt[273] – là trở ngại chính đối với quyền lực của mình bên trong Đảng.[274] Trên thực tế, trong những năm tháng Lenin ốm đau bệnh tật, Stalin đã xây dựng một bè phái chống Trotsky cùng Kamenev và Zinoviev.[275] Tuy Zinoviev quan ngại về uy thế manh nha của Stalin, ông vẫn đứng sau ủng hộ Stalin làm đối trọng với Trotsky ở Đại hội Đảng lần thứ 13.[276] Phe Đối lập cánh Tả do Trotsky lập ra cho rằng NEP đang nhượng bộ quá nhiều cho chủ nghĩa tư bản; Stalin bị gọi là một "tên hữu khuynh" vì ủng hộ chính sách này.[277] Đáp lại, Stalin bắt đầu gây dựng một nhóm ủy viên ủng hộ mình trong Ban Chấp hành Trung ương Đảng,[278] còn phe Đối lập cánh Tả dần bị gạt khỏi quyền lực.[279] Ông chiêu mộ được Bukharin về phe mình, người mà giống Stalin, cũng tin rằng các đề xuất của phe Đối lập cánh Tả sẽ khiến Liên Xô trở nên bất ổn.[280]

Phi kulak hóa, tập thể hóa, và công nghiệp hóa: 1927–1931
Chính sách kinh tế
— Stalin tháng 2 năm 1931, tạm dịch theo Service (2004:273)
Nền công nghiệp của Liên Xô lúc bấy giờ thua kém hoàn toàn so với phương Tây,[281] và thiếu hụt ngũ cốc cũng là một vấn đề nhức nhối; sản lượng ngũ cốc năm 1927 ở Liên Xô chỉ bằng 70% năm 1926.[282] Ngoài ra, Stalin cũng lo sợ mối đe dọa từ Nhật, Pháp, Anh, Ba Lan, và Romania.[283] Phần lớn các tổ chức của Đảng Cộng sản, trong đó có Komsomol, OGPU, và Hồng quân, đã trở nên nóng lòng muốn dỡ bỏ chính sách NEP,[284] vì lo ngại tầm ảnh hưởng của những kẻ hưởng lợi từ chính sách này; cụ thể là tầng lớp phú nông, hay "kulak", và các chủ doanh nghiệp nhỏ, hay "NEPmani".[285] Vào thời điểm đó, Stalin cũng tỏ ý chống chính sách NEP, lập trường mà có thể coi là "thiên tả" hơn cả Trotsky hoặc Zinoviev.[286]
Đầu năm 1928, Stalin đi Novosibirsk, nơi ông cáo buộc kulak địa phương tàng trữ ngũ cốc, bèn ra lệnh bắt giữ kulak và tịch thu mùa vụ của họ để đem về Moskva vào Tháng 2.[287] Theo chỉ đạo của ông, các đội trưng thu ngũ cốc được lập ra ở khắp miền Tây Siberia và ở Dãy Ural, dẫn đến xung đột với tầng lớp nông dân.[288] Stalin ra thông cáo rằng cả phú nông lẫn trung nông đều phải miễn cưỡng giao nộp mùa vụ.[289] Bukharin cùng nhiều ủy viên Ban Chấp hành Trung Ương Đảng đã rất phẫn nộ do không được thông tin về chuyện này.[290] Tháng 1 năm 1930, Bộ Chính trị phê duyệt chính sách trừ khử tầng lớp phú nông; những kulak bị tố cáo sẽ phải lãnh án phát lưu tại các trại tập trung nơi xa xôi hẻo lánh.[291] Nhiều trong số họ bỏ mạng trên các chuyến đi.[292] Tới tháng 7 năm 1930, hơn 320.000 hộ gia đình đã bị ảnh hưởng bởi chính sách phi kulak hóa.[291] Theo Dmitri Volkogonov, quá trình phi kulak hóa là "cuộc khủng bố hàng loạt đầu tiên được áp dụng bởi Stalin trong chính đất nước của ông ta."[293]
Năm 1929, Bộ Chính trị tiến hành tập thể hóa ruộng đất nông nghiệp trên diện rộng,[295] thiết lập hai kiểu nông trang là kolkhozy hợp tác xã và sovkhoz nhà nước.[296] Stalin cấm phú nông tham gia hợp tác xã.[297] Tuy trên danh nghĩa tự nguyện, nhiều nông dân thực chất tham gia hợp tác xã vì sợ phải chịu chung số phận với bọn phú nông; số khác thì bị đe dọa hoặc cưỡng ép tham gia bởi những người thân với Đảng.[298] Tới năm 1932, khoảng 62% hộ nông gia làm hợp tác xã, và tới năm 1936 thì đã đạt 90%.[299] Nhiều hợp tác xã viên uất ức vì mất ruộng đất tư hữu,[300] khiến năng suất sụt giảm.[301] Nạn đói lan rộng khắp nơi[302] khiến Bộ Chính trị thường xuyên phải hạ lệnh tái phân phối lương thực để cứu đói nhiều vùng.[303]
Bạo loạn vũ trang chống chính sách phi kulak hóa và tập thể hóa bùng nổ ở Ukraina, bắc Kavkaz, nam Nga, và Trung Á, lên đến đỉnh điểm vào tháng 3 năm 1930; tất cả đều bị Hồng Quân dập tắt.[304] Stalin viết một bài báo phản biện rằng, việc tập thể hóa là hoàn toàn tự nguyện, đồng thời khiển trách thậm tệ các quan chức địa phương.[305] Tuy Bukharin và Stalin khá thân thiết nhau,[306] Bukharin lại rất ngờ vực chính sách của bằng hữu; sở dĩ vì Bukharin cho rằng đây là sự trở về với chính sách "cộng sản thời chiến" khi trước của Lenin và tin rằng nó sẽ thất bại. Dẫu vậy, tới giữa năm 1928, Bukharin không có đủ người ủng hộ bên trong Đảng để chống lại cải cách.[307] Tháng 11 năm 1929, Stalin nhanh chóng bãi nhiệm Bukharin khỏi Bộ Chính trị.[308]
Trấn áp đối thủ
Mặc dù trong thời kỳ Nội chiến Nga, các lãnh đạo Bolshevik như Lenin, Trotsky đã từng sử dụng các biện pháp trấn áp nhằm tiêu diệt kẻ thù của Cách mạng (quân Bạch Vệ) và gieo rắc nỗi sợ cho kẻ thù dưới tên "Khủng bố Đỏ", chính Stalin là người tiến hành việc thanh trừng trong nội bộ Đảng Cộng sản và trải rộng toàn xã hội Soviet, tạo nên một thời kỳ thường gọi là "Đại thanh trừng" hoặc "Đại Khủng bố" (tên gọi sau nhắc lại thời kỳ Triều đại Khủng bố trong Cách mạng Pháp năm 1789), kéo dài từ năm 1934 tới năm 1940.[309]

Tuy đã nắm được vị trí tối cao trong Đảng, Stalin vẫn cảm thấy nguy cơ bị thách thức về chính trị, nhất là sau những hỗn loạn xã hội đầu thập niên 1930 và nạn đói năm 1933.[310] Mặt khác, Stalin đã cho rằng Đảng Cộng sản Liên Xô không thể củng cố hàng ngũ của mình nếu không có những cuộc thanh lọc định kỳ đối với những cán bộ tham nhũng suy thoái, biến chất trong nội bộ[311]:
Trong Liên Xô
Từ "thanh trừng" ban đầu chỉ có nghĩa giới hạn trong việc khai trừ những đảng viên bị coi là "thiếu phẩm chất" hoặc đi theo "đường lối phản cách mạng": Chỉ trong năm 1933 đã có 400 nghìn Đảng viên bị khai trừ. Tuy nhiên về sau việc khai trừ thường đồng nghĩa với bắt giữ, thẩm vấn hoặc thậm chí là xử tử.
Ngày 1 tháng 12 năm 1934, Bí thư Thành ủy Leningrad, Sergei Kirov bị ám sát, Stalin lấy cớ đó để phát động thanh trừng hàng loạt, mở đầu bằng việc xử tử 104 người với cáo buộc họ tham gia vào âm mưu giết Kirov, mặc dù họ đang ở trong tù vào thời điểm xảy ra vụ ám sát.[312] Nhiều nhân vật đương thời và các nhà sử học về sau tin rằng chính Stalin đã ra lệnh giết Kirov, tuy là một người theo đường lối Stalin nhưng một ngôi sao chính trị đang lên trong Đảng, làm lu mờ cả vị trí của Stalin.[313]
Tràng An báo (xu hướng bảo hoàng) số ngày 27 tháng 1 năm 1942 lấy lại từ báo Dépêtre d'Indochine bình luận mục đích của Stalin trong sự kiện này là nhằm loại bỏ những phần tử hiếu chiến trong quân đội:
“ | Năm 1936, hàng trăm võ quan tinh thông thao lược, nhưng được mệnh danh là "những con rắn lục tà dâm" bị thắt cổ chết trong các ngục đường tối đen của sở trinh thám Guépéou. Ở Nga người ta cho những cuộc thanh trừng ấy là những phương pháp vãn cứu Hồng quân rất có hiệu lực. Trotsky đã đầu độc Hồng quân với thuyết "thường trực cách mệnh" là lý thuyết đã quả quyết rằng những việc xảy đến ở Nga chỉ là một giai đoạn trong cuộc thế giới cách mệnh. Hồng quân vì thế phải còn can thiệp vào nhiều nước ngoài để chuẩn bị cuộc "cách mệnh xâm lược các nước tư bản". Cũng vì thế người ta đã nghiên cứu đến một chiến lược tấn công. Nhưng Stalin đã giác ngộ các đồng chí trong những mộng tưởng phiêu lưu ghê gớm về tương lai ấy, thống chế Toukhatchevski vì thế bị lên đoạn đầu đài. Cuộc thanh trừng năm 1936 đã xóa tan những ảo mộng xâm lược ngoại quốc để đem Hồng quân về làm nhiệm vụ phòng thủ hoàn toàn, theo những quan niệm của các thủ lĩnh cộng sản kỳ cựu. Cho nên Stalin đã từ chối không muốn giúp gì mấy cho mấy bình dân chiến tuyến Tây Ban Nha hồi năm 1936. Stalin đã có công tăng cường lực lượng Hồng quân bằng cách khu trục tất cả những kẻ "tham lam trọng tội", những kẻ mơ ước như Napoleon. Thì ra ngoài mặt Stalin vẫn hô hào Sô liên chinh phục ngoại quốc, kỳ thật Stalin là kẻ lo sợ ngoại quốc xâm lăng hơn ai cả.[314] | ” |
Trên tờ Sông Hương số ngày 3 tháng 7 năm 1937:
“ | Thống chế Toukhachevski và bảy viên Nguyên soái ở Nga bị đưa ra tòa vì tội gián điệp, mật thám cho ngoại quốc (Đức), để mưu đồ việc đảo chính và thực hiện lại xã hội tư bản... Trotsky bị đổ, Toukhatchevski kì tưởng chừng sự nghiệp sẽ bị tiêu tan theo. Một sự may mắn, người ta lại thăng cho y chức thống chế. Thật y không hiểu gì cả... Hồi vụ án Trotsky mới đây thôi, người ta đã bắt một sĩ quan hạ thuộc của y. Tuy thế người ta vẫn để y yên ổn. Ngày 1 tháng 5 vừa rồi, trước đài Kemlin xem duyệt binh, y vẫn đứng bên phải của Staline. Chỉ năm tuần sau (11 Juin) là y bị bắt... Ngày 12 Toukhatchevski và 7 viên nguyên soái đã bị xử tử rồi. Lời bàn: Làm bá tước làm quan với Nga hoàng, làm tay chân cho Trotsky, tất đến làm mật thám cho Đức. Một bước đường tất nhiên của lịch sử vậy.[315] | ” |
Các nhóm thiểu số dân tộc và tôn giáo bị nghi ngờ móc nối với ngoại quốc cũng trở thành nạn nhân của cuộc thanh trừng. Các dân tộc Trung Á và người Do Thái bị truy bức, nhưng nặng nề nhất là người Ba Lan với con số ước tính 143 810 người bị bắt giữ và 111 091 người bị hành quyết.[316] Khoảng 85% trên tổng số 35 nghìn linh mục bị bắt, khoảng 100 nghìn người liên quan tới tôn giáo bị giết. Trong số các nạn nhân có cả vài trăm người là di dân từ Hoa Kỳ và Canada do cuộc Đại khủng hoảng.[317]
Bên ngoài Liên Xô
Chiến dịch thanh trừng của Stalin cũng vươn ra ngoài địa hạt Liên Xô. Quốc tế Cộng sản được chỉ đạo tiến hành thanh trừng hàng loạt trong đội ngũ lãnh đạo và tấn công những người theo Trotsky trên thế giới. Hàng loạt lãnh đạo đảng cộng sản bị triệu hồi về Moskva rồi bị thẩm vấn, nhiều trong số họ bị bỏ tù (lãnh tụ cộng sản Việt Nam Hồ Chí Minh cũng từng bị thẩm vấn và điều tra bởi một nhóm ba người nhưng không bị kết tội).[318] Stalin cũng gửi điệp viên tới các quốc gia khác để mưu sát những người chạy trốn và những địch thủ khác, đáng chú ý nhất là vụ mưu sát Trotsky tại nơi ở của ông này ở México.[319]
Ở những vùng ảnh hưởng của Liên Xô, Stalin cũng tìm cách phát động các cuộc thanh trừng. Các thành viên NKVD của Liên Xô được gửi tới Cộng hòa Nhân dân Mông Cổ và Tân Cương (dưới quyền lãnh chúa Thịnh Thế Tài thân Liên Xô) để chống lại cái gọi là khuynh hướng Trotsky hoặc "gián điệp cho Nhật" ở nơi đây. [320][321] Cuộc thanh trừng ở Mông Cổ đã dẫn tới việc xử tử khoảng 18000 lạt ma, cùng với một số nhân vật chính trị và cả dân thường.[322] Những hố chôn tập thể của hàng trăm thường dân và tu sĩ Phật giáo bị hành quyết được phát hiện ở đây vào năm 2003.[323]
Hậu quả và vai trò của Stalin
Về mặt chính trị, Đại thanh trừng đã loại bỏ hầu như mọi sự đối đầu với quyền lực cá nhân của Stalin. Hầu hết những người Bolshevik đồng chí với Stalin và Lenin thời kỳ đầu đều bị xử tử, trừ vài người như Molotov và Kalinin chịu tuân phục Stalin.
Các nhân vật chính trị, trí thức, nghệ sĩ sau khi bị bắt giữ thì tên tuổi của họ cũng bị xóa sạch khỏi các văn bản, tranh ảnh, như là chưa hề tồn tại. Vụ thanh trừng tuy vậy làm suy yếu năng lực điều hành của chính quyền, nhất là sự thiếu hụt sĩ quan có kinh nghiệm trong quân đội.[326]

Mặc dù Yagoda, Yezhov và Beria trực tiếp chỉ đạo việc thanh trừng, Stalin đóng vai trò chỉ lãnh đạo cao nhất và liên hệ chặt chẽ với nó. Đã từng có những lý thuyết trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh về nỗi sợ khủng bố, sự mất kiểm soát của chính quyền trung ương và về vai trò của các nhà lãnh đạo khu vực như là nguyên nhân chính dẫn tới số lượng người chết quá lớn, nhưng theo nhà sử học Oleg V. Khlevniuk thì các lý do này đơn giản là không được các ghi chép lịch sử ghi lại.[327] Trong một số trường hợp, Stalin đã trực tiếp chỉ đạo Yezhov thẩm vẫn những người không chịu thú tội.[328] Trong suốt thời kỳ những năm 1937 và 1938, Stalin đã tự tay ký 357 danh sách trong đó chuẩn thuận việc tòa án tuyên án tử hình hàng nghìn người, và 90% số đó về sau được xác nhận là đã bị bắn.[329] Stalin cũng chọn riêng Vasili Blokhin giám sát việc thi hành án tử hình các nhân vật quan trọng.[330]
Sử gia Đức, một giáo sư khác về lịch sử Đông Âu tại đại học Humboldt ở Berlin, Jörg Baberowski, đã từ bỏ quan điểm ban đầu cho là Stalin tiến hành cuộc thanh trừng vì ý thức hệ độc tài cấp tiến muốn cải tổ và tạo trật tự xã hội mà ông bị ảnh hưởng của tư tưởng Zygmunt Bauman. 7 năm sau, sau khi đọc hàng ngàn trang tài liệu, trong cuốn sách mới ấn bản 2012 với tựa là "Verbrannte Erde – Stalins Herrschaft der Gewalt", ông cho là Stalin đã bị chứng Rối loạn nhân cách chống xã hội bạo động, cho nên mới có những bạo động có hoạch định và có chỉ tiêu.[331]
rong cuốn sách được viết sau 10 tuần ở Liên Xô vào năm 1941, Quentin Reynolds thì cho rằng cuộc thanh lọc của Stalin là một biện pháp hữu hiệu để chống lại gián điệp và bảo vệ đất nước trong Thế Chiến thứ Hai[332]:
- "Hôm nay đã không còn một gián điệp, không còn một kẻ phản bội nào ở nước Nga Xô Viết. Người Đức đã cố gắng một cách tuyệt vọng để thiết lập các tòa án với người dân địa phương là người đứng đầu danh nghĩa của các tòa án đó khi họ chiếm các thành phố như Odessa, Kiev, và những nơi khác trong cuộc tiến quân thành công của họ vào mùa thu năm ngoái. Nhưng trong mọi trường hợp, Đức không thu được thành công. Những kẻ phản bội tiềm năng, tất cả đã bị tống vào các trại lao động của phía bắc xa xôi. Stalin biết rõ những gì ông đã làm vào năm 1938: tinh thần đoàn kết tuyệt vời của người dân nước Nga hiện nay và tinh thần hoàn toàn không khiếp sợ trước thảm kịch khủng khiếp mà Đức gây ra là bằng chứng thực tế rằng người dân Nga chấp nhận các cuộc thanh trừng của Stalin. Nói cách khác, đó là việc "Bạn không thể làm món trứng tráng mà không đập vỡ quả trứng".
Cùng là một con người và sự kiện, nhưng tùy theo nhãn quan chính trị mà việc đánh giá Stalin là rất khác nhau. Ngày nay, sách giáo khoa lịch sử của Nga nhìn nhận sự trấn áp của Stalin một cách khách quan hơn. Trong thời kỳ này, ở Liên Xô luôn tồn tại chủ nghĩa dân tộc cực đoan đe dọa gây ra thảm họa mới cho đất nước. Trong khoảng thời gian 1944-1954, đã có tới 40.000 dân thường chết do lực lượng theo chủ nghĩa dân tộc gây ra. Stalin đã cứng rắn và khôn khéo lãnh đạo đất nước dập tắt phong trào này, góp phần củng cố, phát triển Liên bang Xô Viết. Sách giáo khoa mới đã đánh giá việc trấn áp của Stalin là phù hợp với tình hình lúc bấy giờ. Đối với vấn đề thanh trừng nội bộ cũng được sách bình luận theo chiều hướng tích cực: Trấn áp không phải để "lạm sát người vô tội" mà bản ý của Stalin là loại bỏ những cán bộ kém năng lực, suy thoái đạo đức, tham nhũng trong nội bộ chính quyền. Thực tế này được xem là khát vọng của ông muốn bảo đảm cho bộ máy quản lý phát huy hiệu quả lớn nhất.[333]
Chính sách dân tộc
Dưới thời kỳ Stalin cầm quyền, người ta chứng kiến những đợt trục xuất và di dân quy mô vào hàng lớn nhất trong lịch sử. Theo số liệu chính thức của Liên Xô ước tính, có hơn 14 triệu người đã từng bị buộc phải di cư, bị đưa đến những trại lao động hoặc công trường từ năm 1929 tới 1953, cùng với khoảng 7 tới 8 triệu người bị trục xuất và bị đưa tới những miền xa xôi và khí hậu khắc nghiêt.[334]
Những lý do mà chính quyền Soviet đưa ra cho những đợt di dân, ngoài tù nhân phải lao động cải tạo, là để đối phó với chủ nghĩa ly khai, sự chống đối chính quyền Liên Xô và những phần tử hợp tác với quân Đức Quốc xã xâm lược. Những căn cứ này có lúc đúng nhưng cũng có lúc sai lầm hoặc vội vã. Người ta thường di dời cả cộng đồng chứ không xem xét đến trường hợp từng gia đình hay ý nguyện của họ. Chẳng hạn sau khi quân phát xít chiếm Kavkaz, do lo ngại người Tatar ở Crimea hợp tác với quân Đức, toàn bộ dân miền núi và người Tatar ở Crimea - tổng cộng hơn 1 triệu người - bị trục xuất mà không được thông báo, cũng không mang theo được tài sản.[335]
Các đợt di dân lớn diễn ra ít lâu trước Thế Chiến II và giai đoạn đầu của nó. Người ta ước tính rằng giữa 1941 và 1949 có khoảng 3,3 triệu người bị đưa tới Siberia và miền Trung Á,.[336][337] Định kiến của Stalin về lòng trung thành của một số nhóm sắc tộc đặc biệt, bao gồm người Triều Tiên ở Liên Xô, người Chechen, người Tatar Krym, người Đức ở miền Volga và người Ba Lan khiến những dân tộc này chịu nhiều ảnh hưởng nhất, hàng trăm nghìn người đã chết trên đường di cư.[336] Trong số những người có thể tới nơi định cư mới, theo một ước tính thì có 18-43% những người tái định cư bị chết trong vòng 15 năm do bị mắc bệnh hoặc thiếu ăn.[338]
Những đợt di cư này đã làm thay đổi mạnh bản đồ nhân khẩu và dân tộc của Liên Xô. Nhiều dân tộc bị di dời khỏi nơi cư trú truyền thống của mình, gây ra nhiều hậu quả lâu dài. Tới năm 1956 Khrushchev lên án chính sách trục xuất của Stalin là vi phạm nguyên tắc chính sách dân tộc của Lenin và tìm cách khắc phục.[339] Tuy nhiên tiến trình này diễn ra chậm, phải tới khi Liên Xô tan rã (1991) thì các dân tộc thiểu số mới được phép di cư quy mô lớn về quê hương cũ; nhiều nhóm dân vì điều kiện địa lý mà chưa thể quay về.
Hậu quả của sự trục xuất và di dân kéo dài tới ngày nay. Chẳng hạn, cộng đồng người Tatar ở Krym vốn là nhóm đa số ở Krym từ nhiều đời, bị trục xuất khỏi quê hương năm 1944 và từ đó khiến người Nga trở thành sắc tộc đa số ở miền này. Trong cuộc Khủng hoảng Krym năm 2014, nước Nga can thiệp quân sự rồi sáp nhập Krym viện dẫn đó là ý nguyện của đa số người dân địa phương thuộc dân tộc Nga. Cộng đồng người Tatar cho rằng chính họ mới là những người có quyền vận mệnh Krym chứ không phải người Nga di dân.[340] Ký ức đau thương về những đợt trục xuất còn sâu đậm trong tâm trí nhiều dân tộc thiểu số, và là một nguồn động lực cho chủ nghĩa ly khai hiện nay ở những vùng thuộc Nga như Chechnya.[341]
Mặt khác, Stalin duy trì quyền bình đẳng giữa mọi công dân thuộc mọi chủng tộc. Bình đẳng dân tộc trong mọi hình thức (ngôn ngữ, giáo dục...) là một yếu tố thiết yếu trong các giải pháp xử lý các vấn đề quốc gia. Stalin đề ra một chính sách nhà nước dựa trên nền dân chủ đầu phiếu, nghiêm cấm mọi loại đặc quyền của riêng một dân tộc nào đó hoặc những hình thức phân biệt đối xử với các dân tộc thiểu số.[342] Ví dụ như Kazakhstan là một trong những nước cộng hòa dân tộc thiểu số của Liên Xô, và chính quyền đã thông qua luật quy định tất cả các ngành công nghiệp tại Kazakhstan phải sử dụng ít nhất 50% nhân công là người dân tộc bản địa, cả trong sản xuất và quản lý. Đây có thể là một luật rất tiến bộ, tạo ra cảm hứng cho các giáo sư và chủ nghĩa nhân đạo trên tất cả các nơi trên thế giới[343]
Dù người ta có thể nói về việc thiếu tự do cá nhân dưới thời Stalin, không ai có thể nghi ngờ rằng Liên Xô đã thực hiện các nguyên tắc bình đẳng dân tộc tương đương với những nền dân chủ tốt nhất. Stalin là hoàn toàn đúng trong việc tăng cường sức mạnh của nước Nga Xô Viết khi thực hiện chính sách đó[344].
Một nhà báo phương Tây sau khi sang thăm Liên Xô năm 1938 đã nhận xét:
- Những người cộng sản có một điểm tuyệt vời là họ có niềm tin rằng tất cả các chủng tộc đều bình đẳng với những khả năng tiềm ẩn, và rằng người ta có thể trở nên tốt như nhau nếu họ có cơ hội như nhau. Giữ vững niềm tin này, họ đang cố gắng cung cấp các cơ hội như nhau cho tất cả các chủng tộc và bộ lạc ở Nga vào thời gian sớm nhất có thể. Họ đã phân phối một lượng lớn ngân quỹ sẵn có của mình cho giáo dục, y tế công cộng và vệ sinh môi trường tại khu vực châu Á, nơi mà những điều này thường bị lãng quên.[345]
Xây dựng sùng bái cá nhân

Stalin đã góp phần tạo nên phong trào sùng bái lãnh tụ, trước hết là đối với Lenin sau rồi là bản thân, nhất là sau khi Liên Xô tổ chức lễ sinh nhật 50 tuổi cho ông năm 1929.[346] Rất nhiều thị trấn, làng mạc và thành phố, bao gồm thành phố lớn Stalingrad (xem danh sách các địa danh đặt theo tên Stalin (tiếng Anh)) được đổi tên theo tên ông; bên cạnh đó còn có các giải thưởng như Giải Stalin, Giải Hòa bình Stalin được lập nên lúc ông còn sống. Stalin cũng chấp nhận người ta gọi ông bằng những tên gọi khoa trương như "Người cha của Tổ quốc" (bắt đầu từ 1936),[347] "Nhạc trưởng của Khoa học", "Thiên tài Kiệt xuất của Nhân loại", "Đại kiến trúc sư của Chủ nghĩa Cộng sản", "Người trông nom Hạnh phúc Loài người". Tuy trong giới lãnh đạo ít thấy sự tôn thờ Stalin, hầu hết không bày tỏ sự bất bình với tệ sùng bái cá nhân, và tất cả đều ủng hộ cho tệ này phát triển.[348]
Tệ sùng bái cá nhân cho Stalin phát triển mạnh trong thời kỳ Chiến tranh thế giới thứ hai, khi Liên Xô cần những hình ảnh để nâng cao tinh thần cho binh sĩ và nhân dân. Ban đầu hình ảnh Stalin gắn bó chặt chẽ với Lenin như một đồng chí trung thành nhất, người thừa kế xuất sắc của Lenin,[349] và hai người thường xuất hiện cùng nhau trong từ ngữ và tranh ảnh,[350] tuy nhiên về sau báo chí tuyên truyền thường mô tả sự lãnh đạo tài tình của Stalin như là nhân tố chính cho sự tươi đẹp của xã hội Soviet.[351]
Bộ máy tuyên truyền Liên Xô thường mô tả Stalin theo hình ảnh người lãnh tụ các dân tộc và mang tính thần thánh, vay mượn một số nhân tố từ Chính thống giáo.[352] Những cuộc tiếp xúc với trẻ em là một yếu tố quan trọng trong hình ảnh lãnh tụ Liên Xô. Stalin thường xuyên xuất hiện trong các buổi tăng quà cho trẻ em nhiều dân tộc khác nhau. Từ năm 1935, câu nói "Tuổi thơ Hạnh phúc nhờ ơn Đồng chí Stalin Kính yêu!" xuất hiện trên cửa vào các trại trẻ, trường học, trường mầm non và trẻ em thường hô câu này trong lễ hội.[353] Stalin cũng được mô tả là gần gũi với người dân thường; báo chí thường đăng những lá thư từ công nhân nông trường hay xí nghiệp viết để ca ngợi lãnh tụ[354] cũng như xuất hiện những bài viết, bài thơ về việc gặp mặt Stalin. Nhưng từ sau Thế Chiến II khi Stalin ít xuất hiện trước đám đông, báo chí bắt đầu tập trung tới những liên lạc xa xôi hơn (chẳng hạn kể về việc ai đó nhận được điện báo của Stalin hay nhìn thấy lãnh tụ từ xa).[355]
Bộ máy tuyên truyền và bản thân Stalin đã tìm cách chỉnh sửa lịch sử Liên Xô để gán cho Stalin tầm quan trọng lớn hơn trong buổi đầu của phong trào cách mạng. Chẳng hạn lịch sử sửa đổi này cho rằng Stalin, chứ không phải Chủ tịch Soviet Petrograd Leon Trotsky là lãnh tụ thứ nhì, sau Lenin trong Cách mạng Tháng Mười. Stalin ủng hộ việc này và tự cho mình có thẩm quyền về lịch sử Đảng.[356]
Nhiều bức tranh và tượng của Stalin ở các nơi công cộng thường minh họa Stalin rất cao, ngang với Nga hoàng Aleksandr III, trong khi thực tế các ảnh chụp cho thấy ông chỉ cao khoảng 165–168 cm. Ảnh tượng Stalin không chỉ xuất hiện tại các nơi công cộng và văn phòng chính quyền mà còn ở các tư gia. Từ đầu những năm 1930, tại nhiều gia đình xuất hiện "phòng Stalin" với chân dung lãnh tụ để bày tỏ sự tôn kính.[357] Hình ảnh Stalin cũng trở thành tâm điểm của nền nghệ thuật tuyên truyền, bao gồm thơ, ca, nhạc, họa, phim ảnh. Một ví dụ là "Khúc ca Stalin" của A. V. Avidenko dưới dây:
Cảm ơn Người, Stalin. Cảm ơn người vì tôi thấy sung sướng. Cảm ơn Người vì tôi vui. Bất kể sau tôi có già ra sao, tôi sẽ không bao giờ quên chúng ta đã đón tiếp Stalin hai ngày trước ra sao. Hàng thế kỉ sẽ trôi qua, và các thế hệ vẫn sẽ xem chúng ta là những người trần hạnh phúc nhất, may mắn nhất trong loài người, bởi vì chúng ta sống trong một thế kỉ mà nhiều thế kỉ mới có, bởi vì chúng ta được đặc ân trông thấy Stalin, lãnh tụ tôn kính của chúng ta... Mọi thứ thuộc về người, lãnh tụ của Tổ quốc vĩ đại. Và khi người phụ nữ tôi yêu cho tôi đứa con đầu lòng, tiếng đầu tiên nó sẽ bập bẹ sẽ là: Stalin...[358][359]
Ở những chỗ cá nhân, Stalin thường khẳng định rằng sự tôn sùng ông là cần thiết về mặt tuyên truyền, ít nhất là cho bộ phận dân chúng tầng lớp thấp, nhưng có thể phản tác dụng đối với giới trí thức tinh hoa.[360] Stalin cũng muốn hình ảnh của mình như là hiện thân của Đảng Cộng sản, và tiết lộ rất ít về đời sống cá nhân của mình với truyền thông[361] Stalin không phải lúc nào cũng thoải mái với sự tán tụng triền miên; một người cộng sản Phần Lan là Arvo Tuominen từng ghi nhận một lần Stalin từng chế nhạo sự tán tụng chính mình trong một bữa tiệc năm mới của Đảng năm 1935, khi nói với giọng mỉa mai: "Các đồng chí! Tôi muốn đề nghị nâng cốc cho đấng thượng phụ của chúng ta, sự sống và mặt trời, nhà giải phóng các dân tộc, kiến trúc sư của chủ nghĩa xã hội - Josef Vissarionovich Stalin, và tôi hi vọng đây sẽ là diễn văn đầu tiên và cuối cùng dành cho thiên tài đó trong tối hôm nay."[362]
Mặt khác, một số người ác cảm với Stalin thì cho rằng ông khiêm tốn giả vờ. Chủ tịch Khrushchev, trong bài phát biểu chỉ trích Stalin sau khi ông qua đời, cho rằng chính Stalin đòi ông phải được ghi nhận về "tính khiêm tốn đáng kinh ngạc của những vĩ nhân thực sự".[363]
Các học giả hiện vẫn tranh cãi với nhau về mức độ tán thưởng của Stalin đối với sự sùng bái chính ông ta. Tuy vậy, Stalin thường tỏ ra khiêm tốn, thậm chí nhiều lần nhấn mạnh tầm quan trọng của lực lượng xã hội, chứ không phải thiên tài cá nhân, thậm chí dù là cả Lenin, là yếu tố quyết định thành công của cách mạng và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Người ta cũng ghi nhận Stalin thường sửa một số văn bản, xóa bớt những lời ngợi ca bản thân mình và thêm vào lời ca ngợi cho các lãnh đạo Soviet khác.[364] Hơn nữa, năm 1936 Stalin đã cấm phong trào đổi tên địa danh theo tên mình.[361]
Thế chiến thứ hai
Hiệp ước với Đức: 1939–1941
Trên danh nghĩa một người Marxist–Leninist, Stalin cho rằng xung đột giữa các cường quốc tư bản là không thể tránh khỏi; sau khi Đức Quốc xã sáp nhập Áo và một phần Tiệp Khắc vào năm 1938, ông nhận thấy một cuộc chiến đang kề cận.[365] Ông muốn Liên Xô phải đứng trung lập trong trường hợp đó, hy vọng một cuộc chiến giữa Đức và liên minh Anh-Pháp sẽ tạo điều kiện cho Liên Xô bứt lên vị thế hàng đầu ở châu Âu.[366] Về mặt quân sự, Liên Xô cũng từng phải đối mặt với mối họa Đông phương, biểu hiện bởi các cuộc đụng độ với Nhật Bản vào cuối thập kỷ 1930.[367] Với tình hình này, Stalin chủ động chuẩn bị vũ trang, mở rộng gấp đôi quy mô lục quân giữa tháng 1 năm 1939 và tháng 6 năm 1941, nhưng vì quá nóng vội nên làm sa đà chất lượng quân sĩ.[368] Giữa năm 1940 và 1941, ông hạ lệnh thanh trừng hàng ngũ quân sĩ, khiến quân đội lâm vào cảnh thiếu thốn sĩ quan được huấn luyện bài bản khi chiến tranh nổ ra.[369]

Vì Anh và Pháp không muốn đặt cược vào một liên minh với Liên Xô, Stalin đã phải tìm kiếm điều này ở Đức.[370] Ngày 3 tháng 5 năm 1939, Stalin thay thế Ngoại trưởng Maxim Litvinov, một người có tư tưởng thân phương Tây, bằng Vyacheslav Molotov.[371] Đức bắt đầu ngồi vào bàn đàm phán với Liên Xô, đề xuất chia cắt Đông Âu thành hai mảnh.[372] Stalin thấy đây là cơ hội để mở rộng lãnh thổ và để đạt được hòa bình tạm thời với Đức.[373] Tháng 8 năm 1939, hai bên ký kết Hiệp ước Molotov–Ribbentrop, một hiệp ước không xâm phạm đã được bàn bạc từ trước bởi Molotov và Ngoại trưởng Đức Joachim von Ribbentrop.[374] Một tuần sau, Đức xâm lược Ba Lan, khiến Anh và Pháp phải tuyên chiến với Đức.[375] Ngày 17 tháng 9, Hồng Quân tiến vào Đông Ba Lan, lấy danh nghĩa là lặp lại hòa bình sau khi chính phủ nước này sụp đổ.[376] Vào ngày 28 tháng 9, Đức và Liên Xô trao đổi một vài khu vực họ chiếm được; Đức lấy những khu vực có nhiều người nói tiếng Ba Lan gồm Tỉnh Lublin và một phần Tỉnh Warszawa, còn Liên Xô lấy Litva.[377] Hiệp ước Ranh giới Hữu nghị Đức-Xô được ký kết ít lâu sau, với sự có mặt của Stalin.[378] Hai nhà nước tiếp tục trao đổi thương mại như bình thường, làm phá sản kế hoạch phong tỏa Đức của Anh.[379]
Liên Xô tiếp tục yêu sách Phần Lan nhượng bộ lãnh thổ, nhưng bị từ chối. Liên Xô bèn xâm lược Phần Lan vào tháng 11 năm 1939; tuy có lợi thế về quân số, Hồng Quân bị kìm chân bởi Phần Lan bé nhỏ.[380] Quốc tế ủng hộ cuộc kháng chiến của Phần Lan, khiến cho Liên Xô bị khai trừ khỏi Hội Quốc Liên.[381] Liên Xô rốt cuộc phải kết thúc chiến tranh với Hòa ước Moskva; Phần Lan tuy vậy vẫn phải nhượng bộ một phần lãnh thổ của họ.[382] Vào tháng 6 năm 1940, Hồng Quân chiếm đóng các nước Baltic, sáp nhập với Liên Xô vào tháng 8.[383] Hồng Quân cũng thực hiện các cuộc xâm lược Bessarabia và miền bắc Bukovina, Rumani.[384] Liên Xô đập tắt các phong trào chống đối ở những nơi mới chiếm được bằng các chiến dịch truy bức.[385] Một trong những ví dụ khét tiếng là thảm sát Katyn vào tháng 4 và tháng 5 năm 1940, trong đó khoảng 22.000 thành viên của lực lượng vũ trang, cảnh sát và trí thức Ba Lan bị hành quyết.[386]
Tốc độ chiến thắng Pháp của Đức giữa năm 1940 đã khiến Stalin rất ngạc nhiên.[387] Ông chú trọng chính sách nhân nhượng Đức để trì hoãn xung đột với họ.[388] Sau khi Hiệp ước Ba bên được ký kết giữa các nước phe Trục gồm Đức, Nhật và Ý vào tháng 10 năm 1940, Stalin đề xuất Liên Xô cũng nên gia nhập khối này.[389] Để tỏ thiện ý với Đức, vào tháng 4 năm 1941, Liên Xô đi đến một thỏa luận trung lập với Nhật.[390] Tuy đã đứng ở cương vị thủ tướng de facto hơn một thập kỷ rưỡi, Stalin kết luận rằng mối quan hệ của Liên Xô với Đức đã tan nát đến nỗi, ông phải đích thân đảm đương chức vụ này de jure: vào ngày 6 tháng 5, Stalin thay thế Molotov làm Thủ tướng Liên Xô.[391]
Đức tấn công: 1941–1942

Tháng 6 năm 1941, Đức tiến hành xâm lược Liên Xô, mở màn chiến sự ở Mặt trận Đông.[392] Mặc dù các cơ quan tình báo đã liên tục cảnh báo về nguy cơ xâm lược, Stalin rốt cuộc vẫn bị bất ngờ bởi nước đi của Đức.[393] Ông bèn thành lập Ủy ban Quốc phòng, giữ chức Chỉ huy Tối cao của nó,[394] và chức Tổng Tư lệnh Tối cao của lực lượng vũ trang Xô viết (Stavka).[395] Bên cạnh đó, Georgy Zhukov được bổ nhiệm làm Tổng tham mưu Trưởng.[396] Chiến thuật chiến tranh chớp nhoáng của quân Đức đã phát huy hiệu quả trong giai đoạn đầu của cuộc chiến; lực lượng không quân Xô viết bị vô hiệu hóa nhanh chóng trong vòng hai ngày.[397] Wehrmacht ngày càng đánh sâu vào lãnh thổ của Liên Xô.[398] Chẳng bấy lâu, Ukraina, Belorussia và vùng Baltic lần lượt thất thủ trước bước tiến của quân Đức; Leningrad bị bao vây tứ phía.[399] Làn sóng người tị nạn đổ về thủ đô Moskva và các thành phố lân cận.[400] Đến tháng 7, lực lượng không quân Luftwaffe mở chiến dịch oanh tạc Moskva.[399] Đến tháng 10, Wehrmacht đã chuẩn bị mở một cuộc tổng tiến công vào Moskva.[401] Chính phủ Liên Xô định sơ tán đến Kuibyshev, song Stalin nhất quyết ở lại để cổ vũ tinh thần binh sĩ.[402] May thay, kế hoạch chiếm đóng Moskva của quân Đức tiêu tan hoàn toàn sau hai tháng chiến đấu trong điều kiện thời tiết mùa đông khắc nghiệt ở ngoại vi thành phố.[403]
Bỏ qua những lời tham mưu của Zhukov và các vị tướng lĩnh khác, Stalin vẫn chủ trương tấn công quân Đức chứ không phòng thủ.[404] Vào tháng 6 năm 1941, ông ra lệnh tiến hành một cuộc tiêu thổ nhằm phá hủy tất cả cơ sở hạ tầng và nguồn cung lương thực trước khi người Đức có thể chiếm giữ chúng,[405] đồng thời ông ra lệnh cho NKVD thanh trừng khoảng 100,000 tù nhân chính trị trong những khu vực mà quân đội Đức tiếp cận.[406] Ngoài ra ông cũng tiến hành thanh lọc bộ máy chỉ huy quân sự, một số chỉ huy cấp cao đã bị giáng chức trong khi một số khác đã bị bắt và xử bắn vì đã để thua trận[407] Với Lệnh Số 270, Stalin đề ra mệnh lệnh rằng: bất cứ binh sỹ Hồng quân nào có hành vi đào ngũ hay đầu hàng quân địch thì đồng đội có quyền xử bắn tại chỗ, và gia đình của họ sẽ bị bắt giữ.[408] Trong giai đoạn diễn ra cuộc chiến, cả quân đội Đức và quân đội Liên Xô đều đã bỏ qua các nguyên tắc của chiến tranh được đề ra trong Công uớc Geneva[395]. Liên Xô mạnh mẽ lên án hành động thảm sát những người cộng sản, người Do Thái, và người Romani của quân Phát xít.[395] Stalin đã khai thác triệt để tinh thần chống Quốc xã của người Do Thái, vào tháng 4 năm 1942 ông đã quyết định tài trợ cho Ủy ban Do Thái chống phát xít (JAC) để thu hút sự ủng hộ của dân Do Thái cũng như của những người nước ngoài dành cho quân đội Xô viết trong cuộc chiến tranh với Đức quốc xã.[409]

Liên Xô quyết định liên minh với hai cường quốc của phe Đồng minh là Vương Quốc Anh và Hoa Kỳ.[410] Để phục vụ cho công cuộc kháng chiến, Liên Xô tăng cường phát triển công nghiệp ở miền trung nước Nga, tập trung gần như hoàn toàn sản xuất cho quân đội.[395] Họ đã đạt được năng suất công nghiệp rất cao, vượt xa Đức.[395] Trong thời gian diễn ra chiến tranh, Stalin đã tỏ ra khoan dung hơn đối với Giáo hội Chính thống Nga, ông cho phép Giáo hội tiếp tục hoạt động và đích thân ông đã có cuộc gặp gỡ với Đức Thượng Phụ Sergius vào tháng 9 năm 1943.[411] Bài hát Quốc tế ca, vốn là quốc ca của Liên Xô từ ngày đầu thành lập, đã được Stalin thay thế bằng một bài hát khác mang tính yêu nước hơn.[395] Quốc tế Cộng sản bị giải thể vào năm 1943,[412] và Stalin khuyến khích các đảng Mác-Lênin nước ngoài tập trung vào chủ nghĩa dân tộc hơn là chủ nghĩa quốc tế để mở rộng hơn sự ủng hộ trong nước của họ.[395]
Vào tháng 4 năm 1942 Stalin ra lệnh cho Hồng quân tổ chức một cuộc phản công ở miền đông Ukraine để chiếm lại Kharlov từ tay quân Đức, nhưng không thành công.[413] Đến tháng 6 năm 1942, Quân đội Đức mở cuộc tấn công vào thành phố Stalingrad; Stalin ra lệnh cho các chiến sĩ Hồng Quân phải giữ được thành phố bằng mọi giá.[395] Trận Stalingrad giữa Hồng quân Liên Xô và Đức Quốc xã đã diễn ra vô cùng khốc liệt. Đến tháng 2 năm 1943, sau khi Hồng quân phản công, quân Đức tại Stalingrad đầu hàng. Chiến thắng của Liên Xô trong trận Stalingrad đánh dấu một bước ngoặt lớn của cuộc thế chiến.[410]
Liên Xô phản công: 1942–1945

Tháng 11 năm 1942, Quân đội Liên Xô đã bắt đầu phản công quân Đức ở cánh phía Nam trong chiến dịch Blau và mặc dù đã có 2.5 triệu binh lính Liên Xô thương vong trong nỗ lực đó, quân đội Liên Xô giờ đây đã chiếm được ưu thế trong phần còn lại của cuộc chiến ở mặt trận Phía Đông.[414] Đức đã cố gắng tổ chức một cuộc tấn công bao vây ở Kursk trong nỗ lực cuối cùng để giành lại thế chủ động trên toàn mặt trận, tuy nhiên rốt cuộc Hồng quân đã đẩy lùi được cuộc tấn công của quân địch.[415] Đến cuối năm 1943, Liên Xô đã chiếm lại được một nửa phần lãnh thổ đã bị quân Đức thôn tính từ năm 1941 đến năm 1942.[414] Mức sản xuất công nghiệp quân sự của Liên Xô cũng đã tăng đáng kể từ cuối năm 1941 cho đến đầu năm 1943 sau khi Stalin cho di rời tất cả các nhà máy về phía Đông, các nhà máy này trở nên an toàn trước cuộc xâm lăng của quân Đức và những cuộc oanh tạc bằng không quân của kẻ thù.[414]
Ở các nước Đồng minh phương Tây, Stalin ngày càng được nhìn nhận một cách tích cực hơn trong suốt cuộc chiến.[395] Năm 1941, Dàn nhạc giao hưởng London đã tổ chức một buổi hòa nhạc để kỉ niệm ngày sinh nhật của Stalin,[395] và trong năm 1942 tạp chí Times bình chọn ông là "Nhân vật của năm".[395] Khi Stalin biết được rằng người dân Tây Âu gọi ông bằng biệt danh trìu mến là "Chú Joe", ban đầu ông đã tỏ ra bị xúc phạm vì nghĩ đó là cách gọi không đàng hoàng.[416] Thủ tướng Anh Churchill đã bay đến Moskva để gặp gỡ Stalin vào tháng 8 năm 1942 và một lần nữa vào tháng 10 năm 1944.[417] Stalin hiếm khi rời Moscow trong suốt cuộc chiến,[395] khiến cho Tổng thống Mỹ Roosevelt và Churchill nhiều phen thất vọng bởi Stalin thường từ chối gặp gỡ họ.[395]
Trong tháng 11 năm 1943, Stalin đã có cuộc gặp với Churchill và Roosevelt tại Tehran, một địa điểm mà Stalin đã đích thân lựa chọn.[418] Tại Tehran, ba vị nguyên thủ đồng ý rằng để ngăn chặn Đức tăng cường sức mạnh quân sự và tiếp tục gây chiến, nước Đức cần phải bị chia cắt một lần nữa.[395] Stalin cũng tỏ ra thiếu kiên nhẫn và ông liên tục kêu gọi Mỹ và Anh phải nhanh chóng mở một mặt trận Phía Tây chống lại Đức để giảm bớt áp lực đối với quân đội Liên Xô ở mặt trận phía Đông, cuối cùng, phe Đồng minh cũng đáp ứng yêu cầu của Stalin vào giữa năm 1944.[419] Stalin cũng bày tỏ mong muốn rằng, khi chiến tranh kết thúc, Liên Xô sẽ được sáp nhập những lãnh thổ mà họ đã chiếm được của Ba Lan theo Hiệp ước Molotov–Ribbentrop với Đức, tuy vậy điều này đã bị Churchill phản đối.[414] Thảo luận về số phận của vùng Balkan, sau này trong năm 1944 Churchill đã đồng ý với lời đề nghị của Stalin rằng sau chiến tranh, Bulgaria, Romania, Hungary, và Nam Tư sẽ nằm trong sự kiểm soát của Liên Xô trong khi Hy Lạp sẽ nằm trong phạm vi ảnh hưởng của phương Tây.[420]

Năm 1944, Liên Xô đã đánh bật quân Đức ra khỏi lãnh thổ của mình, họ bắt đầu tiến quân vào giải phóng vùng Đông Âu.[414] Hồng quân mở chiến dịch Bagration, một cuộc đại phản công chống lại Đạo quân Trung tâm của Đức.[421] và đã liên tiếp giành được thắng lợi. Quân đội Đức đã bị đẩy ra khỏi vùng Baltic, vùng đất này sau đó được tái sáp nhập vào Liên Xô.[395] Hồng quân tiếp tục tái chiếm vùng Kavkaz và Crimea, một số nhóm sắc tộc thiểu số sống trong khu vực – Kalmyk, Chechen, Ingushi, Karachai, Balka, và người Tatar Krym – bị cáo buộc đã hợp tác với Phát xít Đức. Chính quyền Stalin sau đó đã giải tán những nước cộng hòa tự trị của họ và từ cuối năm 1943 đến đầu năm 1944, phần lớn người dân của những khu vực này đã bị trục xuất đến Trung Á và Siberia.[422] Ước tính có hơn một triệu người đã bị trục xuất.[410]
Tháng 2 năm 1945, ba thủ lĩnh Đồng minh bắt đầu đàm phán tại Hội nghị Yalta.[423] Roosevelt và Churchill chấp thuận yêu sách của Stalin rằng Đức phải trả Liên Xô 20 tỷ đô bồi thường thiệt hại, đồng thời Sakhalin và Quần đảo Kurile sẽ về tay Liên Xô như là phần đãi ngộ cho công lao đánh Nhật.[424] Họ cũng đi tới thỏa hiệp về việc tạo lập một chính phủ Ba Lan liên minh giữa các đảng phái cộng sản lẫn bảo thủ thời hậu chiến.[425] Tuy vậy, Stalin âm thầm muốn Ba Lan nằm dưới sự kiểm soát của Liên Xô.[426] Hồng quân đã cố tình hạn chế viện trợ cho nghĩa quân Ba Lan trong cuộc Khởi nghĩa Warszawa vì Stalin cho rằng một phong trào vũ trang thành công của nhân dân Ba Lan sẽ cản trở sự thành lập của một chính phủ Marxist do ông điều khiển.[427] Stalin nhấn mạnh rằng Hồng quân cần phải đánh chiếm được Berlin đầu tiên để có thể kiểm soát nhiều lãnh thổ châu Âu nhất có thể. Churchill cũng tỏ sự ngờ vực trước ý đồ của Stalin và đã thúc giục, tuy không thành công, người Mỹ rằng các đồng minh phương Tây cũng nên theo đuổi mục tiêu tương tự.[428]
Đại thắng: 1945

Tháng 4 năm 1945, Hồng quân chinh phục Berlin, Hitler tự tử, và Đức đầu hàng vào tháng 5.[429] Stalin đã có ý định bắt sống Hitler; trên thực tế, thi thể của Hitler được đưa về Moskva để tránh trường hợp những kẻ cuồng tín Quốc xã sẽ lấy đó làm thánh tích.[430] Trên đường tiến vào lãnh thổ Đức, Hồng quân đã phát hiện nhiều trại tử thần của Đức Quốc xã.[428] Các binh sĩ Liên Xô kiệt quệ cướp bóc và cưỡng bức phụ nữ ở Đông Đức và nhiều khu vực giải phóng khác.[431] Stalin không cho kỷ luật những kẻ phạm tội.[428] Sau khi nghe lời phàn nàn của đồng chí công sản người Nam Tư Milovan Djilas, Stalin bèn hỏi lại rằng: sau tất cả những điều đã trải qua, làm sao các binh sĩ có thể "phản ứng bình thường? Có gì quá tồi tệ khi vui vẻ với một người phụ nữ, sau tất cả những điều khủng khiếp ấy?"[432]
Với chiến bại của Đức, Stalin chuyển sự chú ý sang cuộc chiến với Nhật và gửi nửa triệu lính sang vùng Viễn Đông.[433] Stalin bị các đồng minh thúc ép tham chiến và ông cũng muốn củng cố các vị trí chiến lược của Liên Xô ở châu Á.[434] Vào ngày 8 tháng 8, giữa hai vụ ném bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki, quân Liên Xô đã mở cuộc càn quét Mãn Châu thuộc Nhật và đánh tan Đạo quân Quan Đông.[435] Những sự biến ấy đã buộc Nhật Bản đầu hàng và khép lại Thế chiến II.[436] Lực lượng Vũ trang Liên Xô tiếp tục bành trướng cho tới khi chiếm được toàn bộ các lãnh thổ nhượng bộ, song Hoa Kỳ khước từ và không cho phép Liên Xô tham gia vào cuộc chiếm đóng Nhật Bản.[437]
Stalin dự Hội nghị Potsdam vào tháng 7 và tháng 8 năm 1945, bên cạnh những người đồng cấp Anh và Mỹ, lần lượt là Thủ tướng Clement Attlee và Tổng thống Harry Truman.[438] Tại hội nghị, Stalin nhắc lại những lời hứa trước đó của mình với Churchill, rằng ông sẽ không bắt các nước Đông Âu phải "Xô-viết hóa".[439] Stalin bắt Đức phải bồi thường mà không cần quan tâm đến mức tiếp tế tối thiểu để bảo đảm sự sống còn của nhân dân Đức, khiến Truman và Churchill lo lắng rằng Đức sẽ trở thành gánh nặng tài chính đối với các cường quốc phương Tây.[440] Ngoài ra, Stalin cũng thúc đẩy chính sách "chiến lợi phẩm", cho phép Liên Xô tịch thu tài nguyên của các nước bị chiếm đóng mà không hạn định về số lượng hay chất lượng; một điều khoản đã được thông qua nhằm công nhận chính sách này nhưng chỉ ở chừng mực nhất định.[440] Đức bị chia làm bốn khu vực chiếm đóng: của Liên Xô, của Hoa Kỳ, của Anh, và của Pháp; thủ đô Berlin – vốn nằm trong vùng kiểm soát của Liên Xô – cũng bị chia làm bốn theo đó.[441]
Thời kỳ hậu chiến
Công cuộc tái thiết và nạn đói: 1945–1947
Với sự khép lại của cuộc chiến, Stalin đã đạt đến – theo cách nói của Service – "đỉnh cao của sự nghiệp".[442] Ông được dân chúng Liên Xô nhìn nhận như hiện thân của chiến thắng và chủ nghĩa ái quốc.[443] Hồng quân dưới trướng Stalin hiện đã kiểm soát toàn bộ khu vực Trung và Đông Âu, vươn tới tận giới tuyến sông Elbe.[442] Tháng 6 năm 1945, Stalin lấy danh hiệu Đại nguyên soái Liên Xô,[444] đứng trên lễ đài Lăng Lenin để chiêm ngưỡng cuộc diễu hành mừng chiến thắng phát-xít do Zhukov dẫn đầu ở Hồng trường Moskva.[445] Tại yến tiệc thiết đãi các sĩ quan chỉ huy quân đội, ông đã ngợi ca người Nga là "dân tộc vượt trội" và là "lực lượng mũi nhọn" của Liên Xô; đây cũng là lần đầu tiên ông thể hiện niềm tự hào với duy nhất nhân dân Nga thay vì khối đại đoàn kết dân tộc Xô viết.[446]

Mặc dù vị thế quốc tế của Liên Xô đã được củng cố, Stalin vẫn tỏ ra rất cẩn trọng đối với những biểu hiện bất tuân trong quần chúng nhân dân.[447] Ông cũng lo lắng trước sự trở về của các binh lính từ tiền tuyến, cụ thể là những thành phần đã tiếp xúc với hàng tiêu dùng của Đức, cướp bóc và mang chúng trở về Nga. Điều này khiến Stalin liên tưởng tới cuộc khởi nghĩa tháng Chạp năm 1825 bởi quân sĩ Nga từ Pháp trở về sau Chiến tranh Napoleon.[448] Stalin buộc các tù bình Liên Xô hồi hương phải thông qua các trại "thanh lọc", theo đó khoảng 2.775.700 binh lính đã bị tra vấn lòng trung thành tại các trại này và nửa số đó đã bị bắt tới các trại lao động khổ sai.[449] Ở các nước vùng Baltic vốn ngoan cố chống đối Liên Xô, chính quyền đã tiến hành chương trình phi kulak hóa và trừ khử tăng lữ, trục xuất khoảng 142.000 người giữa các năm 1945 và 1949.[450] Hệ thống trại lao động Gulag được mở rộng đáng kể; tới tháng 1 năm 1953, khoảng 3% dân số Liên Xô đã bị bắt vào các trại tập trung hoặc bị phát lưu tới các vùng hẻo lánh thuộc nội quốc, trong đó 2,8 triệu người bị chuyển tới các "khu cư dân đặc biệt" ở những vùng cô lập về mặt địa lý và 2,5 triệu người khác trong các trại giam, thuộc địa lưu đày hoặc nhà tù.[451]
Theo điều tra thiệt hại của NKVD, 1.710 thị trấn và 70.000 làng mạc trên khắp lãnh thổ Liên Xô đã bị hủy diệt.[452] NKVD ước tính 26-27 triệu thường dân Liên Xô đã thiệt mạng trong cuộc chiến, cùng hàng triệu người khác bị thương, bị suy dinh dưỡng hoặc bị mồ côi cha mẹ.[453] Do hậu quả của cuộc chiến, các đồng nghiệp của Stalin đã kiến nghị thay đổi chính sách nhà nước.[454] Xã hội Liên Xô thời hậu chiến được thả lỏng hơn so với thời tiền chiến ở nhiều bình diện. Stalin cho phép Giáo hội Chính thống giáo Nga quản lý các thánh đường được thành lập trước thời chiến.[455] Giới hàn lâm và nghệ thuật được tự do biểu đạt hơn thời kỳ trước năm 1941.[456] Nhận ra rằng cần có những biện pháp táo bạo hơn trong công tác phòng chống lạm phát và tái thiết nền kinh tế, chính phủ Liên Xô đã tiến hành làm mất giá đồng Rúp và bãi bỏ hệ thống sổ lương thực vào tháng 12 năm 1947.[457] Án tử hình cũng được bãi bỏ vào năm 1947 nhưng áp dụng lại vào năm 1950.[458]
Đời tư và tính cách
Vốn là người dân tộc Gruzia,[459] Stalin nói tiếng mẹ đẻ Gruzia từ nhỏ,[460] chỉ bắt đầu học tiếng Nga khi lên tám hoặc chín tuổi.[461] Có nghiên cứu cho rằng Stalin thực chất là người dân tộc Ossetia, bởi lẽ kiểu đơn bội di truyền của ông (G2a-Z6653) rất đặc trưng ở Ossetia, song ông chưa bao giờ nhận mình mang dòng máu Ossetia.[462] Ông rất tự hào về danh tính Gruzia của mình,[463] khi nói tiếng Nga thì luôn lộ rõ chất giọng Gruzia.[464] Theo Montefiore, mặc cho sự gần gũi của Stalin với văn hóa Nga, ông vẫn luôn giữ nguyên cái chất Gruzia trong tính cách của mình và sinh hoạt hằng ngày.[465] Một số đồng sự của Stalin miêu tả ông có "chất Á Châu"; theo một lời kể, ông có lần từng nói với một ký giả người Nhật rằng "Tôi không phải người Âu, mà là người Á, một người Gruzia bị Nga hóa".[466] Service cũng ghi nhận rằng, Stalin "sẽ không trở thành người Nga", không thể được coi là người Nga, và bản thân ông cũng chẳng giấu giếm gì chuyện ấy.[467] Montefiore thì cho rằng "sau năm 1917, [Stalin] trở thành người có bốn tộc tính: người Gruzia theo dân tộc, người Nga theo sự trung thành, người quốc tế dân tộc theo ý thức hệ, người Liên Xô theo quyền công dân."[468]
Stalin có một chất giọng nhẹ,[469] khi nói tiếng Nga thì chậm rãi, cẩn trọng trong phát biểu.[459] Khi trò chuyện riêng, Stalin sử dụng từ ngữ khá thô tục, điều mà ông tránh khi xuất hiện trước công chúng.[470] Được miêu tả là một người diễn thuyết tệ,[471] theo Volkogonov, phong cách nói chuyện của Stalin "đơn giản và thông suốt, không quá viển vông xa vời, [không dùng] từ ngữ lôi cuốn hay phô trương kịch tính thái quá".[472] Ông hiếm khi nói trước đồng đảo khán giả, ưa thích bộc lộ ý tứ của mình bằng văn viết.[473] Phong cách viết của ông cũng chẳng khác phong cách nói là mấy, đặc trưng là đơn sơ, rõ ràng, và súc tích.[474] Ông dùng khá nhiều tên gọi và bí danh lúc bình sinh, bao gồm "Koba", "Soselo", "Ivanov",[475] và riêng cái tên "Stalin" thì được ông dùng chính thức từ năm 1912 trở đi; vốn bắt nguồn từ từ "thép" trong tiếng Nga, vậy nên cái tên này thường được dịch giải là "Người Thép".[141]

Stalin cao 1,70 m (5 foot 7 inch) khi trưởng thành.[476][477] Khuôn mặt của ông có nhiều vết sẹo do hồi nhỏ mắc phải đậu mùa; đặc điểm mà thường bị xóa khỏi các ảnh chân dung của ông.[478]
Tính cách

Trotsky và nhiều nhân vật Xô viết đối lập khác thường bôi nhọ Stalin như một người tầm thường, không có tài cán;[479] điều thất thiệt mà đã lan ra ngoài Liên Xô khi Stalin còn sống.[480] Theo nhà nghiên cứu tiểu sử Montefiore, "khá rõ ràng từ những nhân chứng có ác cảm lẫn thiện cảm rằng, Stalin là một nhân vật thực sự phi thường, ngay từ lúc còn nhỏ".[480] Stalin có một đầu óc phức tạp,[481] một sự tự chủ rất lớn,[482] và một trí nhớ tuyệt vời.[483] Ông làm việc rất chăm chỉ,[484] thể hiện tinh thần ham học hỏi mãnh liệt.[485] Khi lên nắm quyền, ông quan tâm rất kĩ lưỡng đến mọi mặt đời sống xã hội Xô viết, từ việc xem xét kịch bản phim cho đến sơ đồ kiến trúc và vũ khí quân dụng hạng nặng.[486] Theo Volkogonov, "đời tư và công việc của Stalin là một"; ông không bao giờ nghỉ làm chính trị.[487]
Gia đình và các mối quan hệ

Stalin là người rất trọng tình bằng hữu;[488] ông vận dụng nó để gia tăng và bảo vệ vị thế quyền lực của chính mình.[489] Kotkin quan sát rằng, Stalin "thường bị thu hút bởi những người giống ông: nhất là những trí thức mới nổi có xuất thân hèn mọn".[490] Stalin đặt biệt danh cho những người mà ông quý mến, gọi Yezhov là "mâm xôi đen" chẳng hạn.[491] Stalin rất dễ gần và thích nghe những câu đùa vui.[492] Theo Montefiore, tình bạn của Stalin "vơ vẩn giữa sự yêu thương, sự ngưỡng mộ, và sự đố kị chua cay".[493] Trên thực tế, khi Stalin còn điều hành Liên Xô, ông vẫn giữ liên hệ với nhiều cố hữu ở Gruzia, gửi thư và tặng tiền họ.[494]
Stalin không phải kiểu người trăng hoa.[495] Theo Boris Bazhanov, thư ký một thời của Stalin, "Phụ nữ không phải mối quan tâm của ông. Người phụ nữ của riêng ông [Alliluyeva] đã là quá đủ, và ông thậm chí cũng chẳng mấy quan tâm đến bà."[496] Tuy nhiên, Montefiore cho rằng Stalin hồi trẻ "hiếm khi nào không có bạn gái."[497] Montefiore miêu tả mẫu hình phụ nữ lý tưởng của Stalin là "những thiếu nữ trẻ, dễ bảo hoặc những thôn nữ đẫy đà,"[498] tựu trung là kiểu phụ nữ thông cảm và không quá khắt khe với ông.[499] Theo Service, Stalin "coi phụ nữ như một phương tiện để đạt khoái cảm tình dục và tiện nghi ở nhà."[500] Stalin từng kết hôn hai lần và có nhiều con cái.[501]
Stalin cưới người vợ đầu, Ekaterina Svanidze, vào năm 1906. Theo Montefiore, hôn nhân của họ "là tình yêu đích thực".[502] Volkogonov cũng cho rằng, Svanidze "có lẽ là người đàn bà duy nhất ông thực sự yêu".[503] Khi bà mất, Stalin được cho là đã nói: "Sinh vật này đã khiến trái tim sỏi đá của tôi phải mềm dịu."[504] Họ có với nhau một đứa con trai tên là Yakov.[505] Yakov sau này sinh một cô con gái, Galina, trước khi gia nhập Hồng Quân trong Thế chiến thứ hai. Anh bị bắt giữ bởi quân Đức và rồi bỏ mạng trong trại giam.[506]
Năm 1914, khi trạc 35 tuổi, Stalin từng có mối tình với Lidia Pereprygina, khi đó mới 14 tuổi, người sau đó có thai với Stalin.[147][507][508] Khoảng tháng 12 năm 1914, Pereprygia sinh hạ đứa bé song nó bị chết non.[148] Năm 1916, Lidia lại có thai lần nữa. Bà sinh hạ một đứa con trai, đặt tên là Alexander, vào khoảng tháng 4 năm 1917. Stalin, khi đó vắng mặt, sau mới biết về đứa con ngoài giá thú của mình song ông không mấy quan tâm đến điều đó.[149]
Người vợ thứ hai của Stalin là bà Nadezhda Alliluyeva; hai người họ có mối quan hệ không mấy suôn sẻ và thường xuyên cãi vã.[509] Họ có với nhau hai đứa con ruột – con trai Vasily và con gái Svetlana, cùng một người con nuôi kể từ năm 1921, Artyom Sergeev.[510] Không rõ trong thời gian này Stalin có ngoại tình hay không,[511] song Alliluyeva lúc ấy phẫn uất cho rằng Stalin không chung thủy,[512] và bà tự tự vào năm 1932.[513] Stalin hay chê trách Vasily vì thói hư hỏng của cậu; tuy nhiên, với tư cách là con trai của Stalin, Vasily thăng tiến rất nhanh chóng trong hàng ngũ Hồng Quân và có một phong cách sống rất hoang tàng.[514] Trái lại, Stalin rất yếu quý cô con gái Svetlana bé bỏng,[515] và cũng rất có cảm tình với Artyom.[510] Về sau, ông không đồng thuận với nhiều hôn phu và chồng của Svetlana, khiến quan hệ giữa hai cha con trở nên căng thẳng.[516] Sau Thế chiến thứ hai, Stalin dành rất ít thời gian cho con cái và gia đình không còn quan trọng đối với ông nữa.[517] Sau khi Stalin qua đời, Svetlana đổi tên họ của bà thành Alliluyeva,[518] rồi chạy trốn sang Hoa Kỳ.[519]
Sau khi Nadezhda qua đời, Stalin trở nên thân thiết với chị dâu Zhenya Alliluyeva;[520] sử gia Montefiore tin rằng hai người là tình nhân.[521] Ngoài ra cũng có một số tin đồn sau năm 1934 cho rằng Stalin từng có mối tình với bà quản gia Valentina Istomina.[522] Montefiore cũng khẳng định rằng Stalin có ít nhất hai đứa con ngoài giá thú,[523] tuy nhiên bản thân Stalin chưa từng thú nhận điều này.[524] Một trong số những người con đó là Konstantin Kuzakov, từng dạy triết ở Viện Cơ học Quân sự Leningrad, nhưng chưa từng gặp mặt Stalin.[525] Đứa con kia chính là Alexander, con trai của Lidia Pereprygina; cậu được nuôi nấng bởi một người nông dân chài lưới và bị chính quyền Liên Xô gượng ép không được khai nhận mình là con ruột của Stalin.[526]
Di sản

Nhà sử học Robert Conquest khẳng định rằng, Stalin có lẽ "định hình dòng chảy của thế kỷ thứ 20" hơn bất cứ một cá nhân nào.[527] Các nhà viết tiểu sử như Service và Volkogonov công nhận Stalin là một chính khách nổi bật và phi thường;[528] Montefiore coi Stalin như một "sự kết hợp hiếm hoi: giữa 'trí thức' và kẻ giết người", vừa là "chính khách tột bậc", vừa là "người khổng lồ khó tả và thú vị của thế kỷ thứ 20".[529] Theo nhà sử học Kevin McDermott, các lối kiến giải của Stalin có thể dao động từ "sự ninh nọt bợ đỡ tới sự châm chọc buộc tội."[530] Đối với phần lớn phương Tây và một bộ phận dân Nga chống cộng, Stalin bị đánh giá tiêu cực là kẻ giết người hàng loạt.[530] Trái lại, đối với phần lớn dân Nga và Gruzia, ông được coi là một chính khách và người kiến quốc vĩ đại.[530]
Service cho rằng Stalin đã có công kiến thiết và ổn định hóa Liên Xô, đồng thời nhận xét rằng nếu không có Stalin thì Liên Xô chắc hẳn sẽ sụp đổ trước năm 1991.[531] Chỉ trong vòng ba thập kỷ, ông đã biến chuyển Liên Xô thành một cường quốc công nghiệp,[532] giúp đất nước "đạt được những thành tựu hùng vĩ" trong các lĩnh vực như đô thị hóa, quân sự, giáo dục và niềm tự hào Xô viết.[533] Dưới sự lãnh đạo của ông, tuổi thọ trung bình của nhân dân Xô viết tăng mạnh vì điều kiện sống, dinh dưỡng và trình độ y tế được cải thiện đáng kể,[534] đồng thời giảm thiểu tỷ lệ tử vong.[535] Tuy vậy cũng phải chú ý rằng, đóng góp của Stalin đối với sự phát triển của nền kinh tế Liên Xô vẫn đang bị đặt nghi vấn; một số nhà nghiên cứu cho rằng các chính sách của Stalin từ năm 1928 trở đi chỉ là những nhân tố hạn chế cho sự thành công về mặt kinh tế.[536]

Liên Xô dưới thời Stalin thường bị phán xét là một nhà nước toàn trị,[537] với Stalin nắm giữ vị trí thủ lĩnh chuyên chế.[538] Nhiều học giả cáo buộc Stalin là một kẻ độc tài,[539] một kẻ chuyên quyền,[540] một kẻ Ceaser chủ nghĩa,[541] hoặc một tên "phát xít đỏ".[542] Montefiore nhận định rằng, Stalin vốn đồng trị vì trong một chế độ quyền lực tập trung do Đảng Cộng sản lãnh đạo, song nó đã dần biến tướng thành một chế độ độc tài cá nhân vào năm 1934.[543] Theo đó, Stalin chỉ mới trở thành "độc tài tuyệt đối" giữa tháng 3 và tháng 6 năm 1937, khi các nhân vật NKVD và quân đội cao cấp lần lượt bị trừ khử.[544] Theo Kotkin, Stalin đã "xây dựng chế độ độc tài cá nhân bên trong chuyên chính Bolshevik."[545] Ở cả Liên Xô và nhiều nơi khác, ông được nhìn nhận như một "kẻ chuyên quyền Đông phương".[546] Dmitri Volkogonov đánh giá Stalin là "một trong những nhân vật quyền lực nhất trong lịch sử loài người."[547] McDermott khẳng định rằng Stalin đã "thâu tóm quyền lực chính trị vô tiền khoáng hậu vào tay mình."[548] Service thì cho rằng Stalin "đã gần đạt được chế độ chuyên quyền cá nhân hơn bất cứ một quân vương nào" vào cuối thập kỷ 1930.[549]

Tuy nhiên, McDermott khuyên rằng ta không nên bám vào cái "khuôn mẫu đơn giản hóa quá mức" – được truyền bá qua các tác phẩm hư cấu của Aleksandr Solzhenitsyn, Vasily Grossman và Anatoly Rybakov – để mà tả Stalin như một bạo chúa toàn năng và toàn hiện, kiểm soát mọi mặt đời sống Xô-viết thông qua truy bức và chủ nghĩa toàn trị.[550] Service cũng không mấy ủng hộ bức tranh về Stalin như một "kẻ chuyên quyền không thể bị ngăn cản", bình chú rằng "tuy đúng là ông rất quyền lực, thẩm quyền của ông vẫn có hạn", và sự trị vì của Stalin cũng phải bảo toàn cấu trúc Xô-viết mà ông kế thừa.[551] Kotkin quan sát rằng, khả năng Stalin bám trụ quyền lực dựa rất nhiều vào đa số ủy viên chống lưng trong Bộ Chính trị.[552] Khlevniuk cũng nhận thấy, tại nhiều thời điểm, nhất là khi Stalin đã già yếu, xuất hiện "những cuộc biểu tình định kỳ" ở chóp bu đảng, điều mà thường đe dọa đến quyền lực độc tôn của Stalin.[553] Với giới báo chí ngoại quốc, Stalin luôn chối bỏ các cáo buộc mình là một độc tài, khẳng định những kẻ phát ngôn như vậy không có kiến thức về cơ cấu chính phủ Liên Xô.[554]
Một kho tàng văn học đồ sộ đã ra đời để vinh danh Stalin.[555] Sinh thời, các tiểu sử được duyệt về Stalin thường có nội dung mang tính thần thánh hóa.[556] Stalin đảm bảo tất cả những tác phẩm này nhắc ít nhất có thể về thuở thiếu thời của ông, cụ thể vì ông không muốn hé lộ mình là người Gruzia trong một đất nước chủ yếu là người Nga.[557] Kể từ khi Stalin qua đời, nhiều tác phẩm tiểu sử mới đã được xuất bản,[558] song phải tới tận những năm 1980 thì sử liệu đầu tay mới trở nên phong phú hơn.[558] Dưới thời Mikhail Gorbachev, các hồ sơ lưu trữ về Stalin được giải mật và khai mở cho các nhà sử học;[558] Stalin khi đó trở thành "một trong những vấn đề cấp bách và quan trọng nhất đối với nghị sự công cộng" ở Liên Xô.[559] Sau khi Liên Xô sụp đổ vào năm 1991, phần còn lại của các kho lưu trữ trở nên có sẵn cho các sử gia, phô ra ánh sáng những thông tin mới về Stalin,[560] và kích thích việc xuất bản vô số các bài nghiên cứu học thuật.[555]
Những người Leninist tới nay vẫn còn rất chia rẽ về di sản của Stalin; một số coi Stalin như là người kế tục xứng đáng của Lenin, số khác lại cho rằng ông đã phản bội lý tưởng của Lenin.[561] Bản chất kinh tế-xã hội của Liên Xô dưới thời Stalin cũng là một chủ đề bị tranh cãi gay gắt, với nhiều luồng diễn giải cho rằng nó là chủ nghĩa xã hội nhà nước, hay chủ nghĩa tư bản nhà nước, hay chủ nghĩa công hữu quan liêu, hay thậm chí là một phương thức sản xuất mới hoàn toàn.[562] Các cây bút xã hội chủ nghĩa như Volkogonov thú nhận rằng, các hành động của Stalin đã gây tổn hại đến "sức quyến rũ lớn lao của chủ nghĩa xã hội được sinh ra bởi Cách mạng Tháng Mười".[563]
Tại Liên Xô và các quốc gia hậu Xô-viết
Ít lâu sau khi Stalin qua đời, Liên Xô trải qua thời kỳ phi Stalin hóa. Malenkov tố cáo sự sùng bái cá nhân đối với Stalin,[564] điều mà về sau cũng bị báo Sự thật chỉ trích.[565] Vào năm 1956, Khrushchev đọc bài "diễn văn bí mật" với nhan đề "Về tệ sùng bái cá nhân và những hậu quả của nó" tại phiên họp kín của Đại hội Đảng lần thứ 20. Tại đây, Khrushchev lên án sự truy bức chính trị và sùng bái cá nhân dưới thời Stalin.[566] Ông nhắc lại những lời này tại Đại hội Đảng lần thứ 22 vào tháng 10 năm 1962.[567] Vào tháng 10 năm 1961, thi hài Stalin bị đưa ra khỏi Lăng Lenin và chôn cất tại Nghĩa trang tường Điện Kremli, nơi hiện có một bức tượng bán thân của ông.[568] Stalingrad bị đổi tên thành Volgograd.[569]
Quá trình phi Stalin hóa dưới thời Khruschev chấm dứt sau khi Leonid Brezhnev lên nắm quyền vào năm 1964; nhà lãnh đạo mới đã phần nào tái thiết hình tượng Stalin ở Liên Xô.[570] Vào năm 1969 và một lần nữa vào năm 1979, các kế hoạch đã được vạch ra nhằm khôi phục danh tiếng cho di sản của Stalin, song chúng đều bị trì hoãn vì lo sợ làm tổn hại hình ảnh công chúng của Liên Xô.[571] Gorbachev cảm thấy việc tố cáo Stalin là cần thiết đẻ chữa lành xã hội Liên Xô.[572] Sau khi Liên Xô sụp đổ vào năm 1991, tổng thống đầu tiên của Liên bang Nga, Boris Yeltsin, tiếp tục bôi đen Stalin như thời kỳ Gorbachev nhưng thêm vào đó là cả Lenin.[572] Tổng thống kế vị Vladimir Putin không bào chữa cho Stalin, mà chú trọng vào việc tôn vinh công lao của Stalin.[573] Vào tháng 10 năm 2017, Putin cho khánh thành đài tưởng niệm Bức tường Sầu bi ở Moskva, và phát biểu rằng "quá khứ tồi tệ" sẽ không thể "được hợp lý hóa bởi bất cứ thứ gì" hay không thể "bị tẩy trắng khỏi ký ức dân tộc."[574] Trong một cuộc phỏng vấn vào năm 2017, Putin bày tỏ rằng "chúng ta không nên quên đi sự khủng khiếp của chủ nghĩa Stalin", song lại cho rằng sự bôi nhọ thái quá đối với Stalin "là một công cụ để tấn công Liên Xô và Nga".[575] Trong những năm gần đây, chính phủ và dư luận Nga đã bị cáo buộc là có ý đồ khôi phục hình tượng Stalin.[576]

Giữa triền miên những biến cố xã hội và kinh tế thời kỳ hậu Xô-viết, phần đông dân Nga coi Stalin như một biểu tượng của trật tự kỷ cương, của sự nhìn xa trông rộng và niềm tự hào kiêu hãnh.[577] Ông là nhân vật vẫn được tôn sùng bởi những người dân tộc chủ nghĩa Nga, những người hoài niệm về sự chiến thắng của Liên Xô trước Đức Quốc xã trong Thế chiến II.[578] Hơn thế, cả hai phe chính trị cực tả và cực hữu ở Nga đều lấy ông làm hình mẫu cho ý thức hệ của mình.[579]
Thăm dò ý kiến công chúng của Trung tâm Levada cho thấy danh tiếng của Stalin đã lớn mạnh kể từ năm 2015, với 46% người dân Nga bày tỏ thái độ tích cực đối với Stalin vào năm 2017, và 51% vào năm 2019.[580] Trong một cuộc thăm dò dư luận vào năm 2021, tận 70% người dân Nga thể hiện thái độ tích cực đối với Stalin.[581] Cùng năm, một khảo sát của Trung tâm cho thấy Stalin được 39% dân chúng Nga chấp thuận như một "hình tượng quốc gia dân tộc kiệt xuất nhất của mọi thời đại" và, tuy rằng không nhân vật lịch sử nào chiếm đa số, Stalin rõ ràng vẫn đứng đầu, theo sau bởi Vladimir Lenin với 30% và thi sĩ Alexander Pushkin với 23%.[582][583] Văn học Nga thời kỳ này cũng chứng kiến sự đi lên của các tác phẩm ca ngợi Stalin, thường dựa trên sự không trung thực trong việc dẫn nguồn đầu tay.[584] Trong đó, các cuộc truy bức của Stalin thường được xem như biện pháp cần thiết nhằm tiêu diệt "Kẻ thù của nhân dân", hoặc thậm chí đổ thừa trách nhiệm cho các quan chức địa phương.[584]
Khu vực hậu Xô-viết cuối cùng ngoài Nga còn ngưỡng mộ Stalin rộng rãi đó là Gruzia, tuy thái độ chung của dân nước này vẫn khá lẫn lộn.[585] Một bộ phận người Gruzia rất không bằng lòng với các chỉ trích về Stalin, nhân vật lịch sử nổi tiếng nhất trong lịch sử hiện đại của đất nước họ.[578] Một khảo sát năm 2013 của Đại học Nhà nước Tbilisi cho thấy, 45% người dân Gruzia có "một thái độ tích cực" đối với Stalin.[586] Một khảo sát năm 2017 của Trung tâm Nghiên cứu Pew khẳng định, 57% người dân Gruzia cảm thấy Stalin đã có những đóng góp tích cực cho quốc gia của mình, so với 18% những người cảm thấy thế đối với Gorbachev.[587]
Ngoài hai nơi đó ra cũng có một số người bày tỏ thiện cảm đối với Stalin. Một khảo sát năm 2012 của Quỹ Carnegie tìm thấy 38% người dân Armenia đồng tình với ý kiến cho rằng, họ "luôn cần một nhà lãnh đạo như Stalin."[588][589] Đầu năm 2010, một tượng đài Stalin mới đã được dựng lên ở Zaporizhzhia, Ukraina.[590] Vào tháng 12 năm 2010, một nhóm người không xác định đã chém đầu nó và vào năm 2011 thì bức tượng bị trúng đạn pháo.[591] Trong một cuộc thăm dò dư luận của Viện Xã hội học Quốc tế Kyiv vào năm 2016, 38% người tham gia bày tỏ thái độ tiêu cực đối với Stalin, 26% có ý kiến trung lập và 17% có thái độ tích cực, 19% còn lại từ chối trả lời.[592]
Xem thêm
- Cánh tả chống Stalinist
- Chủ nghĩa Stalin mới
- Danh sách địa danh đặt theo tên Stalin
- Danh sách tượng đài Stalin
- Danh sách huân chương được tặng thưởng cho Stalin
- Đàm thoại Trục Đức – Xô
- Điều khiển học ở Liên Xô
- Phi Stalin hóa
- Quan hệ đối ngoại của Liên Xô
- Thuyết Lysenko
- Thư mục về Chủ nghĩa Stalin và Liên Xô
Chú giải
- ^ Ngày chính phủ Xô viết Bolshevik - Cách mạng Xã hội chủ nghĩa Tả khuynh tuyên bố giải tán Quốc hội Lập hiến chính là ngày kết thúc nhiệm kỳ.
- ^ a b c Tên khai sinh Gruzia của Stalin là Ioseb Besarionis dze Jughashvili (tiếng Gruzia: იოსებ ბესარიონის ძე ჯუღაშვილი), tương đương trong tiếng Nga là Iosif Vissarionovich Dzhugashvili (tiếng Nga: Иосиф Виссарионович Джугашвили). Trong những năm tháng hoạt động cách mạng, ông lấy bí danh là "Stalin". Sau Cách mạng Tháng Mười, ông lấy đó làm tên chính thức.
- ^ 21 tháng 12 [lịch cũ 9] năm 1879 theo tài liệu Xô viết
- ^ Tuy không có khả năng kiểm soát toàn thể bộ máy đảng ủy, Malenkov vẫn được công nhận là "primus inter pares" trong vòng hơn một năm sau khi Stalin mất. Tới tháng 3 năm 1954, ông được liệt kê là thủ lĩnh hàng đầu của Liên Xô và tiếp tục chủ trì các cuộc họp của Bộ Chính trị.
- ^
- tiếng Nga: Иосиф Виссарионович Сталин (trước-1918: Іосифъ Виссаріоновичъ Сталинъ), chuyển tự Iosif Vissarionovich Stalin; phát âm tiếng Nga: [ɪˈosʲɪf vʲɪsərʲɪˈonəvʲɪt͡ɕ ˈstalʲɪn]
- tiếng Gruzia: იოსებ ბესარიონის ძე სტალინი
- Nguồn tiếng Việt phiên âm Stalin là Xta-lin hoặc Xít-ta-lin
- ^ Đây là dạng chính tả thường được dùng trong các nguồn tiếng Anh.
- ^ Tuy các nguồn xuất bản bất nhất về ngày sinh chính xác của Stalin, hồ sơ của Nhà thờ Uspensky ở Gori, Gruzia ghi nhận Ioseb Jughashvili sinh ngày 18 tháng 12 (Lịch cũ: 6 tháng 12) năm 1878. Điều này cũng được ghi nhận trong chứng chỉ ra trường của ông, và trong lưu trữ của cục cảnh sát mật Okhrana, thành lập ngày 18 tháng 4 năm 1902 (ghi nhận Stalin hồi đó 23 tuổi), và trong tất cả các hồ sơ thời tiền cách mạng. Muộn nhất vào năm 1921, bản thân Stalin ghi nhận sinh nhật của ông là ngày 18 tháng 12 năm 1878 trong một bản hồ sơ ứng tuyển. Sau khi lên nắm quyền vào năm 1922, Stalin khai ngày sinh của mình là 21 tháng 12 năm 1879 (Lịch cũ 9 tháng 12 năm 1879). Đây là ngày toàn thể Liên Xô mừng sinh nhật ông.[5]
- ^ Theo thông tin đăng trên Pravda ngày 24 tháng 12 năm 1939. Số: 354 (8039)
- ^ Bức thư này nhiều khả năng được thảo bởi Krupskaya chứ không phải Lenin.[247]
Tham khảo
Dẫn nguồn
- ^ Kotkin 2014, tr. 742, chú thích 25. Kể từ năm 1920 trở đi, Stalin khai sinh nhật của mình là 21 tháng 12 [lịch cũ 9] năm 1879 mặc dù ông sinh ngày 18 tháng 12 [lịch cũ 6] năm 1878.
- ^ Conquest 1991, tr. 2; Khlevniuk 2015, tr. 11.
- ^ Service 2004, tr. 15.
- ^ Service 2004, tr. 14; Montefiore 2007, tr. 23.
- ^ Montefiore 2007, tr. 23.
- ^ Service 2004, tr. 16.
- ^ Conquest 1991, tr. 11; Service 2004, tr. 16; Montefiore 2007, tr. 23; Kotkin 2014, tr. 17.
- ^ Conquest 1991, tr. 1–2; Volkogonov 1991, tr. 5; Service 2004, tr. 14; Montefiore 2007, tr. 19; Khlevniuk 2015, tr. 11; Deutscher 1966, tr. 26.
- ^ Volkogonov 1991, tr. 5; Service 2004, tr. 16; Montefiore 2007, tr. 22; Kotkin 2014, tr. 17; Khlevniuk 2015, tr. 11.
- ^ Conquest 1991, tr. 5; Service 2004, tr. 14; Montefiore 2007, tr. 22; Kotkin 2014, tr. 16.
- ^ Service 2004, tr. 16; Montefiore 2007, tr. 22, 32.
- ^ Conquest 1991, tr. 11; Service 2004, tr. 19.
- ^ Service 2004, tr. 17; Montefiore 2007, tr. 25; Kotkin 2014, tr. 20; Khlevniuk 2015, tr. 12.
- ^ Conquest 1991, tr. 10; Volkogonov 1991, tr. 5; Service 2004, tr. 17; Montefiore 2007, tr. 29; Kotkin 2014, tr. 24; Khlevniuk 2015, tr. 12.
- ^ Montefiore 2007, tr. 30–31; Kotkin 2014, tr. 20.
- ^ Conquest 1991, tr. 12; Montefiore 2007, tr. 31; Kotkin 2014, tr. 20–21.
- ^ Montefiore 2007, tr. 31–32.
- ^ Dović & Helgason 2019, tr. 256.
- ^ Conquest 1991, tr. 11; Service 2004, tr. 20; Montefiore 2007, tr. 32–34; Kotkin 2014, tr. 21.
- ^ Service 2004, tr. 20; Montefiore 2007, tr. 36.
- ^ Conquest 1991, tr. 12; Service 2004, tr. 30; Montefiore 2007, tr. 44; Kotkin 2014, tr. 26.
- ^ Montefiore 2007, tr. 43–44.
- ^ Montefiore 2007, tr. 44.
- ^ Conquest 1991, tr. 13; Service 2004, tr. 30; Montefiore 2007, tr. 43; Kotkin 2014, tr. 26.
- ^ Conquest 1991, tr. 12; Volkogonov 1991, tr. 5; Service 2004, tr. 19; Montefiore 2007, tr. 31; Kotkin 2014, tr. 20.
- ^ Conquest 1991, tr. 12; Service 2004, tr. 25; Montefiore 2007, tr. 35, 46; Kotkin 2014, tr. 20–21.
- ^ Deutscher 1966, tr. 28; Montefiore 2007, tr. 51–53; Khlevniuk 2015, tr. 15.
- ^ Montefiore 2007, tr. 54–55.
- ^ Conquest 1991, tr. 19; Service 2004, tr. 36; Montefiore 2007, tr. 56; Kotkin 2014, tr. 32; Khlevniuk 2015, tr. 16.
- ^ Conquest 1991, tr. 18; Service 2004, tr. 38; Montefiore 2007, tr. 57; Kotkin 2014, tr. 33.
- ^ Montefiore 2007, tr. 58; nguyên văn là "minor Georgian classics".
- ^ Montefiore 2007, tr. 58.
- ^ Montefiore 2007, tr. 69; Kotkin 2014, tr. 32; Khlevniuk 2015, tr. 18.
- ^ Conquest 1991, tr. 19; Montefiore 2007, tr. 69; Kotkin 2014, tr. 36–37; Khlevniuk 2015, tr. 19.
- ^ Conquest 1991, tr. 19; Montefiore 2007, tr. 62; Kotkin 2014, tr. 36, 37; Khlevniuk 2015, tr. 18.
- ^ Montefiore 2007, tr. 63.
- ^ Conquest 1991, tr. 14; Volkogonov 1991, tr. 5; Service 2004, tr. 27–28; Montefiore 2007, tr. 63; Kotkin 2014, tr. 23–24; Khlevniuk 2015, tr. 17.
- ^ Deutscher 1966, tr. 38; Montefiore 2007, tr. 64.
- ^ Montefiore 2007, tr. 69.
- ^ Service 2004, tr. 40; Kotkin 2014, tr. 43.
- ^ Montefiore 2007, tr. 66.
- ^ Montefiore 2007, tr. 65; Kotkin 2014, tr. 44.
- ^ Service 2004, tr. 41; Montefiore 2007, tr. 71.
- ^ Deutscher 1966, tr. 54; Conquest 1991, tr. 27; Service 2004, tr. 43–44; Montefiore 2007, tr. 76; Kotkin 2014, tr. 47–48.
- ^ Montefiore 2007, tr. 79.
- ^ Deutscher 1966, tr. 54; Conquest 1991, tr. 27; Montefiore 2007, tr. 78.
- ^ a b Montefiore 2007, tr. 78.
- ^ Conquest 1991, tr. 27; Service 2004, tr. 45; Montefiore 2007, tr. 81–82; Kotkin 2014, tr. 49.
- ^ Montefiore 2007, tr. 82.
- ^ Conquest 1991, tr. 28; Montefiore 2007, tr. 82; Kotkin 2014, tr. 50.
- ^ Montefiore 2007, tr. 87.
- ^ Deutscher 1966, tr. 63; Rieber 2005, tr. 37–38; Montefiore 2007, tr. 87–88.
- ^ Conquest 1991, tr. 29; Service 2004, tr. 52; Rieber 2005, tr. 39; Montefiore 2007, tr. 101; Kotkin 2014, tr. 51.
- ^ Montefiore 2007, tr. 91, 95; Kotkin 2014, tr. 53.
- ^ Montefiore 2007, tr. 90–93; Kotkin 2014, tr. 51; Khlevniuk 2015, tr. 22–23.
- ^ Conquest 1991, tr. 29; Service 2004, tr. 49; Montefiore 2007, tr. 94–95; Kotkin 2014, tr. 52; Khlevniuk 2015, tr. 23.
- ^ Montefiore 2007, tr. 97–98.
- ^ Conquest 1991, tr. 29; Service 2004, tr. 49; Rieber 2005, tr. 42; Montefiore 2007, tr. 98; Kotkin 2014, tr. 52.
- ^ Deutscher 1966, tr. 67; Service 2004, tr. 52; Montefiore 2007, tr. 101.
- ^ Deutscher 1966, tr. 67; Conquest 1991, tr. 29; Service 2004, tr. 52; Montefiore 2007, tr. 105.
- ^ Deutscher 1966, tr. 68; Conquest 1991, tr. 29; Montefiore 2007, tr. 107; Kotkin 2014, tr. 53; Khlevniuk 2015, tr. 23.
- ^ Deutscher 1966, tr. 75; Conquest 1991, tr. 29; Service 2004, tr. 52; Montefiore 2007, tr. 108–110.
- ^ Montefiore 2007, tr. 111.
- ^ Service 2004, tr. 52; Montefiore 2007, tr. 114–115.
- ^ Service 2004, tr. 52; Montefiore 2007, tr. 115–116; Kotkin 2014, tr. 53.
- ^ Service 2004, tr. 57; Montefiore 2007, tr. 123.
- ^ Service 2004, tr. 54; Montefiore 2007, tr. 117–118; Kotkin 2014, tr. 77.
- ^ Conquest 1991, tr. 33–34; Service 2004, tr. 53; Montefiore 2007, tr. 113; Kotkin 2014, tr. 78–79; Khlevniuk 2015, tr. 24.
- ^ Deutscher 1966, tr. 76; Service 2004, tr. 59; Kotkin 2014, tr. 80; Khlevniuk 2015, tr. 24.
- ^ Montefiore 2007, tr. 131.
- ^ Conquest 1991, tr. 38; Service 2004, tr. 59.
- ^ Kotkin 2014, tr. 81.
- ^ Deutscher 1966, tr. 80; Service 2004, tr. 56; Montefiore 2007, tr. 126.
- ^ Deutscher 1966, tr. 84–85; Service 2004, tr. 56.
- ^ Service 2004, tr. 58; Montefiore 2007, tr. 128–129.
- ^ a b Montefiore 2007, tr. 129.
- ^ Montefiore 2007, tr. 131–132.
- ^ Montefiore 2007, tr. 132.
- ^ Montefiore 2007, tr. 143.
- ^ Montefiore 2007, tr. 132–133.
- ^ Deutscher 1966, tr. 87; Montefiore 2007, tr. 135, 144.
- ^ Montefiore 2007, tr. 137.
- ^ Deutscher 1966, tr. 89–90; Service 2004, tr. 60; Montefiore 2007, tr. 145.
- ^ Montefiore 2007, tr. 145.
- ^ Deutscher 1966, tr. 90; Conquest 1991, tr. 37; Service 2004, tr. 60; Kotkin 2014, tr. 81.
- ^ Deutscher 1966, tr. 92; Montefiore 2007, tr. 147; Kotkin 2014, tr. 105.
- ^ Deutscher 1966, tr. 94; Conquest 1991, tr. 39–40; Service 2004, tr. 61, 62; Montefiore 2007, tr. 156.
- ^ Deutscher 1966, tr. 96; Conquest 1991, tr. 40; Service 2004, tr. 62; Khlevniuk 2015, tr. 26.
- ^ Deutscher 1966, tr. 96; Service 2004, tr. 62; Kotkin 2014, tr. 113.
- ^ Montefiore 2007, tr. 168; Kotkin 2014, tr. 113.
- ^ Service 2004, tr. 64; Montefiore 2007, tr. 159; Kotkin 2014, tr. 105; Semeraro 2017, tr. ??.
- ^ Service 2004, tr. 64; Montefiore 2007, tr. 167; Kotkin 2014, tr. 106; Khlevniuk 2015, tr. 25.
- ^ Service 2004, tr. 65.
- ^ Conquest 1991, tr. 41; Service 2004, tr. 65; Montefiore 2007, tr. 178-180; Kotkin 2014, tr. 108.
- ^ Conquest 1991, tr. 41–42; Service 2004, tr. 75; Kotkin 2014, tr. 113.
- ^ Deutscher 1966, tr. 100; Montefiore 2007, tr. 180; Kotkin 2014, tr. 114.
- ^ Deutscher 1966, tr. 100; Conquest 1991, tr. 43–44; Service 2004, tr. 76; Montefiore 2007, tr. 184.
- ^ Montefiore 2007, tr. 190.
- ^ Montefiore 2007, tr. 186.
- ^ Montefiore 2007, tr. 189.
- ^ Montefiore 2007, tr. 191; Kotkin 2014, tr. 115.
- ^ Conquest 1991, tr. 44; Service 2004, tr. 71; Montefiore 2007, tr. 193; Kotkin 2014, tr. 116.
- ^ Montefiore 2007, tr. 194.
- ^ Service 2004, tr. 74; Montefiore 2007, tr. 196; Kotkin 2014, tr. 115.
- ^ Montefiore 2007, tr. 197–198; Kotkin 2014, tr. 115.
- ^ Montefiore 2007, tr. 195.
- ^ Conquest 1991, tr. 44; Service 2004, tr. 68; Montefiore 2007, tr. 203; Kotkin 2014, tr. 116.
- ^ Conquest 1991, tr. 45; Montefiore 2007, tr. 203–204.
- ^ Conquest 1991, tr. 45; Service 2004, tr. 68; Montefiore 2007, tr. 206, 208; Kotkin 2014, tr. 116.
- ^ Conquest 1991, tr. 46; Montefiore 2007, tr. 212; Kotkin 2014, tr. 117.
- ^ Conquest 1991, tr. 46; Montefiore 2007, tr. 222, 226; Kotkin 2014, tr. 121.
- ^ Service 2004, tr. 79; Montefiore 2007, tr. 227, 229, 230–231; Kotkin 2014, tr. 121.
- ^ Conquest 1991, tr. 47; Service 2004, tr. 80; Montefiore 2007, tr. 231, 234; Kotkin 2014, tr. 121.
- ^ Service 2004, tr. 79; Montefiore 2007, tr. 234; Kotkin 2014, tr. 121.
- ^ Montefiore 2007, tr. 236; Kotkin 2014, tr. 121.
- ^ Montefiore 2007, tr. 237; Kotkin 2014, tr. 121–22.
- ^ a b Service 2004, tr. 83; Kotkin 2014, tr. 122–123.
- ^ Conquest 1991, tr. 48; Service 2004, tr. 83; Montefiore 2007, tr. 240; Kotkin 2014, tr. 122–123.
- ^ Montefiore 2007, tr. 240.
- ^ Montefiore 2007, tr. 241.
- ^ Service 2004, tr. 84; Montefiore 2007, tr. 243.
- ^ a b Service 2004, tr. 84; Montefiore 2007, tr. 247.
- ^ Conquest 1991, tr. 51; Montefiore 2007, tr. 248.
- ^ Montefiore 2007, tr. 249; Kotkin 2014, tr. 133.
- ^ Service 2004, tr. 86; Montefiore 2007, tr. 250; Kotkin 2014, tr. 154.
- ^ Conquest 1991, tr. 51; Service 2004, tr. 86–87; Montefiore 2007, tr. 250–251.
- ^ Montefiore 2007, tr. 252–253.
- ^ Montefiore 2007, tr. 255.
- ^ Montefiore 2007, tr. 256.
- ^ Conquest 1991, tr. 52; Service 2004, tr. 87–88; Montefiore 2007, tr. 256–259; Kotkin 2014, tr. 133.
- ^ Montefiore 2007, tr. 263.
- ^ Conquest 1991, tr. 54; Service 2004, tr. 89; Montefiore 2007, tr. 263.
- ^ Service 2004, tr. 89; Montefiore 2007, tr. 264–265.
- ^ a b Montefiore 2007, tr. 266.
- ^ Conquest 1991, tr. 53; Service 2004, tr. 85; Montefiore 2007, tr. 266; Kotkin 2014, tr. 133.
- ^ Kotkin 2014, tr. 133.
- ^ a b Montefiore 2007, tr. 267.
- ^ Himmer 1986, tr. 269; Volkogonov 1991, tr. 7; Service 2004, tr. 85.
- ^ Himmer 1986, tr. 269; Service 2004, tr. 85.
- ^ Himmer 1986, tr. 269; Volkogonov 1991, tr. 7; Montefiore 2007, tr. 268; Kotkin 2014, tr. 133.
- ^ a b Himmer 1986, tr. 269.
- ^ Montefiore 2007, tr. 267–268.
- ^ Montefiore 2007, tr. 268–270; Khlevniuk 2015, tr. 28.
- ^ Conquest 1991, tr. 54; Service 2004, tr. 102–103; Montefiore 2007, tr. 270, 273; Khlevniuk 2015, tr. 29.
- ^ Montefiore 2007, tr. 273–274.
- ^ Conquest 1991, tr. 55; Service 2004, tr. 105–106; Montefiore 2007, tr. 277–278; Khlevniuk 2015, tr. 29.
- ^ a b Suny 2020, tr. 559; Khlevniuk 2015, tr. 30.
- ^ a b Montefiore 2007, tr. 292–293.
- ^ a b Montefiore 2007, tr. 298, 300.
- ^ The Siberian Times, 6 April 2016.
- ^ Montefiore 2007, tr. 287.
- ^ Conquest 1991, tr. 56; Service 2004, tr. 110; Montefiore 2007, tr. 288–289.
- ^ Conquest 1991, tr. 57; Service 2004, tr. 113–114; Montefiore 2007, tr. 300; Kotkin 2014, tr. 155.
- ^ Conquest 1991, tr. 57; Montefiore 2007, tr. 301–302; Kotkin 2014, tr. 155.
- ^ Service 2004, tr. 114; Montefiore 2007, tr. 302; Kotkin 2014, tr. 155.
- ^ Service 2004, tr. 114; Montefiore 2007, tr. 302.
- ^ Conquest 1991, tr. 57–58; Service 2004, tr. 116–117; Montefiore 2007, tr. 302–303; Kotkin 2014, tr. 178; Khlevniuk 2015, tr. 42.
- ^ Volkogonov 1991, tr. 15, 19; Service 2004, tr. 117; Montefiore 2007, tr. 304; Kotkin 2014, tr. 173.
- ^ Volkogonov 1991, tr. 19; Service 2004, tr. 120; Montefiore 2007, tr. 310.
- ^ Conquest 1991, tr. 59–60; Montefiore 2007, tr. 310.
- ^ Conquest 1991, tr. 64; Service 2004, tr. 131; Montefiore 2007, tr. 316; Kotkin 2014, tr. 193; Khlevniuk 2015, tr. 46.
- ^ Montefiore 2007, tr. 316.
- ^ Conquest 1991, tr. 65; Montefiore 2007, tr. 319–320.
- ^ Montefiore 2007, tr. 32.
- ^ Montefiore 2007, tr. 322–324; Kotkin 2014, tr. 203; Khlevniuk 2015, tr. 48–49.
- ^ Montefiore 2007, tr. 326; Kotkin 2014, tr. 204.
- ^ Conquest 1991, tr. 68; Service 2004, tr. 138.
- ^ Montefiore 2007, tr. 332–333, 335.
- ^ Service 2004, tr. 144; Montefiore 2007, tr. 337–338.
- ^ Service 2004, tr. 145; Montefiore 2007, tr. 341.
- ^ Montefiore 2007, tr. 341–342.
- ^ Montefiore 2007, tr. 344–346.
- ^ Service 2004, tr. 145, 147.
- ^ Service 2004, tr. 144–146; Kotkin 2014, tr. 224; Khlevniuk 2015, tr. 52.
- ^ Khlevniuk 2015, tr. 53.
- ^ Kotkin 2014, tr. 177.
- ^ Service 2004, tr. 147–148; Kotkin 2014, tr. 227–228, 229; Khlevniuk 2015, tr. 52.
- ^ Volkogonov 1991, tr. 28–29; Service 2004, tr. 148.
- ^ Conquest 1991, tr. 71; Kotkin 2014, tr. 228.
- ^ Conquest 1991, tr. 71, 90; Kotkin 2014, tr. 318.
- ^ Conquest 1991, tr. 71; Kotkin 2014, tr. 229.
- ^ Montefiore 2003, tr. 27; Kotkin 2014, tr. 226.
- ^ Service 2004, tr. 150.
- ^ Montefiore 2003, tr. 157.
- ^ Service 2004, tr. 149.
- ^ a b Service 2004, tr. 155.
- ^ a b Service 2004, tr. 158.
- ^ Service 2004, tr. 148.
- ^ Conquest 1991, tr. 72; Service 2004, tr. 151.
- ^ Conquest 1991, tr. 72; Service 2004, tr. 167; Kotkin 2014, tr. 264; Khlevniuk 2015, tr. 49.
- ^ Conquest 1991, tr. 71.
- ^ a b Conquest 1991, tr. 71; Service 2004, tr. 152.
- ^ Service 2004, tr. 153.
- ^ Conquest 1991, tr. 72; Service 2004, tr. 150–151; Kotkin 2014, tr. 259–264.
- ^ Conquest 1991, tr. 75; Service 2004, tr. 158–161; Kotkin 2014, tr. 250.
- ^ Service 2004, tr. 159–160; Kotkin 2014, tr. 250.
- ^ Conquest 1991, tr. 75; Service 2004, tr. 161; Kotkin 2014, tr. 257–258.
- ^ Service 2004, tr. 161; Kotkin 2014, tr. 258–259, 265.
- ^ Kotkin 2014, tr. 259.
- ^ Service 2004, tr. 165; Kotkin 2014, tr. 268–270.
- ^ Conquest 1991, tr. 77; Volkogonov 1991, tr. 39; Montefiore 2003, tr. 27; Service 2004, tr. 163; Kotkin 2014, tr. 300–301; Khlevniuk 2015, tr. 54.
- ^ a b Service 2004, tr. 173.
- ^ Service 2004, tr. 164; Kotkin 2014, tr. 302–303.
- ^ Conquest 1991, tr. 78, 82; Montefiore 2007, tr. 28; Khlevniuk 2015, tr. 55.
- ^ Conquest 1991, tr. 81; Service 2004, tr. 170.
- ^ Volkogonov 1991, tr. 46; Montefiore 2007, tr. 27; Kotkin 2014, tr. 305, 307; Khlevniuk 2015, tr. 56–57.
- ^ Conquest 1991, tr. 78–79; Volkogonov 1991, tr. 40; Service 2004, tr. 166; Khlevniuk 2015, tr. 55.
- ^ Service 2004, tr. 171.
- ^ Service 2004, tr. 169.
- ^ Conquest 1991, tr. 83–84; Service 2004, tr. 172; Kotkin 2014, tr. 314.
- ^ a b c Service 2004, tr. 172.
- ^ Conquest 1991, tr. 85; Service 2004, tr. 172.
- ^ Service 2004, tr. 173, 174.
- ^ a b Service 2004, tr. 185.
- ^ Conquest 1991, tr. 86; Volkogonov 1991, tr. 45; Kotkin 2014, tr. 331.
- ^ Service 2004, tr. 175.
- ^ Conquest 1991, tr. 91; Service 2004, tr. 175.
- ^ Service 2004, tr. 176.
- ^ Service 2004, tr. 199.
- ^ Service 2004, tr. 203, 190.
- ^ Service 2004, tr. 174.
- ^ a b Service 2004, tr. 178.
- ^ Service 2004, tr. 176; Kotkin 2014, tr. 352–354.
- ^ Service 2004, tr. 178; Kotkin 2014, tr. 357; Khlevniuk 2015, tr. 59.
- ^ Service 2004, tr. 176–177.
- ^ a b c d Service 2004, tr. 177.
- ^ Conquest 1991, tr. 87; Service 2004, tr. 179; Kotkin 2014, tr. 362; Khlevniuk 2015, tr. 60.
- ^ Service 2004, tr. 180, 182; Kotkin 2014, tr. 364.
- ^ Service 2004, tr. 182.
- ^ Service 2004, tr. 182; Kotkin 2014, tr. 364–365.
- ^ Davies 2003, tr. 211; Service 2004, tr. 183–185; Kotkin 2014, tr. 376–377.
- ^ Kotkin 2014, tr. 377.
- ^ Service 2004, tr. 184–185; Kotkin 2014, tr. 377.
- ^ Kotkin 2014, tr. 392.
- ^ Kotkin 2014, tr. 396–397.
- ^ Kotkin 2014, tr. 388.
- ^ a b Service 2004, tr. 202.
- ^ Service 2004, tr. 199–200; Kotkin 2014, tr. 371.
- ^ Service 2004, tr. 200.
- ^ Service 2004, tr. 194–196; Kotkin 2014, tr. 400.
- ^ Service 2004, tr. 194–195; Kotkin 2014, tr. 479–481.
- ^ Service 2004, tr. 203–205; Kotkin 2014, tr. 400.
- ^ a b Conquest 1991, tr. 127; Service 2004, tr. 232.
- ^ Conquest 1991, tr. 89; Service 2004, tr. 187; Kotkin 2014, tr. 344; Khlevniuk 2015, tr. 64.
- ^ Service 2004, tr. 186.
- ^ Service 2000, tr. 369; Service 2004, tr. 209; Kotkin 2014, tr. 504.
- ^ a b Kotkin 2014, tr. 501.
- ^ Conquest 1991, tr. 97; Volkogonov 1991, tr. 53; Service 2004, tr. 191.
- ^ Service 2004, tr. 191–192; Kotkin 2014, tr. 413.
- ^ Service 2004, tr. 192; Kotkin 2014, tr. 414; Khlevniuk 2015, tr. 68.
- ^ Conquest 1991, tr. 102; Service 2004, tr. 191–192; Kotkin 2014, tr. 528.
- ^ Conquest 1991, tr. 98; Service 2004, tr. 193; Kotkin 2014, tr. 483; Khlevniuk 2015, tr. 69–70.
- ^ Conquest 1991, tr. 95; Service 2004, tr. 195; Khlevniuk 2015, tr. 71–72.
- ^ a b Service 2004, tr. 195.
- ^ Volkogonov 1991, tr. 71; Service 2004, tr. 194; Kotkin 2014, tr. 475–476; Khlevniuk 2015, tr. 68–69.
- ^ Conquest 1991, tr. 98–99; Service 2004, tr. 195; Kotkin 2014, tr. 477, 478; Khlevniuk 2015, tr. 69.
- ^ Volkogonov 1991, tr. 74; Service 2004, tr. 206; Kotkin 2014, tr. 485.
- ^ Conquest 1991, tr. 99–100, 103; Volkogonov 1991, tr. 72–74; Service 2004, tr. 210–211; Khlevniuk 2015, tr. 70–71.
- ^ Conquest 1991, tr. 100–101; Volkogonov 1991, tr. 53, 79–82; Service 2004, tr. 208–209; Khlevniuk 2015, tr. 71.
- ^ Kotkin 2014, tr. 528.
- ^ Conquest 1991, tr. 104; Montefiore 2003, tr. 30; Service 2004, tr. 219; Kotkin 2014, tr. 534; Khlevniuk 2015, tr. 79.
- ^ Conquest 1991, tr. 110; Montefiore 2003, tr. 30; Service 2004, tr. 219; Kotkin 2014, tr. 542–543.
- ^ Conquest 1991, tr. 130; Montefiore 2003, tr. 30; Service 2004, tr. 221; Kotkin 2014, tr. 540.
- ^ Conquest 1991, tr. 111–112; Volkogonov 1991, tr. 117–118; Service 2004, tr. 221; Kotkin 2014, tr. 544.
- ^ Service 2004, tr. 222–224; Khlevniuk 2015, tr. 79.
- ^ Conquest 1991, tr. 111; Volkogonov 1991, tr. 93–94; Service 2004, tr. 222–224; Kotkin 2014, tr. 546–548; Khlevniuk 2015, tr. 79.
- ^ Kotkin 2014, tr. 426.
- ^ Kotkin 2014, tr. 453.
- ^ Kotkin 2014, tr. 469.
- ^ Kotkin 2014, tr. 495–496.
- ^ Conquest 1991, tr. 127; Service 2004, tr. 238.
- ^ Fainsod & Hough 1979, tr. 111.
- ^ Volkogonov 1991, tr. 136.
- ^ Montefiore 2003, tr. 27.
- ^ Conquest 1991, tr. 98; Kotkin 2014, tr. 474; Khlevniuk 2015, tr. 52.
- ^ Service 2004, tr. 214–215, 217.
- ^ Khlevniuk 2015, tr. 87.
- ^ Service 2004, tr. 225.
- ^ Service 2004, tr. 227.
- ^ Service 2004, tr. 228.
- ^ Service 2004, tr. 256.
- ^ Service 2004, tr. 254.
- ^ Conquest 1991, tr. 172–173; Service 2004, tr. 256; Kotkin 2014, tr. 638–639.
- ^ Conquest 1991, tr. 144, 146; Service 2004, tr. 258.
- ^ Service 2004, tr. 256; Kotkin 2014, tr. 571.
- ^ Service 2004, tr. 253; Khlevniuk 2015, tr. 101.
- ^ Conquest 1991, tr. 147–148; Service 2004, tr. 257–258; Kotkin 2014, tr. 661, 668–669, 679–684; Khlevniuk 2015, tr. 102–103.
- ^ Service 2004, tr. 258; Khlevniuk 2015, tr. 103.
- ^ Service 2004, tr. 258.
- ^ Service 2004, tr. 258; Khlevniuk 2015, tr. 105.
- ^ a b Service 2004, tr. 267.
- ^ Conquest 1991, tr. 160; Volkogonov 1991, tr. 166.
- ^ Volkogonov 1991, tr. 167.
- ^ Sandle 1999, tr. 231.
- ^ Service 2004, tr. 265–266; Khlevniuk 2015, tr. 110–111.
- ^ Sandle 1999, tr. 234.
- ^ Service 2004, tr. 266; Khlevniuk 2015, tr. 112.
- ^ Khlevniuk 2015, tr. 113.
- ^ Service 2004, tr. 271.
- ^ Service 2004, tr. 270.
- ^ Service 2004, tr. 270; Khlevniuk 2015, tr. 116.
- ^ Service 2004, tr. 272; Khlevniuk 2015, tr. 116.
- ^ Service 2004, tr. 272.
- ^ Service 2004, tr. 270; Khlevniuk 2015, tr. 113–114.
- ^ Conquest 1991, tr. 160; Khlevniuk 2015, tr. 114.
- ^ Volkogonov 1991, tr. 174.
- ^ Volkogonov 1991, tr. 172; Service 2004, tr. 260; Kotkin 2014, tr. 708.
- ^ Conquest 1991, tr. 158; Service 2004, tr. 266; Conquest 2008, tr. 18.
- ^ Gellately, Robert (2007). Lenin, Stalin, and Hitler: The Age of Social Catastrophe. Knopf. tr. 2. ISBN 1-4000-4005-1.
- ^ Nicolas Werth, "Case Study:The NKVD Mass Secret Operation n° 00447 (August 1937 – November 1938)", Mass Violence
- ^ Stalin, Joseph. Works. Moskva: Foreign Languages Pub. House, 1952, Vol. 6, p. 239-240
- ^ Barmine, Alexander, One Who Survived, New York: G.P. Putnam (1945), p. 252
- ^ Barmine, Alexander, One Who Survived, New York: G.P. Putnam (1945), p. 247-248
- ^ Tràng An báo số ngày 27 tháng 1 năm 1942
- ^ Sông Hương ngày 3 Tháng Bảy 1937
- ^ Snyder, Timothy (2010). Bloodlands: Europe Between Hitler and Stalin. Basic Books. tr. 103–104. ISBN 0-465-00239-0. Truy cập ngày 2 tháng 9 năm 2014.[liên kết hỏng]
- ^ John Earl Haynes và Harvey Klehr. American Communists and Radicals Executed by Soviet Political Police and Buried at Sandarmokh (appendix to In Denial: Historians, Communism and Espionage).
- ^ Quinn-Judge, Sophie. Ho Chi Minh: The Missing Years, 1919-1941 (ấn bản 2002). University of California Press. tr. 207–210. ISBN 9780520235335.
- ^ Ellman, Michael (2005). “The Role of Leadership Perceptions and of Intent in the Soviet Famine of 1931–1934” (PDF). Europe-Asia Studies. 57 (6): 826. doi:10.1080/09668130500199392. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 27 tháng 2 năm 2009. Truy cập ngày 2 tháng 9 năm 2014.
- ^ Kuromiya, Hiroaki (2007). The Voices of the Dead: Stalin's Great Terror in the 1930s. New Haven, CT: Yale University Press. tr. 2. ISBN 0-300-12389-2.
- ^ Allen S. Whiting and General Sheng Shicai. " Sinkiang: Pawn or Pivot? " Michigan State University Press, 1958
- ^ Christopher Kaplonski, Thirty thousand bullets, in: Historical Injustice and Democratic Transition in Eastern Asia and Northern Europe, London 2002, p.155-168
- ^ Mass grave uncovered in Mongolia RTÉ News, Thursday, ngày 12 tháng 6 năm 2003
- ^ “Newseum: The Commissar Vanishes”. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 2 năm 2014. Truy cập ngày 19 tháng 7 năm 2008.
- ^ Hick, Mike. “Falsification of history”. University of Minnesota. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 7 năm 2013. Truy cập ngày 27 tháng 9 năm 2014.
- ^ Stalin-era mass grave yields tons of bones Reuters. ngày 9 tháng 6 năm 2010
- ^ Khlevniuk, Oleg V. (2008). Master of the House: Stalin and His Inner Circle. Yale University Press. tr. xix. ISBN 0-300-11066-9.
... các lý thuyết về tính chất tự phát của khủng bố, về một sự mất kiểm soát của trung ương trong quá trình thanh trừng và về vai trò của các nhà lãnh đạo khu vực đơn giản là không được các ghi chép lịch sử hỗ trợ.
- ^ Marc Jansen, Nikita Vasilʹevich Petrov. Stalin's Loyal Executioner: People's Commissar Nikolai Ezhov, 1895-1940. Hoover Institution Press, 2002. ISBN 0-8179-2902-9 p. 111
- ^ Michael Ellman Lưu trữ 2012-12-05 tại Archive.today, Stalin and the Soviet Famine of 1932–33 Revisited Lưu trữ 2007-10-14 tại Wayback Machine Europe-Asia Studies, Routledge. Vol. 59, No. 4, June 2007, 663–693. PDF file
- ^ Snyder, Timothy. Bloodlands: Europe Between Hitler and Stalin. Basic Books, 2010. ISBN 0-465-00239-0 p. 137
- ^ "Stalin war ein psychopathischer Gewalttäter", deutschlandradiokultur, 29.2.2012
- ^ Knightley, Phillip. The First Casualty. New York: Harcourt Brace Jovanovich, 1975, p. 264
- ^ Niên giám thông tin Khoa học xã hội nước ngoài, số 1, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 2010
- ^ Conquest, Robert (1997). “Victims of Stalinism: A Comment”. Europe-Asia Studies. 49 (7): 1317–1319. doi:10.1080/09668139708412501. Chú thích có tham số trống không rõ:
|1=
(trợ giúp) - ^ Bullock 1962, tr. 904–906.
- ^ a b Boobbyer 2000, tr. 130.
- ^ Pohl, Otto, Ethnic Cleansing in the USSR, 1937–1949, ISBN 0-313-30921-3
- ^ “Soviet Transit, Camp, and Deportation Death Rates”. Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2010.
- ^ Kaiser, arrel Philip (2008). Emigration to and from the German-Russian Volga Colonies. Lulu.com, 2008. tr. 105. ISBN 978061517010 Kiểm tra giá trị
|isbn=
: số con số (trợ giúp). Truy cập ngày 3 tháng 9 năm 2014. - ^ “Crimean Tatars Call On International Community To Support Their Right To Self-Determination”. Unrepresented Nations and Peoples Organization. Mejlis of the Crimean Tatar People. Truy cập ngày 3 tháng 9 năm 2014.
- ^ Gessen, Masha. “What drives the separatists to commit such terrible outrages?”. Slate. Truy cập ngày 3 tháng 9 năm 2014.
- ^ Stalin, Joseph. Stalin's Kampf. New York: Howell, Soskin & Company, c1940, p. 196
- ^ Littlepage, John D. In Search of Soviet Gold. New York: Harcourt, Brace, c1938, p. 107
- ^ Snow, Edgar. The Pattern of Soviet Power, New York: Random House, 1945, p. 162
- ^ Littlepage, John D. In Search of Soviet Gold. New York: Harcourt, Brace, c1938, p. 256-259
- ^ Graeme Gill, "The Soviet Leader Cult: Reflections on the Structure of Leadership in the Soviet Union", British Journal of Political Science 10 (1980): 167.
- ^ Father of Nations tại the Encyclopedic dictionary of catchy words and phrases.
- ^ Ennker, "The Stalin Cult", 88.
- ^ Gill, "The Soviet Leader Cult", 168.
- ^ Bonnell, The Iconography of Power, 158.
- ^ Gill, "The Soviet Leader Cult", 169.
- ^ Victoria E. Bonnell, The Iconography of Power: Soviet Political Posters Under Lenin and Stalin (Berkeley: University of California Press, 1999), 165.
- ^ Catriona Kelly, "Riding the Magic Carpet: Children and the Leader Cult in the Stalin Era", The Slavic and East European Journal 49 (2005): 206–207.
- ^ Benno Ennker, "The Stalin Cult, Bolshevik Rule and Kremlin Interactions in the 1930s", in The Leader Cult in Communist Dictatorship: Stalin and the Eastern Bloc, ed. Balázs Apor et al. (New York: Palgrave Macmillan, 2004), 85.
- ^ Kelly, "Riding the Magic Carpet", 208.
- ^ Tucker, Stalin in Power, 155.
- ^ Catriona Kelly, "Riding the Magic Carpet", 202.
- ^ Avidenko, A. O. Halsall, Paul (biên tập). “Hymn to Stalin”. Internet Modern History Sourcebook. Fordham University, 1997. Truy cập ngày 2 tháng 9 năm 2012.
- ^ Chi tiết cuối dường như đã được nhà thơ Việt Nam Tố Hữu sử dụng lại trong bài "Stalin! Stalin!" (1953): "Yêu biết mấy nghe con tập nói/Tiếng đầu lòng con gọi Sta-lin!"BBC Tiếng Việt http://www.bbc.co.uk/vietnamese/forum/story/2007/10/071031_stalinbytohuu.shtml. Truy cập ngày 3 tháng 9 năm 2014.
|title=
trống hay bị thiếu (trợ giúp) - ^ Davies, "Making of the Leader Cult", 37–38.
- ^ a b Davies, "Making of the Leader Cult", 41.
- ^ Arvo Tuominen, The Bells of the Kremlin, ed. Piltti Heiskanen, trans. Lily Leino (Hanover: University Press of New England, 1983), 162.
- ^ Levinson, Martin H. (2009). When Good Things Happen to Bad People. iUniverse. tr. 58. ISBN 9781440120121. Truy cập ngày 3 tháng 9 năm 2014.
- ^ Sarah Davies, "Stalin and the Making of the Leader Cult in the 1930s", in The Leader Cult in Communist Dictatorship: Stalin and the Eastern Bloc, ed. Balázs Apor et al. (New York: Palgrave Macmillan, 2004), 30–31.
- ^ Montefiore 2003, tr. 308.
- ^ Conquest 1991, tr. 220–221; Service 2004, tr. 380–381.
- ^ Service 2004, tr. 392–393; Khlevniuk 2015, tr. 163, 168–169.
- ^ Khlevniuk 2015, tr. 185–186.
- ^ Conquest 1991, tr. 232–233, 236.
- ^ Service 2004, tr. 399–400.
- ^ Nekrich 1997, tr. 109.
- ^ Conquest 1991, tr. 220; Khlevniuk 2015, tr. 166.
- ^ Conquest 1991, tr. 220; Khlevniuk 2015, tr. 168, 169.
- ^ Conquest 1991, tr. 221; Roberts 1992, tr. 57–78; Service 2004, tr. 399; Khlevniuk 2015, tr. 166.
- ^ Conquest 1991, tr. 222; Roberts 1992, tr. 57–78; Khlevniuk 2015, tr. 169.
- ^ Conquest 1991, tr. 222; Roberts 2006, tr. 43.
- ^ Conquest 1991, tr. 223; Service 2004, tr. 402–403; Wettig 2008, tr. 20.
- ^ Conquest 1991, tr. 224.
- ^ Conquest 1991, tr. 224; Service 2004, tr. 405.
- ^ Conquest 1991, tr. 228; Service 2004, tr. 403; Khlevniuk 2015, tr. 172–173.
- ^ Conquest 1991, tr. 279; Khlevniuk 2015, tr. 173.
- ^ Service 2004, tr. 403; Khlevniuk 2015, tr. 173.
- ^ Conquest 1991, tr. 227; Service 2004, tr. 404–405; Wettig 2008, tr. 20–21; Khlevniuk 2015, tr. 173.
- ^ Brackman 2001, tr. 341; Khlevniuk 2015, tr. 173.
- ^ Khlevniuk 2015, tr. 170.
- ^ Conquest 1991, tr. 229; Khlevniuk 2015, tr. 170.
- ^ Conquest 1991, tr. 229; Service 2004, tr. 405.
- ^ Conquest 1991, tr. 229; Service 2004, tr. 406.
- ^ Conquest 1991, tr. 231; Brackman 2001, tr. 341, 343; Roberts 2006, tr. 58.
- ^ Conquest 1991, tr. 233; Roberts 2006, tr. 63.
- ^ Conquest 1991, tr. 234; Khlevniuk 2015, tr. 180.
- ^ Service 2004, tr. 410–411; Roberts 2006, tr. 82; Khlevniuk 2015, tr. 198.
- ^ Service 2004, tr. 408–409, 411–412; Roberts 2006, tr. 67; Khlevniuk 2015, tr. 199–200, 202.
- ^ Service 2004, tr. 414–415; Khlevniuk 2015, tr. 206–207.
- ^ a b c d e f g h i j k l m n o Service 2004.
- ^ Service 2004, tr. 420.
- ^ Service 2004, tr. 417; Khlevniuk 2015, tr. 201–202.
- ^ Conquest 1991, tr. 235; Service 2004, tr. 416.
- ^ a b Service 2004, tr. 418.
- ^ Service 2004, tr. 417.
- ^ Conquest 1991, tr. 248; Service 2004, tr. 420; Khlevniuk 2015, tr. 214.
- ^ Conquest 1991, tr. 248–249; Service 2004, tr. 420; Khlevniuk 2015, tr. 214–215.
- ^ Glantz 2001, tr. 26.
- ^ Service 2004, tr. 421, 424; Khlevniuk 2015, tr. 220.
- ^ Service 2004, tr. 482; Roberts 2006, tr. 90.
- ^ Gellately 2007.
- ^ Conquest 1991, tr. 239–240; Roberts 2006, tr. 98; Khlevniuk 2015, tr. 209.
- ^ Conquest 1991, tr. 241–242; Service 2004, tr. 521.
- ^ Overy 2004.
- ^ a b c Khlevniuk 2015.
- ^ Service 2004, tr. 442–443; Khlevniuk 2015, tr. 242−243.
- ^ Conquest 1991, tr. 260; Service 2004, tr. 444.
- ^ Conquest 1991, tr. 254; Service 2004, tr. 424; Khlevniuk 2015, tr. 221–222.
- ^ a b c d e Roberts 2006.
- ^ Conquest 1991, tr. 255; Roberts 2006, tr. 156; Khlevniuk 2015, tr. 227.
- ^ Conquest 1991, tr. 317; Service 2004, tr. 466.
- ^ Conquest 1991, tr. 252; Service 2004, tr. 460; Khlevniuk 2015.
- ^ Conquest 1991, tr. 262; Service 2004, tr. 460; Roberts 2006, tr. 180; Khlevniuk 2015, tr. 229–230.
- ^ Conquest 1991, tr. 244, 251; Service 2004, tr. 461, 469; Roberts 2006, tr. 185; Khlevniuk 2015, tr. 223, 229.
- ^ Service 2004, tr. 464–465; Khlevniuk 2015, tr. 244.
- ^ Service 2004, tr. 469; Roberts 2006, tr. 199–201.
- ^ Conquest 1991, tr. 258; Service 2004, tr. 492; Khlevniuk 2015, tr. 232–233.
- ^ Conquest 1991, tr. 264; Service 2004, tr. 465; Khlevniuk 2015, tr. 244.
- ^ Service 2004, tr. 465–466.
- ^ Service 2004, tr. 465–466; Roberts 2006, tr. 241–244.
- ^ Service 2004, tr. 471; Khlevniuk 2015, tr. 245.
- ^ Service 2004, tr. 471–472; Khlevniuk 2015, tr. 244.
- ^ a b c Service 2004, tr. 473.
- ^ Service 2004, tr. 474; Khlevniuk 2015, tr. 247.
- ^ Service 2004, tr. 479–480.
- ^ Conquest 1991, tr. 265; Service 2004, tr. 473; Khlevniuk 2015, tr. 234.
- ^ Conquest 1991, tr. 265–266; Service 2004, tr. 473; Khlevniuk 2015, tr. 235.
- ^ Service 2004, tr. 474.
- ^ Glantz 1983.
- ^ Service 2004, tr. 476; Khlevniuk 2015, tr. 248–249.
- ^ Conquest 1991, tr. 268; Khlevniuk 2015, tr. 248.
- ^ Conquest 1991, tr. 267; Khlevniuk 2015, tr. 249.
- ^ Conquest 1991, tr. 267; Service 2004, tr. 475.
- ^ Roberts 2006, tr. 274–275.
- ^ a b Wettig 2008, tr. 90–91.
- ^ Service 2004, tr. 506.
- ^ a b Service 2004, tr. 481.
- ^ Service 2004, tr. 484.
- ^ Service 2004, tr. 493; Khlevniuk 2015, tr. 247.
- ^ Service 2004, tr. 480–481.
- ^ Service 2004, tr. 479.
- ^ Service 2004, tr. 485; Khlevniuk 2015, tr. 262.
- ^ Service 2004, tr. 485.
- ^ Service 2004, tr. 493; Roberts 2006, tr. 202.
- ^ Service 2004, tr. 492.
- ^ Khlevniuk 2015, tr. 268.
- ^ Service 2004, tr. 482–483.
- ^ Service 2004, tr. 482; Khlevniuk 2015, tr. 261.
- ^ Service 2004, tr. 500.
- ^ Service 2004, tr. 496.
- ^ Service 2004, tr. 497.
- ^ Service 2004, tr. 497; Khlevniuk 2015, tr. 274–278.
- ^ Conquest 1991, tr. 289.
- ^ a b Conquest 1991, tr. 1.
- ^ Conquest 1991, tr. 1; Khlevniuk 2015, tr. 97.
- ^ Khlevniuk 2015, tr. 97.
- ^ Foltz 2021, tr. 94–97.
- ^ Montefiore 2007, tr. 66–67.
- ^ Conquest 1991, tr. 1; Montefiore 2003, tr. 2; Montefiore 2007, tr. 42; Khlevniuk 2015, tr. 97.
- ^ Montefiore 2003, tr. 579.
- ^ Rieber 2005, tr. 18.
- ^ Service 2004, tr. 85.
- ^ Montefiore 2007, tr. 268.
- ^ Conquest 1991, tr. 183; Volkogonov 1991, tr. 5; Kotkin 2017, tr. 5.
- ^ Conquest 1991, tr. 37.
- ^ Conquest 1991, tr. 149; Volkogonov 1991, tr. 49; Service 2004, tr. 334; Khlevniuk 2015, tr. 52.
- ^ Volkogonov 1991, tr. xx–xxi.
- ^ Khlevniuk 2015, tr. 329.
- ^ Volkogonov 1991, tr. 21; Khlevniuk 2015, tr. 97.
- ^ Montefiore 2007, tr. 395.
- ^ Kotkin 2017, tr. 40. "He stood five feet seven inches, or about 1.7 meters, roughly the same as Napoleon and one inch [2.5 cm] shorter than Hitler, who was 1.73 meters." [Ông cao tầm 1,7 mét, ngang bằng Napoleon và 2,5 cm thấp hơn Hitler, người cao 1,73 mét.]
- ^ Volkogonov 1991, tr. 65.
- ^ Kotkin 2017, tr. 4.
- ^ Conquest 1991, tr. xvi; Volkogonov 1991, tr. xxiii; Service 2004, tr. 4; Montefiore 2007, tr. xxiv.
- ^ a b Montefiore 2007, tr. xxiv.
- ^ Service 2004, tr. 343.
- ^ Volkogonov 1991, tr. 8; Service 2004, tr. 337.
- ^ Conquest 1991, tr. 193, 274; Volkogonov 1991, tr. 63; Service 2004, tr. 115; Kotkin 2014, tr. 425; Khlevniuk 2015, tr. 148.
- ^ Service 2004, tr. 42; Montefiore 2007, tr. 353; Kotkin 2014, tr. 424, 465, 597.
- ^ Service 2004, tr. 115.
- ^ Khlevniuk 2015, tr. 4–5.
- ^ Volkogonov 1991, tr. 145.
- ^ Montefiore 2007, tr. 49; Fitzpatrick 2015, tr. 65.
- ^ Montefiore 2007, tr. 49.
- ^ Kotkin 2014, tr. 9.
- ^ Montefiore 2003, tr. 151.
- ^ Service 2004, tr. 112.
- ^ Montefiore 2003, tr. 135.
- ^ Service 2004, tr. 522; Montefiore 2003, tr. 135; Montefiore 2007, tr. 368.
- ^ Montefiore 2003, tr. 13.
- ^ Bazhanov & Doyle 1990, tr. 106.
- ^ Montefiore 2007, tr. 73.
- ^ Montefiore 2007, tr. 209.
- ^ Service 2004, tr. 80; Montefiore 2007, tr. 209.
- ^ Service 2004, tr. 80.
- ^ McCauley 2003, tr. 90.
- ^ Montefiore 2007, tr. 5.
- ^ Volkogonov 1991, tr. 4.
- ^ Montefiore 2007, tr. 202.
- ^ Volkogonov 1991, tr. 149; Service 2004, tr. 64; Montefiore 2007, tr. 167; Khlevniuk 2015, tr. 25.
- ^ Volkogonov 1991, tr. 150–151; Montefiore 2007, tr. 364.
- ^ “Siberian pensioner IS grandson of Josef Stalin, DNA test reveals”.
- ^ “Stalin promised the gendarmes that he would marry his 14-year-old mistress as soon as she became an adult”. 8 tháng 11 năm 2018.
- ^ Montefiore 2003, tr. 8.
- ^ a b Montefiore 2003, tr. 9.
- ^ Montefiore 2003, tr. 13; Khlevniuk 2015, tr. 255.
- ^ Montefiore 2003, tr. 12.
- ^ Volkogonov 1991, tr. 154; Montefiore 2003, tr. 16; Khlevniuk 2015, tr. 255.
- ^ Khlevniuk 2015, tr. 257, 259–260.
- ^ Conquest 1991, tr. 215; Volkogonov 1991, tr. 153; Montefiore 2003, tr. 9, 227; Khlevniuk 2015, tr. 256.
- ^ Conquest 1991, tr. 260; Service 2004, tr. 521.
- ^ Khlevniuk 2015, tr. 250, 259.
- ^ Service 2004, tr. 593.
- ^ Khlevniuk 2015, tr. 260.
- ^ Montefiore 2003, tr. 142–144.
- ^ Montefiore 2003, tr. 144.
- ^ Service 2004, tr. 521.
- ^ Montefiore 2007, tr. 365.
- ^ Khlevniuk 2015, tr. 252.
- ^ Montefiore 2007, tr. 365–366.
- ^ Montefiore 2007, tr. 366.
- ^ Conquest 1991, tr. xi.
- ^ Volkogonov 1991, tr. 108; Service 2004, tr. 5.
- ^ Montefiore 2007, tr. xxii.
- ^ a b c McDermott 2006, tr. 1.
- ^ Service 2004, tr. 3.
- ^ Volkogonov 1991, tr. 546; Service 2004, tr. 3.
- ^ Service 2004, tr. 602.
- ^ Wheatcroft 1999.
- ^ Ellman 2002, tr. 1164.
- ^ Cheremukhin và đồng nghiệp 2013; Dower & Markevich 2018, tr. 246.
- ^ Service 2004, tr. 602; Khlevniuk 2015, tr. 190.
- ^ Kotkin 2014, tr. 732.
- ^ McCauley 2003, tr. 8; Service 2004, tr. 52; Montefiore 2007, tr. 9; Kotkin 2014, tr. xii; Khlevniuk 2015, tr. 12.
- ^ Conquest 1991, tr. 194; Volkogonov 1991, tr. 31; Service 2004, tr. 370.
- ^ Volkogonov 1991, tr. 77.
- ^ “Red Fascism, by Voline” [Phát xít Đỏ, bởi Voline]. www.marxists.org. Truy cập 12 tháng 6 năm 2022.
- ^ Montefiore 2003, tr. 124.
- ^ Montefiore 2003, tr. 215.
- ^ Kotkin 2014, tr. 4.
- ^ Conquest 1991, tr. xvii; McDermott 2006, tr. 5.
- ^ Volkogonov 1991, tr. xviii.
- ^ McDermott 2006, tr. 2.
- ^ Service 2004, tr. 370.
- ^ McDermott 2006, tr. 5–6.
- ^ Service 2004, tr. 8, 9.
- ^ Kotkin 2014, tr. 596.
- ^ Khlevniuk 2015, tr. 145.
- ^ Conquest 1991, tr. 182.
- ^ a b Khlevniuk 2015, tr. ix.
- ^ Service 2004, tr. 4.
- ^ Service 2004, tr. 13.
- ^ a b c Service 2004, tr. 6.
- ^ Conquest 1991, tr. xiii.
- ^ Service 2004, tr. 6; Montefiore 2007, tr. xxi.
- ^ Service 2004, tr. 5.
- ^ Sandle 1999, tr. 265–266.
- ^ Volkogonov 1991, tr. 173.
- ^ Conquest 1991, tr. 314.
- ^ Service 2004, tr. 592.
- ^ Conquest 1991, tr. 314; Volkogonov 1991, tr. 577–579; Service 2004, tr. 594.
- ^ Service 2004, tr. 594.
- ^ Volkogonov 1991, tr. 576; Service 2004, tr. 594.
- ^ Service 2004, tr. 595.
- ^ Conquest 1991, tr. 315; Service 2004, tr. 595.
- ^ Conquest 1991, tr. 315.
- ^ a b Service 2004, tr. 596.
- ^ Service 2004, tr. 596–597.
- ^ BBC, 5 June 2018.
- ^ Rutland, 13 June 2019.
- ^ Nemtsova, 17 May 2021; Lentine, 25 June 2022.
- ^ Service 2004, tr. 598.
- ^ a b Service 2004, tr. 7.
- ^ Service 2004, tr. 599.
- ^ Taylor, 15 February 2017 ; Luhn, 16 April 2019 ; BBC, 18 April 2019 .
- ^ Arkhipov, Ilya (16 tháng 4 năm 2019). “Russian Support for Stalin Surges to Record High, Poll Says”. Bloomberg. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2020.
- ^ “САМЫЕ ВЫДАЮЩИЕСЯ ЛИЧНОСТИ В ИСТОРИИ”. levada.ru. 21 tháng 6 năm 2021.
- ^ Coynash, 22 June 2021. "The renowned Levada Centre has carried out a survey to find out whom Russians would name as the "ten most outstanding national figures of all time". While nobody received an absolute majority, Soviet dictator Joseph Stalin was very clearly ahead, being named by 39% of the respondents."
- ^ a b Khlevniuk 2015, tr. x.
- ^ Service 2004, tr. 597.
- ^ Bell, 5 March 2013.
- ^ Masci, 29 June 2017.
- ^ Bakradze và đồng nghiệp 2013.
- ^ The Moscow Times, 2 March 2013.
- ^ Snyder, 26 May 2010.
- ^ “У Запоріжжі підірвали пам'ятник Сталіну” [Tượng đài Stalin bị thổi bay ở Zaporizhzhia] (bằng tiếng Ukraina). Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 12 năm 2018. Truy cập ngày 1 tháng 1 năm 2011.
- ^ Ukrayinska Pravda, 4 March 2015.
Thư mục
Sách và tập san học thuật
- Bazhanov, Boris; Doyle, David W. (1990). Bazhanov and the Damnation of Stalin. Athens, OH: Ohio University Press. ISBN 978-0585076706. OCLC 42855956.
- Brackman, Roman (2001). The Secret File of Joseph Stalin: A Hidden Life. London and Portland: Frank Cass Publishers. ISBN 978-0-7146-5050-0.
- Brackman, Roman (2004). The Secret File of Joseph Stalin: A Hidden Life. London: Frank Cass Publishers.
- Brent, Jonathan; Naumov, Vladimir (2004). Stalin's Last Crime: The Plot Against the Jewish Doctors, 1948–1953. New York: HarperCollins. ISBN 978-0-06-201367-5.
- Chang, Jon K. (8 tháng 4 năm 2019). “Ethnic Cleansing and Revisionist Russian and Soviet History”. Academic Questions. 32 (2): 270. doi:10.1007/s12129-019-09791-8. S2CID 150711796.
- Conquest, Robert (1991). Stalin: Breaker of Nations. New York and London: Penguin. ISBN 978-0-14-016953-9.
- Conquest, Robert (2008). The Great Terror: A Reassessment . Oxford and New York: Oxford University Press. ISBN 978-0-19-531699-5.
- Davies, Norman (2003) [1972]. White Eagle, Red Star: The Polish-Soviet War 1919-20 and 'the Miracle on the Vistula'. London: Pimlico. ISBN 978-0-7126-0694-3.
- Davies, Robert; Wheatcroft, Stephen (2004). The Industrialisation of Soviet Russia Volume 5: The Years of Hunger: Soviet Agriculture 1931-1933. Basingstoke and New York: Palgrave Macmillan. ISBN 978-0-230-23855-8.
- Davies, Robert; Wheatcroft, Stephen (2006). “Stalin and the Soviet Famine of 1932-33: A Reply to Ellman” (PDF). Europe-Asia Studies. 58 (4): 625–633. doi:10.1080/09668130600652217. JSTOR 20451229. S2CID 145729808. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 30 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2018.
- Deutscher, Isaac (1966). Stalin . Harmondsworth: Penguin.
- Dović, Marijan; Helgason, Jón Karl biên tập (2019). Great Immortality: Studies on European Cultural Sainthood. National Cultivation of Culture. 18. ISBN 9789004395138. Truy cập ngày 29 tháng 4 năm 2022.
- Dower, Paul Castañeda; Markevich, Andrei (tháng 5 năm 2018). “Labor Misallocation and Mass Mobilization: Russian Agriculture during the Great War” (PDF). The Review of Economics and Statistics. 100 (2): 245–259. doi:10.1162/REST_a_00726. S2CID 57571290. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 18 tháng 6 năm 2021. Truy cập ngày 11 tháng 9 năm 2020.
- Ellman, Michael (2000). “The 1947 Soviet Famine and the Entitlement Approach to Famines”. Cambridge Journal of Economics. 24 (5): 603–630. doi:10.1093/cje/24.5.603.
- Ellman, Michael (2002). “Soviet Repression Statistics: Some Comments” (PDF). Europe-Asia Studies. 54 (7): 1151–1172. doi:10.1080/0966813022000017177. S2CID 43510161. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 25 tháng 5 năm 2019. Truy cập ngày 22 tháng 9 năm 2018.
- Ellman, Michael (2005). “The Role of Leadership Perceptions and of Intent in the Soviet Famine of 1931–1934” (PDF). Europe-Asia Studies. 57 (6): 823–841. doi:10.1080/09668130500199392. S2CID 13880089. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 27 tháng 2 năm 2009. Truy cập ngày 17 tháng 1 năm 2010.
- Ellman, Michael (2007). “Stalin and the Soviet Famine of 1932–33 Revisited”. Europe-Asia Studies. 59 (4): 663–693. doi:10.1080/09668130701291899. S2CID 53655536.
- Etinger, Iakov (1995). “The Doctors' Plot: Stalin's Solution to the Jewish Question”. Trong Ro'i, Yaacov (biên tập). Jews and Jewish Life in Russia and the Soviet Union. The Cummings Center Series. Ilford: Frank Cass. tr. 103–124. ISBN 0-7146-4619-9.
- Fainsod, Jerry F.; Hough, Merle (1979). How the Soviet Union is Governed. Cambridge: Harvard University Press. ISBN 978-0-674-41030-5.
- Foltz, Richard (2021). The Ossetes: Modern-Day Scythians of the Caucasus. London: Bloomsbury. ISBN 9780755618453.
- Gaddis, John L. (2005). The Cold War: A New History. New York: Penguin Press. ISBN 978-0-14-303827-6.
- Gellately, Robert (2007). Lenin, Stalin, and Hitler: The Age of Social Catastrophe. London: Jonathan Cape. ISBN 978-0-224-06283-1.
- Getty, J. Arch; Rittersporn, Gábor; Zemskov, Viktor (1993). “Victims of the Soviet penal system in the pre-war years: a first approach on the basis of archival evidence” (PDF). American Historical Review. 98 (4): 1017–1049. doi:10.2307/2166597. JSTOR 2166597. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 6 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2018.
- Glantz, David (1983). “August Storm: The Soviet 1945 Strategic Offensive in Manchuria” (PDF). Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 9 tháng 9 năm 2017. Truy cập ngày 1 tháng 12 năm 2018.
- Glantz, David (2001). “The Soviet-German War 1941–45 Myths and Realities: A Survey Essay” (PDF). Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 9 tháng 7 năm 2011.
- Cheremukhin, Anton; Golosov, Mikhail; Guriev, Sergei; Tsyvinski, Aleh (2013). Was Stalin Necessary for Russia's Economic Development? (PDF). w19425. National Bureau of Economic Research. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 22 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 14 tháng 5 năm 2020.
- Fitzpatrick, Sheila (2015). On Stalin's Team: The Years of Living Dangerously in Soviet Politics. Carlton: Melbourne University Press. ISBN 978-1-4008-7421-7.
- Harris, James (2017). The Great Fear: Stalin's Terror of the 1930s. Oxford University Press. ISBN 978-0-19-879786-9.
- Haslam, Jonathan (1979). “The Comintern and the Origins of the Popular Front 1934–1935”. The Historical Journal. 22 (3): 673–691. doi:10.1017/s0018246x00017039. S2CID 159573290.
- Healey, Dan (1 tháng 6 năm 2018). “GOLFO ALEXOPOULOS. Illness and Inhumanity in Stalin's Gulag”. The American Historical Review. 123 (3): 1049–1051. doi:10.1093/ahr/123.3.1049. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 23 tháng 9 năm 2018.
- Himmer, Robert (1986). “On the Origin and Significance of the Name "Stalin"”. The Russian Review. 45 (3): 269–286. doi:10.2307/130111. JSTOR 130111.
- Khlevniuk, Oleg V. (2015). Stalin: New Biography of a Dictator. Nora Seligman Favorov biên dịch. New Haven and London: Yale University Press. ISBN 978-0-300-16388-9.
- Kotkin, Stephen (2014). Stalin: Paradoxes of Power, 1878–1928. London: Allen Lane. ISBN 978-0-7139-9944-0.
- Kotkin, Stephen (2017). Stalin: Waiting for Hitler, 1929–1941. London: Allen Lane. ISBN 978-0-7139-9945-7.
- Kuromiya, Hiroaki (2008). “The Soviet Famine of 1932–1933 Reconsidered”. Europe-Asia Studies. 60 (4): 663–675. doi:10.1080/09668130801999912. JSTOR 20451530. S2CID 143876370.
- Li, Hua-yu (2009). “Reactions of Chinese Citizens to the Death of Stalin: Internal Communist Party Reports”. Journal of Cold War Studies. 11 (2): 70–88. doi:10.1162/jcws.2009.11.2.70. S2CID 57561115. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 6 năm 2016. Truy cập ngày 29 tháng 4 năm 2016.
- McCauley, Martin (2003). Stalin and Stalinism . Harlow and London: Pearson. ISBN 978-0-582-50587-2.
- McDermott, Kevin (1995). “Stalin and the Comintern during the 'Third Period', 1928-33”. European History Quarterly. 25 (3): 409–429. doi:10.1177/026569149502500304. S2CID 144922280.
- McDermott, Kevin (2006). Stalin: Revolutionary in an Era of War. Basingstoke and New York: Palgrave Macmillan. ISBN 978-0-333-71122-4.
- Montefiore, Simon Sebag (2003). Stalin: The Court of the Red Tsar. London: Weidenfeld & Nicolson. ISBN 978-1-84212-726-1.
- Montefiore, Simon Sebag (2007). Young Stalin. London: Weidenfeld & Nicolson. ISBN 978-0-297-85068-7.
- Moore, Rebekah (2012). “'A Crime Against Humanity Arguably Without Parallel in European History': Genocide and the "Politics" of Victimhood in Western Narratives of the Ukrainian Holodomor”. Australian Journal of Politics & History. 58 (3): 367–379. doi:10.1111/j.1467-8497.2012.01641.x.
- Nekrich, Alexander (1997). Pariahs, Partners, Predators: German-Soviet Relations, 1922–1941. New York: Columbia University Press. ISBN 0231106769.
- Ra'anan, Uri biên tập (2006). Flawed Succession: Russia's Power Transfer Crises. Oxford: Lexington Books. ISBN 978-0-7391-1403-2. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 18 tháng 10 năm 2020.
- Overy, Richard J. (2004). The Dictators: Hitler's Germany and Stalin's Russia. London: Allen Lane. ISBN 978-0-393-02030-4.
- Pinkus, Benjamin (1984). The Soviet Government and the Jews 1948–1967: A Documented Study. Cambridge: Cambridge University Press. ISBN 978-0-521-24713-9.
- Rappaport, Helen (1999). Joseph Stalin: A Biographical Companion. Santa Barbara: ABC-Clio. ISBN 978-1-57607-084-0.
- Rieber, Alfred J. (2005). “Stalin as Georgian: The Formative Years”. Trong Sarah Davies; James Harris (biên tập). Stalin: A New History. Cambridge: Cambridge University Press. tr. 18–44. ISBN 978-1-139-44663-1.
- Roberts, Geoffrey (1992). “The Soviet Decision for a Pact with Nazi Germany”. Soviet Studies. 55 (2): 57–78. doi:10.1080/09668139208411994. JSTOR 152247.
- Roberts, Geoffrey (2002). “Stalin, the Pact with Nazi Germany, and the Origins of Postwar Soviet Diplomatic Historiography”. Journal of Cold War Studies. 4 (4): 93–103. doi:10.1162/15203970260209527. S2CID 57563511. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 6 năm 2021. Truy cập ngày 4 tháng 2 năm 2020.
- Roberts, Geoffrey (2006). Stalin's Wars: From World War to Cold War, 1939–1953. New Haven: Yale University Press. ISBN 978-0-300-15040-7.
- Roberts, Geoffrey (2022). Stalin's Library: A Dictator and His Books. Yale University Press. ISBN 978-0-300-17904-0.
- Rosefielde, Steven (tháng 9 năm 1996). “Stalinism in Post-Communist Perspective: New Evidence on Killings, Forced Labour and Economic Growth in the 1930s”. Europe-Asia Studies. 48 (6): 959–987. doi:10.1080/09668139608412393.
- Sandle, Mark (1999). A Short History of Soviet Socialism. London: UCL Press. doi:10.4324/9780203500279. ISBN 978-1-85728-355-6.
- Semeraro, David A. S. (2017). Joseph Stalin. United Kingdom: Pen & Sword Books. ISBN 9781526702050.
- Service, Robert (2000). Lenin: A Biography. London: Macmillan. ISBN 978-0-333-72625-9.
- Service, Robert (2004). Stalin: A Biography. London: Macmillan. ISBN 978-0-333-72627-3.
- Snyder, Timothy (2010). Bloodlands: Europe between Hitler and Stalin. New York: Vintage Books. ISBN 978-1-4070-7550-1.
- Suny, R. G. (2020). Stalin: Passage to Revolution. Princeton, NJ: Princeton University Press. excerpt Lưu trữ 19 tháng 11 2020 tại Wayback Machine
- Trotsky, Leon (2019) [1940]. Alan Woods (biên tập). Stalin: An Appraisal of the Man and His Influence. Alan Woods biên dịch. Chicago: Haymarket Books. ISBN 978-1608467716. OCLC 1108654403.
- Volkogonov, Dimitri (1991). Stalin: Triumph and Tragedy. Harold Shukman biên dịch. London: Weidenfeld and Nicolson. ISBN 978-0-297-81080-3.
- Wettig, Gerhard (2008). Stalin and the Cold War in Europe. Lanham: Rowman & Littlefield. ISBN 978-0-7425-5542-6.
- Wheatcroft, Stephen (1996). “The Scale and Nature of German and Soviet Repression and Mass Killings, 1930–45” (PDF). Europe-Asia Studies. 48 (8): 1319–1353. doi:10.1080/09668139608412415. JSTOR 152781. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 17 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2006.
- Wheatcroft, Stephen (1999). “The Great Leap Upwards: Anthropometric Data and Indicators of Crises and Secular Change in Soviet Welfare Levels, 1880–1960”. Slavic Review. 58 (1): 27–60. doi:10.2307/2672986. JSTOR 2672986. PMID 22368819. S2CID 43228133.
Tạp chí, báo chí và trang web
- “Joseph Stalin: An Address Given by the Rev. Stanley Evans, M.A., at a Memorial Service for Joseph Stalin at the Church of St. George, Queen Square, London, on March 13th, 1953”.
• “[online]”. London: Society of Socialist Clergy and Ministers. 1953 – qua anglicanhistory.org, transcribed by Richard Mammana 2019.
• “[online]”. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 11 năm 2022. Truy cập ngày 21 tháng 11 năm 2022. - Achmatova, Nina (22 tháng 10 năm 2010). “Controversy in Moscow: Stalin icon revered”. AsiaNews. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2022.
- Bakradze, Lasha; Gudjov, Lev; Lipman, Maria; Wall, Thomas (1 tháng 3 năm 2013). “The Stalin Puzzle: Deciphering Post-Soviet Public Opinion”. Carnegie Endowment for International Peace. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 4 năm 2017. Truy cập ngày 2 tháng 4 năm 2017.
- Bell, Bethany (5 tháng 3 năm 2013). “Georgia Divided Over Stalin 'Local Hero' Status in Gori”. BBC. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2018.
- Bolton, Kerry R. (5 tháng 2 năm 2017). “"Saint Joseph": Was Stalin a Defender of the Church?”. Inconvenient History. 9 (1) – qua codoh.com.
- Coynash, Halya (22 tháng 6 năm 2021). “Russians name Stalin as the most 'outstanding' figure of all times”. Kharkiv Human Rights Protection Group. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 6 năm 2021.
- Gabuev, Azamat (10 tháng 12 năm 2021). “Stalin as a Neo-Pagan Deity in Contemporary Russia”. jsis.washington.edu. Seattle, WA: University of Washington.
- Lentine, Gina (15 tháng 1 năm 2022). “Moscow's Memory Wars: Putin seeks to whitewash Russia's Stalinist past”. Atlantic Council. Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2022.
- Lewis, Paul (23 tháng 7 năm 2008). “Josef Stalin: communist, murderer - saint?”. The Guardian. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2022.
- Luhn, Alec (16 tháng 4 năm 2019). “Record 70 Percent of Russians Say Stalin Played a Positive Role in Their Country's History”. The Daily Telegraph. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 23 tháng 11 năm 2020.
- Masci, David (29 tháng 6 năm 2017). “In Russia, Nostalgia for USSR and Positive Feelings about Stalin”. Pew Research Center. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 23 tháng 11 năm 2020.
- Montefiore, Simon Sebag (6 tháng 9 năm 2007). “Stalin, his father and the Rabbit”. The New Statesman.
- Nemtsova, Anna (17 tháng 5 năm 2021). “'The best master': Russia's new Stalin Center evokes pride, revulsion”. NBC News. Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2022.
- “Poll Finds Stalin's Popularity High”. The Moscow Times. 2 tháng 3 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 3 năm 2017. Truy cập ngày 20 tháng 3 năm 2017.
- Roth, Andrew (27 tháng 4 năm 2020). “Giant new Russian cathedral glorifies Putin and Stalin in mosaics”. The Guardian.
- Rutland, Peter (13 tháng 6 năm 2019). “Perspective – Putin's dangerous campaign to rehabilitate Stalin”. Washington Post. Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2022.
- “Siberian Pensioner Is Grandson of Josef Stalin, DNA Test Reveals”. The Siberian Times. 6 tháng 4 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 4 tháng 1 năm 2021.
- “Stalin's Approval Rating Among Russians Hits Record High – Poll”. The Moscow Times. 16 tháng 4 năm 2019.
- Snyder, Timothy D. (26 tháng 5 năm 2010). “Springtime for Stalin”. The New York Review of Books. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 4 tháng 1 năm 2021.
- Snyder, Timothy D. (27 tháng 1 năm 2011). “Hitler vs. Stalin: Who Was Worse?”. The New York Review of Books.
- Taylor, Adam (15 tháng 2 năm 2017). “Positive Views of Stalin among Russian Reach 16-year High, Poll Shows”. The Washington Post. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 3 năm 2017. Truy cập ngày 30 tháng 4 năm 2017.
- “Wall of Grief: Putin Opens First Soviet Victims Memorial”. BBC. 5 tháng 6 năm 2018. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 6 năm 2018. Truy cập ngày 30 tháng 10 năm 2017.
- “Why So Many Russian like Dictator Stalin”. BBC News. 18 tháng 4 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 7 năm 2019. Truy cập ngày 11 tháng 6 năm 2019.
- Yegorov, Oleg (15 tháng 12 năm 2017). “Why did the USSR help to create Israel, but then became its foe”. Russia Beyond. Truy cập ngày 5 tháng 2 năm 2022.
- “Do Stalina pozytyvno stavlyatʹsya menshe 1/5 ukrayintsiv” До Сталіна позитивно ставляться менше 1/5 українців [Less Than 1/5 of Ukrainians Have a Positive Attitude Towards Stalin]. Ukrayinska Pravda (bằng tiếng Ukraina). 4 tháng 3 năm 2015. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 5 tháng 3 năm 2016.
- “О присвоении Верховному Главнокомандующему вооруженными силами СССР Сталину И. В. военного звания Маршала Советского Союза” [On the assignment of the military rank of Marshal of the Soviet Union to the Supreme Commander of the Armed Forces of the USSR Stalin I.V.] (PDF). Ведомости Верховного Совета СССР [Journal of the Supreme Soviet of the USSR] (bằng tiếng Nga). 13 tháng 3 năm 1943. Truy cập ngày 21 tháng 11 năm 2021.
Đọc thêm
- Applebaum, Anne (2003). Gulag: A History. Doubleday. ISBN 978-0-7679-0056-0.
- Bideleux, Robert; Jeffries, Ian (1998). A History of Eastern Europe: Crisis and Change. Routledge. ISBN 978-0-203-05024-8.
- Boobbyer, Phillip (2000). The Stalin Era. Routledge. ISBN 978-0-7679-0056-0.
- Conquest, Robert (1997). “Victims of Stalinism: A Comment” (PDF). Europe-Asia Studies. 49 (7): 1317–1319. doi:10.1080/09668139708412501.
- Davies, Sarah (1997). Popular Opinion in Stalin's Russia: Terror, Propaganda and Dissent, 1934–1941. Cambridge: Cambridge University Press. ISBN 978-0-52-156676-6.
- Davies, Sarah; Harris, James biên tập (2005). Stalin: A New History. Cambridge: Cambridge University Press. ISBN 978-1-13-944663-1.
- Davies, Sarah; Harris, James biên tập (2014). Stalin's World: Dictating the Soviet Order. New Haven: Yale University Press. ISBN 978-0-30-018281-1.
- Edmonds, Robin (1992). The Big Three: Churchill, Roosevelt, and Stalin in Peace and War . London: Penguin. ISBN 978-0-14-010402-8.
- Feis, Herbert (1957). Churchill-Roosevelt-Stalin: The War They Waged and the Peace They Sought. Princeton, N.J., Princeton University Press.
- Fitzpatrick, Sheila (1996). Stalin's Peasants: Resistance and Survival in the Russian Village After Collectivization. Oxford: Oxford University Press. ISBN 978-0-19-510459-2.
- Fitzpatrick, Sheila (2000). Everyday Stalinism: Ordinary Life in Extraordinary Times: Soviet Russia in the 1930s. Oxford: Oxford University Press. ISBN 978-0-19-505001-1.
- Getty, J. Arch (1987). Origins of the Great Purges: The Soviet Communist Party Reconsidered, 1933–1938. Cambridge: Cambridge University Press. ISBN 978-0-52-133570-6.
- Getty, J. Arch (1993). Stalinist Terror: New Perspectives. Cambridge: Cambridge University Press. ISBN 978-0-52-144670-9.
- Getty, J. Arch (2013). Practicing Stalinism: Bolsheviks, Boyars, and the Persistence of Tradition. New Haven: Yale University Press. ISBN 978-0-30-016929-4.
- Ghodsee, Kristen (2014). “A Tale of "Two Totalitarianisms": The Crisis of Capitalism and the Historical Memory of Communism” (PDF). History of the Present. 4 (2): 115–142. doi:10.5406/historypresent.4.2.0115. JSTOR 10.5406/historypresent.4.2.0115. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 5 tháng 2 năm 2018. Truy cập ngày 22 tháng 9 năm 2018.
- Hasegawa, Tsuyoshi (2005). Racing the Enemy: Stalin, Truman, and the Surrender of Japan. ISBN 978-0674016934.
- Khlevniuk, Oleg V. (2009). Master of the House: Stalin and His Inner Circle. Seligman Favorov, Nora biên dịch. New Haven, Connecticut: Yale University Press. ISBN 978-0-300-11066-1.
- Kun, Miklós (2003). Stalin: An Unknown Portrait. Bodóczky, Miklós; Hideg, Rachel; Higed, János; Vörös, Miklós biên dịch. Budapest: Central European University Press. ISBN 963-9241-19-9.
- Kuromiya, Hiroaki (2005). Stalin: Profiles in Power. New York.
- Kuromiya, Hiroaki (2007). “Stalin and His Era”. The Historical Journal. Cambridge University Press. 50 (3): 711–24. doi:10.1017/s0018246x07006322. JSTOR 20175118. S2CID 159853667.
- Leffler, Melvyn P. (2007). For the Soul of Mankind: The United States, the Soviet Union, and the Cold War. New York: Macmillan. ISBN 978-1-4299-6409-8.
- Lourie, Richard (2000). The Autobiography of Joseph Stalin: A Novel. Da Capo Press. ISBN 978-0306809972.
- Murphy, David E. (2006). What Stalin Knew: The Enigma of Barbarossa. Yale University Press. ISBN 978-0-300-11981-7.
- Naimark, Norman M. (2008). “Stalin and the Question of Soviet Genocide”. Trong Hollander, Paul (biên tập). Political Violence: Belief, Behavior, and Legitimation. London: Palgrave Macmillan. tr. 39–48. ISBN 978-0-230-60646-3.
- Nekrich, Aleksandr Moiseevich; Ulam, Adam Bruno; Freeze, Gregory L. (1997). Pariahs, Partners, Predators: German-Soviet Relations, 1922–1941. Columbia University Press. ISBN 978-0-231-10676-4.
- Ostrovsky, Aleksander (2002). Кто стоял за спиной Сталина? [Who stood behind Stalin's back?]. Moscow: Neva, Olma Media Group. ISBN 978-5-7654-1771-3.
- Plamper, Jan (2012). The Stalin Cult: A Study in the Alchemy of Power. New Haven.
- Radzinsky, Edvard (1997). Stalin: The First In-Depth Biography Based on Explosive New Documents from Russia's Secret Archive. New York.
- Rayfield, Donald (2005). Stalin and His Hangmen: The Tyrant and Those Who Killed For Him. New York: Penguin. ISBN 978-0-14-191419-0.
- Rieber, A. J. (2001). “Stalin, Man of the Borderlands”. American Historical Review. 106 (4): 1651–1691. doi:10.2307/2692742. JSTOR 2692742.
- Roberts, Geoffrey (2007). “Stalin at the Tehran, Yalta, and Potsdam conferences”. Journal of Cold War Studies. 9 (4): 6–40. doi:10.1162/jcws.2007.9.4.6. S2CID 57564917.
- Stalin's Correspondence With Churchill Attlee Roosevelt And Truman 1941–45. E. P. Dutton & Co. 1958.
- Tauger, Mark B. (2001). “Natural Disaster and Human Actions in the Soviet Famine of 1931–1933”. The Carl Beck Papers in Russian and East European Studies (1506): 1–65. doi:10.5195/CBP.2001.89. ISSN 2163-839X. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 6 năm 2017. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2017.
- Thurston, Robert W. (1998). Life and Terror in Stalin's Russia, 1934–1941. Yale University Press. ISBN 978-0-300-07442-0.
- Torchinov, V.A.; Leontyuk, A.M. (2000). Around Stalin. An historical and biographical reference. St Petersburg: Philological Faculty Saint-Petersburg University. ISBN 978-5-846-50005-1.
- Tucker, Robert C. (1973). Stalin as Revolutionary: 1879–1929: A Study in History and Personality. New York: Norton. ISBN 978-0393054873.
- Tucker, Robert C. (1990). Stalin in Power: The Revolution from Above, 1928–1941. New York.
- Ulam, Adam B. (1973). Stalin: The Man and His Era. New York: Viking Press. ISBN 978-0670666836.
- Uldricks, Teddy J. (2009). “War, Politics and Memory: Russian Historians Reevaluate the Origins of World War II”. History and Memory. 21 (2): 60–82. doi:10.2979/his.2009.21.2.60. S2CID 153650494.
- van Ree, Erik (2002). The Political Thought of Joseph Stalin: A Study in Twentieth-Century Revolutionary Patriotism. London and New York: Routledge. ISBN 978-0415406260.
- Weinberg, Gerhard L. (1994). A World at Arms: A Global History of World War II. ISBN 978-0521443173.
- Wheatcroft, Stephen G. (1999). “Victims of Stalinism and the Soviet Secret Police: The Comparability and Reliability of the Archival Data. Not the Last Word” (PDF). Europe-Asia Studies. 51 (2): 340–342. doi:10.1080/09668139999056.
- Wheeler-Bennett, John W. (1946). “Twenty Years of Russo-German Relations: 1919–1939”. Foreign Affairs. 25 (1): 23–43. doi:10.2307/20030017. JSTOR 20030017.
- Tạp chí, báo chí và trang web
- Lisova, Natasha (28 tháng 11 năm 2006). “Ukraine Recognize Famine As Genocide”. Associated Press. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 8 năm 2007. Truy cập ngày 4 tháng 8 năm 2007 – qua Ukemonde.
- Parfitt, Tom (29 tháng 12 năm 2008). “Greatest Russian Poll”. The Guardian. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 2 tháng 6 năm 2015.
- Pisch, Anita (tháng 12 năm 2016). “The Personality Cult of Stalin in Soviet Posters, 1929–1953”. Australian National University. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 11 tháng 12 năm 2020.
Liên kết ngoài
![]() |
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Iosif Vissarionovich Stalin. |
- Nguyên soái Liên Xô
- Sinh năm 1878
- Mất năm 1953
- Stalin
- Lãnh tụ Liên Xô
- Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô
- Người Gruzia
- Độc tài
- Nhân vật trong Thế chiến thứ hai
- Lãnh tụ Cộng sản
- Nhà lý luận Mác-xít
- Tử vong do đột quỵ
- Tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô
- Anh hùng lao động xã hội chủ nghĩa
- Anh hùng Liên Xô
- Bộ trưởng Quốc phòng Liên Xô