Mikhail Sergeyevich Gorbachyov

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Mikhail Sergeyevich Gorbachyov
Михаи́л Серге́евич Горбачёв
Chân dung Gorbachev năm 1987
Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô
Nhiệm kỳ
11 tháng 3 năm 1985 – 24 tháng 8 năm 1991[a]
Thủ tướng
Cấp phóVladimir Ivashko
Tiền nhiệmKonstantin Chernenko
Kế nhiệmVladimir Ivashko (thay quyền)
Tổng thống Liên Xô
Nhiệm kỳ
15 tháng 3 năm 1990 – 25 tháng 12 năm 1991[b]
Phó Tổng thốngGennady Yanayev[c]
Tiền nhiệmMới lập
Kế nhiệmBãi bỏ[d]
Chủ tịch Xô viết Tối cao của Liên Xô
Nhiệm kỳ
25 tháng 5 năm 1989 – 15 tháng 3 năm 1990
Cấp phóAnatoly Lukyanov
Tiền nhiệmBản thân
Chủ tịch của Đoàn Chủ tịch Xô viết Tối cao của Liên Xô
Nhiệm kỳ
1 tháng 10 năm 1988 – 25 tháng 5 năm 1989
Tiền nhiệmAndrei Gromyko
Kế nhiệmBản thân
Đồng chủ tịch Liên hiệp Dân chủ Xã hội
Nhiệm kỳ
11 tháng 3 năm 2000[e] – 15 tháng 11 năm 2017
Tiền nhiệmThành lập
Kế nhiệmGiải tán
Quyền chủ tịch thứ hai của Đảng Cộng sản Liên Xô
Nhiệm kỳ
9 tháng 2 năm 1984 – 10 tháng 3 năm 1985
Tiền nhiệmKonstantin Chernenko
Kế nhiệmYegor Ligachyov
Thông tin cá nhân
Sinh(1931-03-02)2 tháng 3 năm 1931
Privolnoye, Nga Xô, Liên Xô
(nay là Privolnoye, Stavropol Krai, Nga)
Mất30 tháng 8 năm 2022(2022-08-30) (91 tuổi)
Moskva, Nga
Nơi an nghỉNghĩa trang Novodevichy, Moskva
Đảng chính trị
Phối ngẫu
Raisa Titarenko
(cưới 1953⁠–⁠1999)
Con cái1
Alma materĐại học Quốc gia Moskva (LLB)
Tặng thưởngGiải Nobel Hòa bình (1990)
Chữ ký
WebsiteTrang web chính thức

Lãnh tụ Liên Xô

Mikhail Sergeyevich Gorbachyov (tiếng Nga: Михаил Сергеевич Горбачёв; Phát âm tiếng Nga: [mʲɪxɐˈil sʲɪrˈɡʲejɪvʲɪdʑ ɡərbɐˈtɕɵf]; phiên âm tiếng Việt: Goóc-ba-chốp; phiên âm tiếng Anh: Gorbachev; 2 tháng 3 năm 1931 – 30 tháng 8 năm 2022) là một chính khách Xô-viết người Nga và là nhà lãnh đạo thứ tám của Liên Xô từ năm 1985 cho đến khi quốc gia này sụp đổ vào năm 1991. Ông nhậm chức Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô từ năm 1985, đảm nhận cương vị nguyên thủ quốc gia vào năm 1988, đảm chức Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Xô viết Tối cao Liên Xô giai đoạn 1988-1989, Chủ tịch Xô viết Tối cao giai đoạn 1989-1990 và cương vị Tổng thống Liên Xô giai đoạn 1990-1991. Về ý thức hệ, Gorbachyov ban đầu kiên định chủ nghĩa Marx-Lenin song sau ngả theo tư tưởng dân chủ xã hội hồi đầu thập niên 90.

Gorbachyov chào đời tại Privolnoye, Nga Xô viết, trong một gia đình bần cố nông có gốc gác Nga-Ukraina. Lớn lên dưới thời đại Iosif Stalin, ông hồi trẻ từng vận hành các máy gặt đập liên hợp ở những nông trang tập thể trước khi gia nhập Đảng Cộng sản, chính đảng duy nhất tại Liên Xô lúc bấy giờ. Học tập tại Đại học Quốc gia Moskva, ông kết hôn với người đồng môn Raisa Titarenko vào năm 1953 và nhận văn bằng luật vào năm 1955. Chuyển tới sinh sống ở Stavropol, ông làm việc cho tổ chức thanh thiếu niên Komsomol. Sau khi Stalin qua đời, Gorbachyov ủng hộ các đề xuất cải cách phi Stalin hóa của nhà lãnh đạo Nikita Khrushchev. Năm 1970, ông được bổ nhiệm chức Chủ tịch Đảng thứ nhất của Khu ủy Stavropol, chịu trách nhiệm giám sát dự án kênh đào Stavropol. Năm 1978, ông về Moskva và nhậm chức Bí thư Ủy ban chấp hành Trung ương Đảng. Năm 1979, ông trở thành ủy viên Bộ Chính trị. Ba năm sau khi Leonid Brezhnev qua đời — theo sau các nhiệm kỳ gian đoạn của Yuri AndropovKonstantin Chernenko — vào năm 1985, Bộ Chính trị đề cử cho Gorbachyov giữ chức Tổng Bí thư.

Tuy đã cam kết bảo tồn nhà nước Xô viết và tư tưởng Marx-Lenin, Gorbachyov tin rằng điều cấp thiết bấy giờ là một đợt cải cách triệt để. Ông cho rút quân khỏi Afghanistan, tham dự các hội nghị thượng đình với Tổng thống Hoa Kỳ Ronald Reagan nhằm xoa dịu nguy cơ chiến tranh hạt nhân và hướng đến kết thúc Chiến tranh Lạnh. Về đối nội, chính sách glasnost của ông đã mở rộng đáng kể quyền tự do ngôn luậntự do báo chí, còn chính sách perestroika đi đôi đã phi tập trung hóa ít nhiều nền kinh tế để nó có thể hoạt động trơn tru hơn. Các biện pháp dân chủ hóa của Gorbachyov và sự hình thành của Đại hội Đại biểu Nhân dân Liên Xô ảnh hưởng xấu đến chế độ độc đảng của Liên Xô. Gorbachyov từ chối can thiệp quân sự vào các nước Khối Đông định từ bỏ chủ nghĩa Marx-Lenin trong giai đoạn 1989–1992. Ở nước nhà, sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc đã đe dọa trực tiếp đến sự tồn vong của Liên Xô; điều đã khiến phái kiên định chủ nghĩa Marx–Lenin liều lĩnh thực hiện cuộc đảo chính chống Gorbachyov vào năm 1991. Với cuộc chính biến bất thành ấy, Liên Xô rốt cuộc tan rã trái với nguyện vọng của Gorbachyov. Sau thời gian đó, ông thành lập Quỹ Gorbachyov, rồi trở thành nhân vật bất đồng chính kiến chỉ trích hai tổng thống Nga Boris YeltsinVladimir Putin, đồng thời vận động phong trào dân chủ xã hội ở Nga.

Đầu đời và giáo dục[sửa | sửa mã nguồn]

Thời thơ ấu: 1931–1950[sửa | sửa mã nguồn]

Gorbachev chào đời ngày 2 tháng 3 năm 1931 tại làng Privolnoye, hồi ấy thuộc vùng Krai Bắc Kavkaz, Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Liên bang Nga, Liên Xô.[1] Hai sắc tộc lớn nhất ở vùng Privolnoye lúc bấy giờ là người Ngangười Ukraina.[2] Phía nội của Gorbachev mang dòng máu Nga, di cư tới đây từ vùng Voronezh mấy thế hệ trước; phía ngoại của ông mang dòng máu Ukraina, di cư tới đây từ vùng Chernihiv.[3] Ông được đặt tên là Viktor lúc mới sinh, song theo mong muốn của mẹ — một tín đồ Chính thống ngoan đạo — Gorbachev được rửa tội bí mật, rồi sau đó được ban cho cái tên Kitô là Mikhail.[4] Ông có quan hệ rất gần gũi với thân phụ Sergey Andreyevich Gorbachev; tuy nhiên lại rất lạnh lẽo và xa cách thân mẫu Maria Panteleyevna Gorbacheva (nhũ danh Gopkalo).[5] Cha mẹ Gorbachev sinh thành trong gia đình bần nông nghèo túng.[6] Hai người họ kết hôn vào năm 1928 khi còn là thanh niên.[7] Theo phong tục địa phương, ban đầu họ chung sống trong căn nhà tranh đắp vách gạch sống bên nội của Sergey, rồi về sau chuyển ra ở riêng.[8]

Gorbachev và ông bà ngoại người Ukraina, chụp vào cuối thập niên 30

Đại học: 1950–1955[sửa | sửa mã nguồn]

Tôi sẽ lấy làm vinh dự lớn khi được trở thành ủy viên của Đảng Cộng sản Bolshevik chân chất cách mạng, cực kỳ tân tiến. Tôi cam đoan sẽ kiên trung với đại nghiệp của Lenin và Stalin, hiến dâng đời mình cho cuộc đấu tranh vì chủ nghĩa Cộng sản của Đảng.

— Thư Gorbachev gửi Đảng Cộng sản vào năm 1950, tạm dịch theo Taubman (2017:42)

Tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô[sửa | sửa mã nguồn]

Gorbachev đối thoại trực tiếp với Tổng thống Hoa Kỳ Ronald Reagan

Ngay khi Chernenko qua đời, Mikhail Sergeyevich Gorbachev, khi ấy 54 tuổi, được bầu làm Tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô ngày 11 tháng 3 năm 1985. Ông trở thành lãnh tụ đầu tiên của đảng sinh ra sau cuộc Cách mạng Nga năm 1917.

Trên thực tế là người nắm quyền lãnh đạo Liên bang Xô viết, ông đã tìm cách cải cách tình trạng trì trệ của Đảng Cộng sản cũng như của nền kinh tế bằng cách đưa ra các mô hình glasnost ("mở cửa"), perestroika ("cải tổ") và uskoreniye ("tăng tốc", phát triển kinh tế), những chương trình này bắt đầu được đưa ra tại Đại hội lần thứ XXVII Đảng Cộng sản Liên Xô tháng 2 năm 1986.

Cải cách trong nước[sửa | sửa mã nguồn]

Trong nước, Gorbachev áp dụng các cải cách kinh tế mà ông hy vọng qua đó cải thiện đời sống nhân dân, năng suất sản xuất của công nhân qua chương trình perestroika của ông. Tuy nhiên, nhiều biện pháp cải cách của ông bị những thành viên lãnh đạo Đảng Cộng sản bên trong Chính phủ Xô viết vào thời điểm ấy coi là quá nóng vội và cực đoan. Ông muốn thay đổi vì mong ước có thể làm cho Liên Xô phát triển tốt hơn, nhưng rốt cục thì những biện pháp của ông lại làm cho tình hình xấu đi.

Năm 1985, Gorbachev thông báo rằng kinh tế Xô viết đang bị sa lầy và rằng việc tái tổ chức là cần thiết. Ban đầu, các cải cách của ông được gọi là "uskoreniye" (tăng tốc) nhưng sau này thuật ngữ "perestroika" (cải tổ) trở nên phổ biến hơn.

Gorbachev không phải được tự do hành động. Dù kỷ nguyên Brezhnev thường được coi là một thời kỳ đình trệ kinh tế, một số thử nghiệm kinh tế (đặc biệt trong việc tổ chức các doanh nghiệp, và liên doanh với phương Tây) cũng đã diễn ra. Một số ý tưởng của những nhà cải cách bị các giám đốc doanh nghiệp có tư tưởng kỹ trị, không đồng tình, họ thường sử dụng các cơ sở của Liên đoàn Cộng sản trẻ làm nơi bàn bạc. Cái gọi là "Thế hệ Komsomol" là những người dễ tiếp thu tư tưởng của Gorbachev nhất, họ cũng là những người hình thành nên thế hệ nhà kinh doanh, nhà chính trị thời hậu Xô viết, đặc biệt tại Các nước vùng Baltic.

Cải cách đầu tiên được đưa ra thời Gorbachev là cải cách rượu năm 1985, có mục đích ngăn chặn chứng nghiện rượu đang ngày càng phát triển ở Liên bang Xô viết. Giá các loại vodka, rượubia tăng lên, và việc mua bán chúng cũng bị ngăn cấm. Những ai uống rượu tại nơi làm việc cũng như nơi công cộng sẽ bị truy tố. Uống rượu bia trên tàu tốc hành cũng bị cấm. Nhiều nhà máy rượu vang nổi tiếng bị đóng cửa. Những cảnh uống rượu bị cắt khỏi các bộ phim. Cuộc cải cách không mang lại một hiệu quả rõ rệt nào đối với chứng nghiện rượu trong nước, nhưng về mặt kinh tế, nó là một cú đánh mạnh vào ngân khố quốc gia (theo Alexander Nikolaevich Yakovlev con số thiệt hại khoảng 100 tỷ rúp) vì việc sản xuất rượu đã được chuyển sang cho nền kinh tế chợ đen. Cải cách rượu là một trong những hành động đầu tiên kéo theo một chuỗi sự kiện chỉ chấm dứt cùng với sự chấm dứt của Liên bang Xô viết và sự khủng hoảng kinh tế sâu sắc bên trong CIS mới được thành lập sáu năm sau đó.[cần dẫn nguồn]

Luật Hợp tác xã được ban hành tháng 5 năm 1988 có lẽ là cải cách cấp tiến nhất trong số những cải cách kinh tế thời đầu kỷ nguyên Gorbachev. Lần đầu tiên kể từ thời Chính sách kinh tế mới của Vladimir Ilyich Lenin, luật cho phép người dân sở hữu các doanh nghiệp tư nhân trong lĩnh vực dịch vụ, sản xuất và thương mại với nước ngoài. Ban đầu luật áp dụng mức thuế cao và hạn chế doanh nghiệp sử dụng nhân công, nhưng sau này nó đã được sửa đổi nhằm tránh cản trở hoạt động của lĩnh vực tư nhân. Nhờ điều luật này, các nhà hàng, cửa hiệu, các nhà máy sản xuất đã phát triển trở thành một thành phần trong xã hội Xô viết. Cần lưu ý rằng một số nước cộng hòa thuộc liên bang không cần quan tâm tới các quy định hạn chế của luật. Ví dụ, tại Estonia, các hợp tác xã được phép cung cấp hàng hóa cho người nước ngoài và được phép quan hệ làm ăn với các công ty nước ngoài.

Các tổ chức công nghiệp rộng lớn trên "Toàn Liên bang" bắt đầu được tái cơ cấu. Ví dụ, Aeroflot được chia thành một số doanh nghiệp độc lập, một số doanh nghiệp đó trở thành hạt nhân hình thành các công ty hàng không tương lai. Các doanh nghiệp tự chủ mới xuất hiện đó được khuyến khích tìm kiếm đầu tư nước ngoài để tái cơ cấu.

Việc Gorbachev đưa ra chương trình mở cửa khiến người dân có nhiều quyền tự do hơn, như tự do ngôn luận. Đây là một thay đổi căn bản, bởi vị việc giám sát ngôn luận và đàn áp những kẻ chỉ trích chính phủ trước kia là một chính sách căn bản của hệ thống Xô viết. Báo chí ít bị kiểm soát hơn, và hàng ngàn tù nhân chính trị cũng như những nhân vật bất đồng được trả tự do. Mục đích của Gorbachev khi thực hiện chương trình mở cửa là muốn gây áp lực tới những thành viên bảo thủ bên trong Đảng Cộng sản Liên Xô, những người phản đối các chính sách tái cơ cấu kinh tế của ông, và ông cũng hy vọng rằng thông qua những biện pháp tự do hoá, các cuộc tranh luận, người dân Xô viết sẽ ủng hộ các sáng kiến cải cách của ông.

Tháng 1 năm 1987, Gorbachev kêu gọi dân chủ hoá: đưa ra các yếu tố dân chủ như các cuộc bầu cử nhiều ứng cử viên bên trong hệ thống chính trị Xô viết. Tháng 6 năm 1988, tại Hội nghị lần thứ XXVII của Đảng, Gorbachev đưa ra các cải cách căn bản nhằm giảm sự kiểm soát của Đảng đối với các cơ quan Chính phủ. Tháng 12 năm 1988, Xô viết Tối cao đồng ý thành lập Đại hội các đại biểu do nhân dân ủy quyền, với những thay đổi hiến pháp để biến tổ chức này trở thành một cơ quan lập pháp. Các cuộc bầu cử Đại hội được tổ chức trên toàn Liên bang Xô viết trong tháng 3 và tháng 4 năm 1989. Ngày 15 tháng 3 năm 1990, Gorbachev được bầu làm Tổng thống đầu tiên của Liên bang Xô viết.

Truyền bá Tư tưởng mới[sửa | sửa mã nguồn]

Trên trường quốc tế, Gorbachev tìm cách cải thiện các quan hệ và thương mại với phương Tây. Ông thiết lập những mối quan hệ thân thiết với nhiều nhà lãnh đạo phương Tây, như Thủ tướng Đức Helmut Kohl, Tổng thống Hoa Kỳ Ronald ReaganGeorge H. W. Bush, và Thủ tướng Anh Margaret Thatcher - người đã đưa ra câu nói nổi tiếng: "Tôi thích ông Gorbachev - chúng tôi có thể làm việc với nhau."[9]

Ngày 11 tháng 10 năm 1986, Gorbachev và Reagan gặp gỡ tại Reykjavík, Iceland đàm phán về việc giảm trừ vũ khí hạt nhân tầm trung ở Châu Âu. Trước sự ngạc nhiên khôn xiết của phái đoàn hai bên, hai người đã đồng ý trên nguyên tắc việc dỡ bỏ các hệ thống vũ khí hạt nhân tầm trung khỏi châu Âu và cân bằng các giới hạn toàn cầu ở mức 100 đầu đạn vũ khí hạt nhân tầm trung. Thỏa thuận này được cụ thể hóa bằng việc ký kết Hiệp ước các lực lượng hạt nhân tầm trung (INF) năm 1987.

Tháng 2 năm 1988, Gorbachev thông báo việc rút các lực lượng Xô viết ra khỏi Afghanistan. Việc rút quân hoàn thành năm sau đó, dù cuộc nội chiến vẫn tiếp diễn khi quân Mujahedin lật đổ chính quyền Najibullah thân Xô viết. Ước tính 15.000 lính Xô viết đã thiệt mạng trong khoảng thời gian từ 1979 tới 1989 trong cuộc xung đột này. (Xem Chiến tranh Xô viết tại Afghanistan)

Cũng trong năm 1988, Gorbachev thông báo rằng Liên bang Xô viết sẽ từ bỏ Học thuyết Brezhnev, và cho phép các quốc gia khối Đông Âu tự quyết các vấn đề bên trong của mình. Được người phát ngôn Bộ Ngoại giao chính quyền Gorbachev, Gennadi Gerasimov, gọi đùa là "Học thuyết Sinatra", chính sách không can thiệp vào công việc nội bộ của các nước thuộc khối Warszawa cho thấy những cải cách trọng yếu nhất trong chính sách đối ngoại của Gorbachev. Việc Moskva từ bỏ Học thuyết Brezhnev dẫn tới một làn sóng cách mạng tại Đông Âu trong suốt năm 1989, dẫn tới sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản. Trừ Romania, các cuộc cách mạng chống lại các chính quyền thân Xô viết đều diễn ra trong hòa bình. (Xem Các cuộc cách mạng năm 1989)

Việc Xô viết nới lỏng kiểm soát Đông Âu đã hoàn toàn chấm dứt Chiến tranh Lạnh, và vì thế, Gorbachev được trao Giải Nobel Hòa bình ngày 15 tháng 10 năm 1990.

Cuộc đảo chính và sụp đổ[sửa | sửa mã nguồn]

Gorbachev (giữa) tại Cổng Brandenburg vào tháng 4 năm 1986 trong chuyến thăm Đông Đức.

Trong khi những sáng kiến chính trị của Gorbachev mang khẩu hiệu "tự do" và "dân chủ" gây ra những xáo trộn tại Liên bang Xô viếtĐông Âu, thì chính sách kinh tế của chính phủ này lại dần đưa đất nước tới bờ vực thảm hoạ. Tới cuối thập niên 1980, tình trạng khan hiếm các loại thực phẩm chủ yếu là (thịt, đường) ở mức nghiêm trọng dẫn tới việc tái lập hệ thống phân phối thời chiến tranh sử dụng tem phiếu hạn chế mỗi người dân chỉ được tiêu thụ sản phẩm ở một mức nào đó mỗi tháng. So với năm 1985, thâm hụt ngân sách nhà nước tăng từ 0 lên 109 tỉ rúp; dự trữ vàng giảm từ 2.000 xuống 200 tấn; và nợ nước ngoài tăng từ 0 tới 120 tỷ đô la.

Hơn nữa, quá trình dân chủ hóa Liên bang Xô viếtĐông Âu đã làm xói mòn nghiêm trọng quyền lực của Đảng Cộng sản Liên Xô và chính Gorbachev. Việc Gorbachev nới lỏng hệ thống kiểm duyệt và những nỗ lực của ông nhằm mở cửa chính trị hơn nữa đã mang lại những hiệu ứng khó lường như sự phục hồi chủ nghĩa dân tộc ly khai từ lâu từng bị trấn áp và tình cảm chống Nga bên trong các nước Cộng hoà. Những lời kêu gọi giành lấy quy chế độc lập rộng lớn hơn nữa khỏi Moskva ngày càng tăng, đặc biệt tại Các nước cộng hòa vùng Baltic gồm Estonia, LitvaLatvia, những nước đã bị Stalin sáp nhập vào Liên bang Xô viết năm 1940. Những phong trào quốc gia bên trong các nước Cộng hòa như Gruzia, Ukraina, ArmeniaAzerbaijan cũng không ngừng lớn mạnh. Gorbachev đã tạo ra một lực lượng sau này chính là kẻ tiêu diệt Liên bang Xô viết.

Ngày 10 tháng 1 năm 1991, Mikhail Sergeyevich Gorbachev đưa ra tối hậu thư yêu cầu Hội đồng Tối cao Litva tái lập tính pháp lý của hiến pháp Xô viết tại nước này và thu hồi mọi đạo luật không hợp hiến. Ngày hôm sau Gorbachev cho phép quân đội Xô viết tìm cách lật đổ chính phủ Litva. Hậu quả của sự kiện này, ít nhất 14 thường dân thiệt mạng và hơn 600 người bị thương trong các ngày 11-13 tháng 1 năm 1991 tại Vilnius, Litva. Phản ứng mạnh mẽ của phương Tây và các hoạt động của các lực lượng dân chủ Nga khiến tổng thống và chính phủ Liên bang Xô viết rơi vào tình thế khó xử và tin tức về những hành động ủng hộ Litva từ các quốc gia dân chủ phương Tây bắt đầu xuất hiện.

Hành động của Gorbachev nhằm ngăn cản chủ nghĩa ly khai từ các nước cộng hòa là đưa ra một hiệp ước liên bang mới với mục tiêu thành lập một nhà nước liên bang tự nguyện và dân chủ hóa thực sự. Hiệp ước liên bang mới được các nước cộng hòa vùng Trung Á, những nước cần tới sức mạnh kinh tế và các thị trường của Liên bang cho sự phát triển thịnh vượng của mình, ủng hộ mạnh mẽ. Tuy nhiên, những nhà cải cách cấp tiến hơn như Tổng thống Nga Boris Nikolayevich Yeltsin, ngày càng tin tưởng rằng sự chuyển tiếp nhanh chóng sang một nền kinh tế thị trường là cần thiết và sẵn sàng chấp nhận sự tan rã của Liên bang Xô viết nếu điều đó là cần thiết để hoàn thành các mục tiêu của họ.

Trái với sự thờ ơ của những người theo phe cải cách với Hiệp ước liên bang mới, những người cộng sản cứng rắn, vẫn là một lực lượng mạnh bên trong Đảng Cộng sản và quân đội, hoàn toàn phản đối bất kỳ điều gì có thể dẫn tới sự tan rã đất nước Xô viết. Buổi tối diễn ra lễ ký kết, những người thuộc phe cứng rắn đã hành động.

Phe cứng rắn bên trong bộ máy lãnh đạo Xô viết tiến hành Vụ đảo chính tháng 8 năm 1991 trong nỗ lực nhằm loại bỏ Gorbachev khỏi cơ cấu quyền lực và ngăn chặn sự ký kết hiệp ước liên bang. Trong lúc ấy, Gorbachev bị quản thúc ba ngày (19 đến 21 tháng 8) trong một ngôi nhà nông thônKrym trước khi được trả tự do và thu hồi quyền lực. Tuy nhiên, ngay khi trở về, Gorbachev thấy rằng cả nhà nước liên bang lẫn các cơ cấu quyền lực Nga đều không còn chú ý tới các mệnh lệnh của ông và quyền lực thật sự đã rơi vào tay Yeltsin, người đã tiêu diệt cuộc đảo chính. Hơn nữa, Gorbachev bị buộc phải hạ bệ một số lớn các thành viên bên trong Bộ Chính trị của mình, và trong nhiều trường hợp, bắt giữ họ. Những cuộc bắt giữ với lý do phản bội đó gồm cả "Bè lũ tám tên" lãnh đạo cuộc đảo chính.

Gorbachev đã có ý định giữ Đảng Cộng sản Liên Xô là một đảng thống nhất nhưng đưa nó đi theo con đường dân chủ xã hội. Những mâu thuẫn vốn có của cách tiếp cận này - được Lenin ca ngợi, theo hình mẫu xã hội của Thụy Điển và tìm cách buộc cách nước vùng Baltic phải nằm trong Liên bang bằng sức mạnh vũ lực - rất khó thực hiện. Nhưng khi Đảng Cộng sản Liên Xô bị đặt ra ngoài vòng pháp luật sau vụ đảo chính tháng 8, Gorbachev bị bỏ lại, không còn chút quyền lực nào đối với các lực lượng vũ trang. Cuối cùng Yeltsin giành được tín nhiệm của quân đội với những lời hứa về tiền bạc. Sau chót Gorbachev từ chức ngày 25 tháng 12 năm 1991 khi Liên bang Xô viết chính thức tan rã.

Hoạt động chính trị sau khi từ chức[sửa | sửa mã nguồn]

Gorbachev đã thành lập Quỹ Gorbachev năm 1992. Năm 1993, ông cũng thành lập Chữ thập xanh quốc tế, cùng với tổ chức này ông là một trong ba nhà tài trợ cho Hiến chương Trái đất. Ông cũng là một thành viên Câu lạc bộ Rome.

Năm 1995 Gorbachev được Đại học Durham trao bằng Tiến sĩ danh dự vì đóng góp của mình cho "sự nghiệp khoan dung chính trị và chấm dứt xung đột kiểu chiến tranh lạnh". Năm 1996, Gorbachev chạy đua chức Tổng thống Nga nhưng chỉ nhận được khoảng 1% phiếu bầu, có lẽ vì sự thù ghét ông sau khi Liên bang Xô viết sụp đổ. Trong khi đi vận động tranh cử, ông đã bị một người đàn ông vô danh đấm vào mặt. Năm 1997, Gorbachev đóng vai trong một đoạn phim quảng cáo Pizza Hut tại Hoa Kỳ để kiếm tiền cho Perestroika Archives.

Ngày 26 tháng 11 năm 2001, Gorbachev thành lập Đảng Dân chủ Xã hội Nga— là một liên minh giữa nhiều đảng dân chủ xã hội ở Nga. Ông đã từ chức lãnh đạo đảng tháng 5 năm 2004 sau khi có bất đồng với Chủ tịch đảng về đường lối chạy đua trong cuộc bầu cử tháng 12 năm 2003. Đầu năm 2004, Gorbachev đăng ký nhãn hiệu loại rượu vang đỏ mang nhãn cái bớt của mình, sau khi một công ty vodka đưa cái bớt này lên nhãn một trong các loại sản phẩm của mình để lợi dụng sự nổi tiếng của nó. Công ty này hiện không còn sử dụng mác đó nữa.[10]

Tháng 6 năm 2004, Gorbachev đại diện cho nước Nga tại lễ tang Ronald Reagan.

Tháng 9 năm 2004, sau khi quân du kích Chechen tấn công nước Nga, Tổng thống Vladimir Vladimirovich Putin đưa ra sáng kiến thay thế các cuộc bầu cử thống đốc địa phương bằng một hệ thống chỉ định trực tiếp từ Tổng thống và được Hội đồng Lập pháp địa phương thông qua. Gorbachev cùng với Yeltsin chỉ trích hành động của Putin, coi đó là một bước rời xa con đường dân chủ.[11]

Năm 2005, Gorbachev được trao Giải thưởng Point Alpha cho vai trò của mình trong việc ủng hộ thống nhất nước Đức. Ông cũng được Đại học Münster trao bằng Tiến sĩ danh dự[12] Ông từng là hội viên Câu lạc bộ Madrid.

Qua đời và di sản[sửa | sửa mã nguồn]

Ông qua đời ngày 30 tháng 8 năm 2022 tại Moskva sau 2 năm rưỡi chống chọi với tiểu đường và các vấn đề về thận[13][14], hưởng thọ 91 tuổi, theo tổng thống Nga Vladimir Vladimirovich Putin thông báo.[15][16] Tang lễ của ông theo nghi thức gần giống với Quốc tang sẽ được tổ chức vào ngày 3 tháng 9 năm 2022, và an táng chung người vợ của mình.[17]

Ở phương Tây và các nước Đông Âu ngoài Liên Xô, Gorbachev thường có thiện cảm như là người góp phần chấm dứt Chiến tranh Lạnh. Ví dụ, tại Đức, ông được hoan nghênh vì đã đồng ý không can thiệp để sự thống nhất nước Đức diễn ra. Tuy nhiên, tại Nga và các nước thuộc Liên Xô cũ, ông mang tiếng xấu vì bị coi là kẻ làm sụp đổ đất nước Liên Xô và chịu trách nhiệm về cuộc khủng hoảng kinh tế diễn ra sau đó. Đa số người Nga hiện nay đánh giá Gorbachev rất tiêu cực, có những người còn muốn truy tố ông ra tòa vì tội phản quốc.[18][19]

Từ năm 1991 đến cuối thế kỷ XX, tổng giá trị sản xuất trong nước (GDP) của Nga giảm xuống 52% so năm 1990 (trong khi đó, vào thời kỳ chiến tranh từ năm 1941 đến năm 1945 chỉ giảm 22%). Sản xuất công nghiệp giảm 64,5%, sản xuất nông nghiệp giảm 60,4%. Vật giá tăng cao hơn 5.000 lần. Sự sụp đổ của Liên Xô sau này được tổng thống Nga Putin gọi là "thảm họa địa chính trị tồi tệ nhất thế kỷ XX. Đối với nước Nga, nó đã trở thành một bi kịch thực sự. Hàng triệu công dân và những người yêu nước của chúng ta bỗng nhiên thấy họ đang sống bên ngoài lãnh thổ Nga.".[20]

Sau này vào tháng 5/1993, Gorbachev thăm Pháp đã trả lời phỏng vấn báo "Le Figaro" về khả năng "hỗ trợ bên ngoài" trong việc xóa bỏ chủ nghĩa cộng sản tại Liên Xô, Gorbachev lần đầu tiên công nhận rằng trong cuộc gặp với Tổng thống Mỹ Ronald Reagan tại Reykjavik, ông đã "trao Liên Xô vào tay Mỹ" (trong hồi ký của mình, Reagan nói rằng ông ta đã bị sốc vì vui mừng khi biết một bộ phận trong giới chính trị cấp cao Liên Xô lại có tư tưởng chống Cộng). Sau này, năm 1999, tại trường đại học Mỹ ở Thổ Nhĩ Kỳ, Gorbachev tự thú nhận: "Mục tiêu của toàn bộ đời tôi là tiêu diệt chủ nghĩa cộng sản. Chính vì để đạt được mục tiêu này tôi đã sử dụng địa vị của mình trong Đảng và trong Nhà nước... Và để đạt được nó, tôi đã phải thay đổi toàn bộ Ban lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô và Xô viết Tối cao cũng như Ban lãnh đạo ở tất cả các nước Cộng hoà. Tôi đã tìm kiếm những người ủng hộ để hiện thực hoá mục tiêu đó, trong số này đặc biệt có A. Yakovlev, Shevardnadze..."[21].

Chiến tranh tại Afghanistan đã bắt đầu từ cuối thập niên 1970, làm tiêu mòn các nguồn tài nguyên Xô viết. Cuộc chiến này và nhiều phong trào cách mạng tại các nước vệ tinh của Xô viết (được trợ cấp nhiều từ các chiến dịch bí mật của phương Tây), ví dụ nổi bật nhất là Ba Lan và Afghanistan, khiến Liên bang Xô viết phải chi ra những khoản tiền lớn nhằm giữ ổn định trật tự và giúp các chính phủ tại đó hoạt động. Một số người cho rằng cuộc chạy đua vũ trang của phương Tây cũng tạo sức ép khiến Liên Xô phải chịu những chi phí lớn mà lẽ ra có thể dùng để phát triển kinh tế. Hạ tầng kinh tế Xô viết rơi vào tình trạng suy sụp kể từ năm 1985 (khi Gorbachev lên nắm quyền) và các sự kiện đó có ảnh hưởng to lớn tới những quyết định của Gorbachev về tự do hoá. Cuối cùng, những nỗ lực nhằm cải cách nền kinh tế Liên bang Xô viết là quá chậm chạp, các nước vệ tinh cũng phải chịu một phần trách nhiệm, dẫn tới sự chấm dứt tồn tại của một giai đoạn đối đầu dài 50 năm giữa Đông và Tây.

Nhưng cũng có nhiều người khác, đặc biệt những người lớn tuổi đã từng trải qua cuộc sống ở Liên Xô cũ, tin rằng Liên bang Xô viết không phải ở tình trạng khủng hoảng kinh tế tồi tệ như đã từng được tuyên bố, và họ coi Gorbachev là một chính trị gia kém cỏi, người đã đưa ra những cải cách sai lầm. Ông bị coi là phải chịu trách nhiệm cho sự tan rã của Liên Xô, dẫn đến sự hỗn loạn kinh tế và chính trị ở Nga và không gian hậu Xô viết trong những năm 1990.

Trong những năm cuối đời, Lazar Moiseyevich Kaganovich đã nói trong một cuộc phỏng vấn rằng thời kỳ cầm quyền của Gorbachev chính là sự phá hủy trực tiếp đất nước. Năm 2012, tổ chức Liên minh các công dân Nga còn nộp đơn kiện Gorbachev với tội danh Phản bội Tổ quốc.[22]

Những quan điểm khác cho rằng Gorbachev không đáng bị đổ lỗi hoàn toàn cho sự sụp đổ của Liên Xô. Năm 2011, có 42% người Nga được hỏi cho rằng Gorbachev có vai trò chính trong sự tan rã Liên Xô, trong khi 37% cho rằng sự tan rã của Liên Xô chủ yếu là do nhiều yếu tố khách quan, còn Gorbachev không phải là nguyên nhân chính. Cuốn "Lịch sử hiện đại của Nga? Sách tham khảo dành cho giáo viên" do Filipov chủ biên cho rằng: "Sự nghiệp chính của Gorbachev là đạt được dân chủ hóa sâu rộng đất nước. Chính ông đã xóa bỏ hệ thống kiểm duyệt và đưa ra chế độ bầu cử giống như Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, biến những quyền công dân vốn chỉ có trên giấy tờ thành hiện thực. Không ngoa khi nói rằng Gorbachev đã trao tự do cho người dân Liên Xô, nhưng cái giá phải trả quả thực là quá lớn"[23].

Giáo sư người Trung Quốc Zuo Fenrong, chuyên gia về Nga và Liên Xô thuộc Viện Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế (Đảng Cộng sản Trung Quốc) cho rằng dù không có Gorbachev thì Liên Xô vẫn sẽ khó tồn tại nếu không có cải cách hợp lý. Quá trình trì trệ của Liên Xô đã tích tụ từ 20 năm trước đó, và đến khi Gorbachev lên nắm quyền, những cải cách mang tính mày mò không còn hữu ích nữa. Khi lựa chọn con đường cải cách chính trị, Gorbachev đã tiến hành cải cách dựa trên nguyên tắc "trao lại toàn bộ quyền lực cho Xô Viết tối cao (Quốc hội Liên Xô)". Việc bầu cử đại biểu nhân dân đã trở thành khởi đầu cho sự hỗn loạn và thảm họa của Liên Xô. Vấn đề không phải là trao cho người dân quyền lựa chọn, mà là kế hoạch "giao toàn quyền cho Xô viết Tối cao" của Gorbachev là vô cùng phản khoa học. Đến năm 1990, Gorbachev phải chuyển sang chế độ tổng thống - đa đảng - tam quyền phân lập, các nước cộng hòa thành viên cũng bầu ra tổng thống và Xô viết Tối cao cho riêng họ. Kết quả là giới lãnh đạo chính trị và lực lượng ly khai địa phương được kết hợp, tạo ra các thế lực ly khai làm tan rã Liên Xô. Gorbachev giống như một thuyền trưởng lái con thuyền nhỏ trong giông bão, nhưng lại thiếu kỹ năng điều khiển nên đã khiến con thuyền bị lật úp trước khi đến đích. Chính cuộc đấu tranh của Boris Yeltsin (Tổng thống Nga đầu tiên) với Gorbachev đã trở thành một nhân tố quan trọng dẫn đến sự tan rã của Liên Xô. Tất nhiên, Gorbachev, người đang nắm quyền, vẫn phải chịu trách nhiệm về sự tan rã của Liên Xô: Ông ấy không phải là một nhà lãnh đạo sáng suốt, ông ấy không thành lập đội ngũ lãnh đạo cải cách, và cũng ích kỷ khi không bổ nhiệm những quan chức không đúng thành tích của họ.[23].

Có những chính trị gia Nga ngày nay vẫn có thiện cảm với Gorbachev, mặc dù Gorbachev thường chỉ trích họ, bởi dù sao thì ông cũng là lãnh đạo cuối cùng của Liên Xô, một đất nước mà Nga kế thừa rất nhiều di sản. Vào ngày 2 tháng 3 năm 2011, Thủ tướng Medvedev cũng ký lệnh trao tặng Huân chương Thánh Andrew, huân chương cao quý nhất của nhà nước Liên Bang Nga cho Gorbachev, và phát biểu: "Tôi nghĩ rằng đây là một đánh giá thích hợp về khối lượng công việc mà ông đã thực hiện với tư cách là nguyên thủ quốc gia, trong những thời điểm phức tạp và đặc biệt khó khăn... Đây cũng là một biểu hiện của sự tôn trọng đối với đất nước mà ông từng lãnh đạo, quê hương chung của chúng ta, Liên Xô." [23].

Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]

Chú giải[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Ngày 14 tháng 3 năm 1990, Điều 6 trong Hiến pháp của Liên bang Xô viết bị xóa bỏ. Từ đó một chế độ đa đảng đa nguyên chính trị đã được thiết lập ở Liên Xô và Đảng Cộng sản do vậy không còn là một phần của bộ máy nhà nước nữa.
  2. ^ Ông bị miễn nhiệm tạm thời từ ngày 19 đến ngày 21 tháng 8 năm 1991 trong cuộc đảo chính Tháng Tám.
  3. ^ De facto cho tới ngày 21 tháng 8 năm 1991; de jure cho tới ngày 4 tháng 12.
  4. ^ Cương vị này bị bãi bỏ vào ngày 25 tháng 12 năm 1991 và quyền lực được chuyển giao cho Tổng thống Nga Boris Yeltsin. Chức trách tổng thống được kế thừa bởi Hội đồng các nguyên thủ và Bí thư điều hành của Cộng đồng các Quốc gia Độc lập.
  5. ^ Bản thân giữ chức Chủ tịch Đảng Dân chủ Xã hội Thống nhất Nga cho tới ngày 24 tháng 11 năm 2001, và Chủ tịch Đảng Dân chủ Xã hội Nga cho tới ngày 20 tháng 10 năm 2007

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Medvedev 1986, tr. 22; Doder & Branson 1990, tr. 1; McCauley 1998, tr. 15; Taubman 2017, tr. 7.
  2. ^ Taubman 2017, tr. 10.
  3. ^ McCauley 1998, tr. 15; Taubman 2017, tr. 10.
  4. ^ Doder & Branson 1990, tr. 4; McCauley 1998, tr. 15; Taubman 2017, tr. 7.
  5. ^ Taubman 2017, tr. 8–9.
  6. ^ Taubman 2017, tr. 9; Medvedev 1986, tr. 22.
  7. ^ Taubman 2017, tr. 16.
  8. ^ Taubman 2017, tr. 16, 17.
  9. ^ “Gorbachev becomes Soviet leader”. BBC News. 1985. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 16 tháng 12 năm 2022.
  10. ^ “Gorbachev to Trademark His Forehead”. NewsMax.Com. 2004. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 8 năm 2006. Truy cập ngày 18 tháng 8 năm 2006.
  11. ^ “Mikhail Gorbachev on Putin's Reforms: "A Step Back from Democracy" (bằng tiếng Nga). MosNews. 2004. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 6 năm 2006. Truy cập ngày 23 tháng 6 năm 2006.
  12. ^ “Reunification Politicians Accept Prize” (HTML) (bằng tiếng Đức). Deutsche Welle. 2005. Truy cập ngày 23 tháng 6 năm 2006.
  13. ^ Lister, Tim (30 tháng 8 năm 2022). “Mikhail Gorbachev, Soviet president who took down the Iron Curtain, dies”. CNN. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 8 năm 2022. Truy cập ngày 30 tháng 8 năm 2022.
  14. ^ Алена Ерохина. “Гемодиализ и ухудшение состояния: Подробности смерти Михаила Горбачева”. dni.ru (bằng tiếng Nga). Truy cập ngày 2 tháng 9 năm 2022.
  15. ^ Phát Tiến; Nghiên Dương (31 tháng 8 năm 2022). “Mikhail Gorbachev, nhà lãnh đạo cuối cùng của Liên Xô, qua đời”. Báo Thanh Niên. Truy cập ngày 31 tháng 8 năm 2022.
  16. ^ Duy Tiến. “Cựu lãnh đạo Liên Xô Mikhail Gorbachev qua đời ở tuổi 91”. Báo Công an nhân dân điện tử. Truy cập ngày 31 tháng 8 năm 2022.
  17. ^ Isachenkov, Vladimir. “Putin pays tribute to Gorbachev but won't attend his funeral”. ABC News (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 9 năm 2022. Truy cập ngày 1 tháng 9 năm 2022.
  18. ^ Kagarlitsky, Boris (16 tháng 3 năm 2011). “Gorbachev the Traitor”. The Moscow Times (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2022.
  19. ^ Moscow, AFP (10 tháng 4 năm 2014). “Russian MPs say Mikhail Gorbachev should be prosecuted for treason”. the Guardian (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2022.
  20. ^ “Bản sao đã lưu trữ”. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 1 năm 2012. Truy cập ngày 3 tháng 1 năm 2012.
  21. ^ Vì sao Liên Xô sụp đổ I. Đường lối cải tổ sai lầm và sự phản bội của Gorbachev, 01/10/2015, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam
  22. ^ “Critics demand high treason trial for Gorbachev”. Truy cập 10 tháng 3 năm 2015.
  23. ^ a b c “Bản sao đã lưu trữ”. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 8 tháng 1 năm 2021.

Nguồn[sửa | sửa mã nguồn]

Đọc thêm[sửa | sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]

Chức vụ Đảng
Tiền nhiệm
Leonid Yefremov
Bí thư thứ nhất của Khu ủy Stavropol
1970–1978
Kế nhiệm
Vsevolod Murakhovsky
Tiền nhiệm
Konstantin Chernenko
Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô
1985–1991
Kế nhiệm
Vladimir Ivashko (thay quyền)
Chức vụ
Tiền nhiệm
Andrei Gromyko
như Chủ tịch Đoàn chủ tịch Xô viết tối cao
Chủ tịch Đoàn chủ tịch Xô viết tối cao (1988–1989)
Chủ tịch Xô viết tối cao (1989–1990)
Tổng thống Liên Xô (1990–1991)

1988–1991
Bãi bỏ
Giải thưởng và thành tích
Tiền nhiệm
Tenzin Gyatso
Người đoạt Giải Nobel Hòa bình
1990
Kế nhiệm
Aung San Suu Kyi
Mới lập Người đoạt Giải Tự do Ronald Reagan
1992
Kế nhiệm
Colin Powell