Bước tới nội dung

Nội chiến Hy Lạp

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội chiến Hy Lạp
Một phần của Chiến tranh Lạnh (từ năm 1947)

Pháo dã chiến QF 25 pounder của Lục quân Hy Lạp trong Nội chiến Hy Lạp
Thời gian31 tháng 3 năm 1946 – 30 tháng 8 năm 1949
(3 năm, 6 tháng, 2 tuần và 2 ngày)
Địa điểm
Kết quả Vương quốc Hy Lạp chiến thắng
Tham chiến

Vương quốc Hy Lạp

Với sự ủng hộ của:

 Vương quốc Anh (1944–1947)
 Hoa Kỳ (1946–1949)

Chính phủ dân chủ lâm thời (từ năm 1947)

Với sự ủng hộ của:

 Nam Tư (1946–1948)
Bulgaria
Albania
 Liên Xô (giới hạn)
Chỉ huy và lãnh đạo
Lực lượng
  • 232.500 (đỉnh điểm)[1]
  • 26.000 (đỉnh điểm, giữa năm 1948)[2]
  • Tổng cộng: k. 100.000 người, trong đó:
    15.000–20.000
    người Macedonia Slav
    2.000–3.000 người Pomak
    130–150 người Cham[3]
    Thương vong và tổn thất
    • Lục quân, Hải quân và Không quân Hy Lap từ ngày 16 tháng 8 năm 1945 đến ngày 22 tháng 12 năm 1951:[4] 15.268 người thiệt mạng, 37.255 người bị thương, 3.843 người mất tích, 865 người đào ngũ
    • Hiến binh Hy Lạp từ ngày 1 tháng 12 năm 1944 đến ngày 27 tháng 12 năm 1951:[5] 1.485 người thiệt mạng, 3.143 người bị thương, 159 người mất tích
  • 38.839 người thiệt mạng
    20.128 người bị bắt làm tù binh
    (theo Lục quân Hy Lạp)
  • 80.000[6]–158.000 người thiệt mạng[7][8][9][10]
    1,000,000 temporarily relocated during the war[11]

    Nội chiến Hy Lạp (tiếng Hy Lạp: ο Eμφύλιος [Πόλεμος]) bắt đầu từ năm 1946 và chấm dứt vào năm 1949. Cuộc chiến xảy ra khi quân Đồng Minh bao gồm Anh Quốc, Hoa Kỳ hỗ trợ quân đội chính phủ quốc gia Hy Lạp chống lại Quân đội Dân chủ Hy Lạp, lực lượng vũ trang của Đảng Cộng sản Hy Lạp, với yểm trợ quân sự từ các nước xã hội chủ nghĩa bao gồm Liên Xô, Bulgaria, Nam TưAlbania.

    Tranh chấp giữa hai phái khuynh hữukhuynh tả bắt đầu từ năm 1943 khi Hy Lạp bị quân Đức-Ý xâm chiếm. Khi quân Đồng Minh đánh đuổi quân Đức-Ý ra khỏi Hy Lạp, cuộc tranh giành thế lực giữa hai phe đưa đến tranh chấp vũ trang. Đây là cuộc chiến tiêu biểu đầu tiên của Chiến tranh Lạnh. Với một số học giả, đây là ví dụ điển hình của chính sách phương Tây can thiệp vào chuyện nội bộ của nước ngoài.[12] Một số khác thì cho đây là bằng chứng đầu tiên của mật ước phân chia ảnh hưởng giữa StalinChurchill.

    Trong những năm Hy Lạp bị chiếm đóng, chính phủ lưu vong không kiểm soát được tình hình chính trị trong nước và các thế lực kháng chiến tự động thành lập với nhiều đường hướng chính trị khác nhau - lớn mạnh nhất là phong trào cộng sản Mặt trận Giải phóng Quốc gia Hy Lạp (EAM). Bắt đầu từ mùa thu năm 1943, xung đội giữa EAM và các lực lượng kháng chiến khác ngày càng tăng cao với các vụ chạm súng kéo dài cho đến mùa xuân năm 1944, khi cuộc hòa giải đưa đến việc thành lập chính phủ lâm thời với 6 nghị viên thuộc EAM.

    Tháng 12 năm 1944, Hy Lạp được quân Đồng Minh kéo vào giải phóng. EAM lúc này là lực lượng chủ yếu, phản đối quân Anh, đòi giành quyền cai quản thủ đô Athens. Quân Anh đánh bại quân EAM và lực lượng vũ trang của mặt trận này bị giải tán. Nhưng EAM vẫn còn có mặt trong quốc hội và tiếp tục giằng co với phe khuynh hữu.

    Năm 1946, Đảng Cộng sản Hy Lạp chỉ huy dưới hỗ trợ của các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu (Albania, Nam Tư, Bulgaria và Liên Xô) thiết lập lực lượng du kích Quân đội Dân chủ Hy Lạp đánh nhau chống lại quân đội Quốc gia Hy Lạp và quân Đồng Minh, trong đó có Anh và Hoa Kỳ. Sau vài chiến thắng đầu tiên, quân đội Dân chủ Hy Lạp yếu dần. Sự kiện chia rẽ giữa StalinTito cũng làm sút giảm sức mạnh của họ. Bên kia, quân Mỹ tiếp tục tăng cường viện trợ cho chính phủ Hy Lạp và đưa đến chiến thắng cuối cùng.

    Sau chiến thắng của chính phủ thân phương Tây, Hy Lạp trở thành thành viên của khối liên hiệp phòng vệ NATO. Cuộc nội chiến là tiền đề cho chính sách chống cộng của Hy Lạp, dẫn đến việc ra đời Chính quyền Quân sự Hy Lạp (1967–1974).

    Bối cảnh

    [sửa | sửa mã nguồn]

    Tham khảo

    [sửa | sửa mã nguồn]
    1. ^ The Struggle for Greece 1941–1949, C. M.Woodhouse, Hurst & Company, London 2002 (first published 1976), p. 237
    2. ^ Νίκος Μαραντζίδης, Δημοκρατικός Στρατός Ελλάδας, 1946–1949, Εκδόσεις Αλεξάνδρεια, β'έκδοση, Αθήνα 2010, p. 52
    3. ^ Νίκος Μαραντζίδης, Δημοκρατικός Στρατός Ελλάδας, (Kayluff a hoe)1946–1949, Εκδόσεις Αλεξάνδρεια, β'έκδοση, Αθήνα 2010, pp. 52, 57, 61–62
    4. ^ Γενικόν Επιτελείον Στρατού, Διεύθυνσις Ηθικής Αγωγής, Η Μάχη του Έθνους, Ελεύθερη Σκέψις, Athens, 1985, pp. 35–36
    5. ^ Γενικόν Επιτελείον Στρατού, p. 36
    6. ^ Keridis 2022, tr. 54.
    7. ^ Howard Jones, A New Kind of War (1989)Bản mẫu:Page missing
    8. ^ Edgar O'Ballance, The Greek Civil War: 1944–1949 (1966)Bản mẫu:Page missing
    9. ^ T. Lomperis, From People's War to People's Rule (1996)Bản mẫu:Page missing
    10. ^ "B&J": Jacob Bercovitch and Richard Jackson, International Conflict: A Chronological Encyclopedia of Conflicts and Their Management 1945–1995 (1997)Bản mẫu:Page missing
    11. ^ Γιώργος Μαργαρίτης, Η ιστορία του Ελληνικού εμφυλίου πολέμου ISBN 960-8087-12-0Bản mẫu:Page missing
    12. ^ Chomsky, Noam (1994)). World Orders, Old And New. {{Chú thích sách}}: Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |date= (trợ giúp); Đã bỏ qua tham số không rõ |publishers= (gợi ý |publisher=) (trợ giúp)