Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Họ Vượn”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Meotrangden (thảo luận | đóng góp)
Trang mới: “{{Taxobox | fossil_range = {{Fossil range|21.8|0}} Miocen - gần đây | image = Hylobates lar pair of white and black 01.jpg | image_width = 220px…”
(Không có sự khác biệt)

Phiên bản lúc 12:31, ngày 13 tháng 4 năm 2011

Họ Vượn
Thời điểm hóa thạch: 21.8–0 triệu năm trước đây Miocen - gần đây
Vượn tay trắng (Hylobates lar)
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Chordata
Lớp (class)Mammalia
Bộ (ordo)Primates
Liên họ (superfamilia)Hominoidea
Họ (familia)Hylobatidae
Gray, 1870
Phân bố tại Đông Nam Á
Phân bố tại Đông Nam Á
Các chi

Họ Vượn (danh pháp khoa học: Hylobatidae) là một họ chứa các loài vượn. Các loài còn sinh tồn được chia ra thành 4 chi, dựa trên số lượng nhiễm sắc thể lưỡng bội của chúng: Hylobates (44), Hoolock (38), Nomascus (52), và Symphalangus (50)[1][2]. Loài tuyệt chủng Bunopithecus sericus là vượn hay linh trưởng giống như vượn, cho tới gần đây vẫn được coi là có quan hệ họ hàng gần với vượn mày trắng (Hoolock)[1]. Các loài vượn còn sinh tồn sinh sống trong các rừng mưa nhiệt đới và cận nhiệt đới từ đông bắc Ấn Độ tới Indonesia, bao gồm cả các đảo như Sumatra, BorneoJava, và về phía bắc tới miền nam Trung Quốc.

Còn được gọi là vượn hình người nhỏ, các loài vượn khác với các loài vượn hình người lớn như tinh tinh, khỉ đột, đười ươi và người ở chỗ chúng nhỏ hơn, thể hiện mức độ dị hình giới tính thấp, không làm tổ và ở một số chi tiết giải phẫu nhất định, trong đó chúng giống với các loài khỉ hơn là giống với vượn hình người lớn. Các loài vượn cũng thể hiện liên kết đôi, không giống như phần lớn các loài vượn hình người lớn. Vượn cũng là các bậc thầy trong phương thức di chuyển chủ yếu của chúng là chuyền cành bằng tay, đu từ cành này sang cành khác với khoảng cách lên tới 15 m (50 ft), với vận tốc cao tới 56 km/h (35 mph). Chúng cũng có thể nhảy xa tới 8 m (26 ft), và đi bằng hai chân với hai tay giơ lên để giữ thăng bằng. Chúng là nhanh nhẹn nhất và lẹ làng nhất trong số các loài thú sống trên cây và không biết bay[3].

Tùy từng loài và phụ thuộc vào giới tính mà bộ lông của vượn có thể có màu từ nâu sẫm tới nâu nhạt, và điểm ở một số nơi là những mảng màu đen hay trắng. Rất hiếm khi nhìn thấy một con vượn trắng hoàn toàn.

Trong số các loài vượn có vượn ngón chân hợp, vượn tay trắng, vượn mày trắng. Vượn ngón chân hợp (Symphalangus syndactylus), loài vượn to lớn nhất, được phân biệt bởi 2 ngón chân trên mỗi chân hợp lại, vì thế mà có tên gọi cho chi Symphalangus và tên định danh loài syndactylus.

Giải phẫu

Một khía cạnh đặc sắc duy nhất trong sinh lý học vượn là cổ tay hợp thành từ khớp chỏm, cho phép chuyển động theo hai trục. Điều này làm giảm đáng kể lượng năng lượng cần thiết ở bắp tay và phần thân trên, trong khi cũng làm giảm ứng suất lên khớp vai. Đôi khi, khi vượn đang đu đưa thì cổ tay của chúng sẽ chuyển chỗ một cách tự nhiên cho tới khi con vượn kết thúc sự đu đưa của nó. Vượn cũng có bàn tay và bàn chân dài, với khe sâu giữa ngón thứ nhất và thứ hai trên tay của chúng. Bộ lông của chúng thường có màu đen, xám, ánh nâu, nói chung có các đốm hay vệt màu trắng trên tay, chân và mặt. Vượn đực đôi khi có các vệt sẫm màu lẫn trong mảng màu trắng để thể hiện hay biểu lộ rằng nó là lựa chọn thích hợp để giao phối. Một số loài có túi họng phình to, phồng lên và phục vụ như là hộp cộng hưởng khi nó hú. Cấu trúc này khá lớn ở một số loài, có thể to gần như bằng đầu con vật.

Hộp sọ và răng vượn tương tự như ở các loài vượn hình người lớn, còn mũi của chúng thì giống như mũi của tất cả các loài linh trưởng mũi hẹp. Công thức răng của chúng là [4].

Tập tính

Vượn là động vật sinh sống kiểu xã hội bầy đàn. Chúng là động vật chiếm giữ lãnh thổ và hung hãn bảo vệ ranh giới vùng lãnh thổ của mình bằng các kiểu thể hiện thanh âm và thị giác đầy mạnh mẽ. Phần thanh âm có thể nghe thấy từ xa tới 1 km, bao gồm kiểu đấu khẩu của cặp đôi giao phối, các con non của chúng đôi khi cũng tham gia vào công việc này. Ở phần lớn các loài thì các con đực (đôi khi cả các con cái) hú một mình để hấp dẫn bạn tình cũng như quảng cáo cho phần lãnh thổ của chúng[5]. Nếu như một con đực (hay con cái) thấy thích thú với tiếng hú của con kia thì chúng sẽ tìm đến với nhau và thực hiện một điệu nhảy kết đôi ngắn, tiếp theo là nghi thức giao phối mạnh mẽ, kéo dài tới 3 ngày và chúng sẽ giao phối nhiều lần trong khoảng thời gian này. Nhưng những tiếng hú này cũng làm cho chúng trở nên dễ tìm thấy hơn đối với những kẻ săn bắn trộm, những kẻ thuộc đường dây buôn bán động vật hoang dã bất hợp pháp, chuyên mua bán các bộ phận để sử dụng trong y học dân gian. Tiếng hú có thể sử dụng để nhận dạng không những chỉ loài vượn nào đang hú mà còn cả khu vực nào mà chúng sinh sống[6].

Các khớp chỏm của vượn cho phép chúng có được tốc độ cao và độ chính xác lớn khi đung đưa qua các bụi cây rậm rạp trong rừng. Tuy nhiên, phương thức vận động của chúng có thể dẫn tới sự nguy hiểm cho chính chúng nếu như cành cây bị gãy hay chúng trượt tay, và các nhà nghiên cứu ước tính rằng phần lớn các con vượn đều bị gãy xương ít nhất là 1 lần trong đời[3].

Tình trạng bảo tồn

Phần lớn các loài đều ở tình trạng bị đe dọa hay nguy cấp, chủ yếu là do sự xuống cấp hay sự phá hủy môi trường rừng của chúng.

Phân loại

Cây phát sinh siêu họ Hominoidea.

Tiến hóa

Bức họa "Hai con vượn trên cây sồi" của họa sĩ thời TốngDịch Nguyên Cát.

Việc xác định niên đại tiến hóa của các chi vượn này là khó khăn[9]. Các ước tính tốt nhất hiện nay đặt chi Nomascus phân kỳ ra khỏi phần còn lại khoảng 8 triệu năm trước (Ma); SymphalangusHylobates phân kỳ khoảng 7 Ma. Ở mức độ loài thì Hylobates pileatus rẽ ra khỏi Hylobates larHylobates agilis khoảng 3,9 Ma; còn Hylobates larHylobates agilis tách ra khỏi nhau khoảng 3,3 Ma.

Các kiểu dữ liệu khác nhau đã được nghiên cứu để chỉ ra phát sinh chủng loài trong phạm vi họ Hylobatidae, bao gồm hình thái, thanh âm, tổ hình nhiễm sắc thể và dữ liệu di truyền phân tử[10][11][12][13][9][14][15][16][17][18]). Một điểm đồng thuận trong các nghiên cứu phân tử là Hylobatidae có thể được chia ra thành 4 chi đơn ngành: Hylobates, Symphalangus, NomascusHoolock[19]).

Tuy nhiên, các nghiên cứu di truyền phân tử mâu thuẫn nhau ở hai khía cạnh cơ bản về phát sinh chủng loài của họ Hylobatidae. Thứ nhất, không có sự đồng thuận về mối quan hệ giữa 4 chi này. Một vài nghiên cứu di truyền đặt Nomascus như là đơn vị phân loại cơ sở nhất[10][15][17], trong khi các nghiên cứu khác, bao gồm cả các nghiên cứu dựa trên dữ liệu nhiễm sắc thể, lại hỗ trợ cho vị trí cơ sở của chi Hoolock[14][16]. Chứng cứ hình thái hỗ trợ cho vị trí cơ sở của Symphalangus[11]. Thứ hai, trong phạm vi chi Hylobates có sự không chắc chắn đáng kể liên quan tới mối quan hệ giữa các loài khác nhau. Một câu hỏi quan trọng liên quan tới vị trí của thành viên cơ sở nhất của chi Hylobates. Loài Hylobates pileatus đã từng được gợi ý là cơ sở nhất của chi này trong các nghiên cứu dựa trên dữ liệu phân tử và hình thái[20][16][18], trong khi các phân tích khác lại hỗ trợ cho Hylobates klossii như là thành viên cơ sở nhất của Hylobates[21].

Sử dụng phát sinh chủng loài phân tử, có các diễn giải khác biệt về lịch sử tiến hóa của họ Hylobatidae. Chatterjee (2006) đưa ra kịch bản trong đó Hylobatidae bắt đầu sự phân tỏa của mình tại miền đông Đông Dương vào khoảng 10,5 Ma và các sóng phân tỏa sau đó xảy ra chủ yếu theo hướng nam, với sự phân tỏa của chi Hoolock về phía tây[10]. Whittaker và ctv. (2007) đã xem xét chi Hylobates và gợi ý một sự bành trướng địa sinh học nói chung theo hướng bắc-nam[18]. Thinh và ctv. (2010) lại gợi ý rằng sự phân tỏa vượn liên loài xảy ra trên đại lục Đông Nam Á trong thế Miocen, đặc biệt là trong khu vực ngày nay là dãy núi Hoành Đoạn. Sau đó, các chi di cư tới khu vực hiện tại của chúng ngày nay trên đại lục. Điều này sau đó được nối tiếp bằng sự mở rộng theo hướng nam của chi Hylobates vào thềm Sunda, nơi chủ yếu xảy ra sự hình thành loài dị vực[17].

Theo Israfil và ctv. (2011)[22] thì họ Hylobatidae hình thành khoảng 21,8 Ma (19,7-24,1 Ma), với sự phân tỏa của họ này thành Hoolock diễn ra khoảng 7,3 Ma (6,4–8,0 Ma). Sự phân tỏa tiếp theo của Nomascus và tổ hợp Symphalangus + Hylobates xảy ra ngay sau đó (7,0 Ma và 6,4 Ma). Sự phân tỏa của chi Hylobates xảy ra vào khoảng 3,5 Ma (3,1–4,0 Ma).

Cây phát sinh chủng loài dưới đây lấy theo Israfil và ctv. (2011) [22].

Hylobatidae 

Hoolock

Nomascus

Symphalangus

Hylobates

Lai ghép

Nhiều loài vượn khó nhận dạng nếu chỉ dựa vào màu sắc bộ lông, và được nhận dạng nhờ giọng hú hay phân tích gen[23].

Trong văn hóa truyền thống

Nhà Hán học Robert van Gulik đã kết luận rằng các loài vượn từng sinh sống khá nhiều tại Trung và Nam Trung Quốc ít nhất là cho tới thời nhà Tống, và thêm nữa, dựa trên phân tích các dẫn chiếu về linh trưởng trong văn học Trung Hoa cũng như tranh vẽ chúng trong hội họa Trung Hoa, ông cho rằng từ viên (猿) trong tiếng Trung đã từng được dùng một cách đặc biệt để chỉ nói tới các loài vượn cho tới khi chúng bị tiêu diệt gần như hoàn toàn tại phần lớn các khu vực của quốc gia này do sự phá hủy môi trường sống (khoảng thế kỷ 14). Tuy nhiên, trong tiếng Trung ngày nay thì viên lại là danh từ chung để chỉ các loài vượn hình người nói chung. Các nhà văn Trung Hoa thời cổ nhìn nhận những con vượn "quý phái", chuyển động yêu kiều trên ngọn cây, như là những "quân tử" (君子) của rừng xanh, ngược lại với những con khỉ macaque tham lam bị thức ăn của con người dẫn dụ. Những người theo Đạo giáo đã miêu tả những tính chất huyền bí của vượn, tin rằng chúng có thể sống tới nghìn năm và biến thành người[24].

Các đồ vật hình vượn có niên đại tới thế kỷ 3-4 TCN (thời nhà Chu) đã được tìm thấy ở Trung Quốc. Muộn hơn, vượn đã trở thành chủ đề phổ biến của nhiều họa sĩ Trung Quốc, đặc biệt trong thời kỳ nhà Tống và đầu thời kỳ nhà Nguyên, khi Dịch Nguyên CátMục Khê Pháp Thường đã thể hiện rất xuất sắc các hình vẽ vượn trong tranh của họ. Dưới ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa, mô típ Thiền "vượn bắt ánh trăng trong nước" cũng đã trở thành phổ biến trong hội họa Nhật Bản, mặc dù trên thực tế không có loài vượn nào sống trong tự nhiên tại Nhật Bản[25].

Thư viện ảnh

Liên kết ngoài

Ghi chú

  1. ^ a b Mootnick, A. (2005). “A new generic name for the hoolock gibbon (Hylobatidae)”. International Journal of Primatology. 26 (26): 971–976. doi:10.1007/s10764-005-5332-4. Đã bỏ qua tham số không rõ |coauthors= (gợi ý |author=) (trợ giúp)
  2. ^ a b Geissmann, Thomas (tháng 12 năm 1995). “Gibbon systematics and species identification” (PDF). International Zoo News. 42: 467–501. Truy cập ngày 15 tháng 8 năm 2008. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |accessdate= (trợ giúp)
  3. ^ a b David Attenborough, Life of Mammals, Episode 8: Life in the Trees. BBC Warner, 2003.
  4. ^ Myers P. 2000. Family Hylobatidae, Animal Diversity Web. Tra cứu 5-4-2011.
  5. ^ Clarke E., Reichard U. H., Zuberbühler K. (2006). “The syntax and meaning of wild gibbon songs”. PLoS ONE. 1: e73. doi:10.1371/journal.pone.0000073. PMC 1762393. PMID 17183705.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  6. ^ Văn Ngọc Thịnh, Chris Hallam, Christian Roos, Kurt Hammerschmidt, 2011, Concordance between vocal and genetic diversity in crested gibbons, BMC Evolutionary Biology, 11:36, doi:10.1186/1471-2148-11-36
  7. ^ Groves, Colin (16 tháng 11 năm 2005). Wilson D. E. và Reeder D. M. (chủ biên) (biên tập). Mammal Species of the World . Nhà xuất bản Đại học Johns Hopkins. tr. 178–181. ISBN 0-801-88221-4.
  8. ^ Thomas Geissmann. "Gibbon Systematics and Species Identification" (phiên bản trực tuyến). Chương 3: "Adopting a Systematic Framework" Tra cứu 5-4-2011.
  9. ^ a b Matsudaira K, Ishida T (2010) Phylogenetic relationships and divergence dates of the whole mitochondrial genome sequences among three gibbon genera. Mol. Phylogenet. Evol., 5-2010; 55(2):454-9. Lỗi chú thích: Thẻ <ref> không hợp lệ: tên “Matsudaira2010” được định rõ nhiều lần, mỗi lần có nội dung khác
  10. ^ a b c Chatterjee H. J., 2006. Phylogeny and biogeography of gibbons: a dispersal–vicariance analysis. International Journal of Primatology, 27(3), 699–712, doi:10.1007/s10764-006-9044-1
  11. ^ a b Groves C.P., 1972. Systematics and phylogeny of gibbons. Trong: Rumbaugh D.M. (chủ biên), Gibbon and Siamang. Karger, Basel, tr. 1–89.
  12. ^ Haimoff E.H., Chivers D.J., Gittins S.P., Whitten T., 1982. A phylogeny of gibbons (Hylobates spp.) based on morphological and behavioural characters. Folia Primatologica (Basel) , 39(3-4), 213–237.
  13. ^ Hayashi S., Hayasaka K., Takenaka O., Horai S., 1995. Molecular phylogeny of gibbons inferred from mitochondrial DNA sequences: preliminary report. Journal of Molecular Evolution, 41(3), 359–365, doi:10.1007/BF00186548
  14. ^ a b Muller S., Hollatz M.,Wienberg J., 2003. Chromosomal phylogeny and evolution of gibbons (Hylobatidae). Human Genetics, 113(6): 493–501, doi:10.1007/s00439-003-0997-2
  15. ^ a b Roos C., Geissmann T., 2001. Molecular phylogeny of the major hylobatid divisions. Molecular Phylogenetics and Evolution, 19(3):486–494, doi:10.1006/mpev.2001.0939
  16. ^ a b c Takacs Z., Morales J.C., Geissmann T., Melnick D.J., 2005. A complete species-level phylogeny of the Hylobatidae based on mitochondrial ND3–ND4 gene sequences. Molecular Phylogenetics and Evolution, 36(3):456–467
  17. ^ a b c Thịnh V. N., Mootnick A. R., Geissmann T., Li M., Ziegler T., Agil M., Moisson P., Nadler T., Walter L., Roos C., 2010. Mitochondrial evidence for multiple radiations in the evolutionary history of small apes. BMC Evolutionary Biology, 10, 74.
  18. ^ a b c Whittaker D.J., Morales J.C., Melnick D.J., 2007. Resolution of the Hylobates phylogeny: congruence of mitochondrial D-loop sequences with molecular, behavioral, and morphological data sets. Molecular Phylogenetics and Evolution, 45(2):620–628, doi:10.1016/j.ympev.2007.08.009
  19. ^ Brandon-Jones D., Eudey A.A., Geissmann T., Groves C.P., Melnick D.J., Morales J.C., Shekelle M., Stewart C.-B., 2004. Asian primate classification. International Journal of Primatology, 25(1):97–164, doi:10.1023/B:IJOP.0000014647.18720.32
  20. ^ Geissmann T., 2002. Taxonomy and Evolution of Gibbons. Evol. Anthro. (1), 28–31.
  21. ^ Purvis A., 1995. A composite estimate of primate phylogeny. Philosophical Transactions of the Royal Society of London Series B – Biological Sciences, 348(1326):405–421, doi:10.1098/rstb.1995.0078
  22. ^ a b H. Israfil, S.M. Zehr, A.R. Mootnick, M. Ruvolo, M.E. Steiper, 2011 Unresolved molecular phylogenies of gibbons and siamangs (Family: Hylobatidae) based on mitochondrial, Y-linked, and X-linked loci indicate a rapid Miocene radiation or sudden vicariance event, Mol Phylogenet Evol. 2011; 58(3):447-55, doi:10.1016/j.ympev.2010.11.005
  23. ^ Tenaza R. (1984). “Songs of hybrid gibbons (Hylobates lar × H. muelleri)”. American Journal of Primatology. 8 (3): 249–253. doi:10.1002/ajp.1350080307.
  24. ^ Robert van Gulik, The gibbon in China. An essay in Chinese animal lore. E.J.Brill, Leiden, Holland. (1967). Tổng quan ngắn gọn có tại 8. The Gibbons in China
  25. ^ Thomas Geissmann, Gibbon paintings in China, Japan, and Korea: Historical distribution, production rate and context". Gibbon Journal, số 4, 5-2008. (Bài này bao gồm nhiều bản sao màu các bức hội họa về vượn của nhiều họa sĩ.)