Cồng chiêng

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Một bộ cồng chiêng, hiện trưng bày trong Bảo tàng Quang Trung (Bình Định).

Cồng chiêng là nhạc cụ Châu Á thuộc bộ gõ, được làm bằng đồng thau, hình tròn như chiếc nón quai thao, đường kính khoảng từ 20 cm đến 60 cm, ở giữa có hoặc không có núm. Người ta dùng dùi gỗ có quấn vải mềm (hoặc dùng tay) để đánh cồng, chiêng. Cồng, chiêng càng to thì tiếng càng trầm, càng nhỏ thì tiếng càng cao. Cồng có thể có nguồn gốc từ khu Tây Vực (nay là Tân Cương) thuộc Trung Quốc vào thế kỷ thứ 6. Nhưng từ "cồng" xuất phát từ phiên âm tiếng Java (ꦒꦺꦴꦁ) tại tiểu quốc Java thuộc Indonesia ngày nay. (鑼; bính âm: lúo, Hán Việt: la) là cồng, còn chiêng là 鉦 (bính âm: zhēng, Hán Việt: chinh) là chỉ cái chiêng; và sau đó lan rộng đến các nước Đông Á rồi Đông Nam Á, và nó cũng có thể được sử dụng trong phần nhạc cụ của dàn nhạc giao hưởng phương Tây.

Cồng có ba loại. Những chiếc cồng bị treo ít nhiều phẳng, các đĩa tròn bằng kim loại treo theo phương thẳng đứng bằng dây thừng đi qua những lỗ gần rìa đỉnh. Chiêng hoặc núm cồng có một đỉnh trung tâm và thường bị treo và chơi theo chiều ngang. Chiếc cồng có hình bát, và nghỉ ngơi trên đệm và thuộc về chuông hơn cồng chiêng.Cồng được làm chủ yếu từ đồng hoặc đồng thau nhưng có rất nhiều hợp kim khác đang được sử dụng.

Công nhân tạo ra hai loại âm thanh riêng biệt. Một chiêng với một bề mặt phẳng rất rung động ở nhiều chế độ, tạo ra "sự sụp đổ" chứ không phải là một ghi chép được điều chỉnh. Loại chiêng này đôi khi được gọi là tam-tam để phân biệt nó với những chú cồng của chú rồng đưa ra một ghi chú được điều chỉnh. Trong các nhóm gamelan Indonesia, một số chiêng cồng kềnh được cố tình thực hiện để tạo ra ngoài một nhịp beat trong khoảng từ 1 đến 5 Hz. Việc sử dụng thuật ngữ "chiêng" cho cả hai loại công cụ này là phổ biến.

Ở Đông Nam Á[sửa | sửa mã nguồn]

Một đặc điểm khá nổi bật là cồng chiêng tại các nước này không còn được xem như là vật thông linh giữa con người và trời đất mà đã chính thức trở thành nhạc cụ dân gian hay cung đình. Cồng chiêng của người Khmer Campuchia chỉ có hai người diễn tấu với 2 dàn cồng, mỗi dàn gồm 16 chiếc cồng nhỏ xếp trên một giá sắt hình bán nguyệt, riêng người Tampuan và các dân tộc thuộc nhóm Khmer Loeu ở Campuchia thì cồng chiêng của họ có nét tương đồng giữa cồng chiêng Tây Nguyên và dân tộc Igorot ở Philippines.Cồng chiêng của Myanmar tuy đồ sộ hơn nhưng cũng được cố định vào những chiếc khung và giá đỡ chắc chắn, mang dáng dấp của một nhạc cụ hiện đại. Cồng chiêng Indonesia gồm 10 nhạc cụ diễn tấu cùng với cồng chiêng như trống kendang, trống lắc rebana, đàn sapeh... Riêng cồng chiêng Philippines,như Gangsa của các dân tộc Kalinga hay Igorot gồm 6 cồng phẳng, người đánh cồng di chuyển đôi chút và có những động tác gần như múa, còn thì nhạc công trong các dàn cồng lớn của Đông Nam Á đều ngồi một chỗ biểu diễn. Người Mambai ở Đông Timor hay người Kreung thuộc Khmer Loeu sử dụng cồng, loại chiêng của người Kreung gọi là kong nyee (គងញី), trong khi chiêng gọi là kong chmol (គងឈ្មោល).

Ở Đông Á[sửa | sửa mã nguồn]

Cồng chiêng đã là một nhạc cụ của Trung Quốc trong nhiều thiên niên kỷ. Công dụng đầu tiên của nó có thể là để báo hiệu cho công nhân nông dân từ ngoài đồng vào, vì một số cồng chiêng đủ lớn để có thể nghe thấy từ cách xa tới 5 dặm (8 km). Ở Nhật Bản, theo truyền thống, chúng được sử dụng để bắt đầu các cuộc thi đấu vật sumo. Chiêng Trung Quốc thường dùng trong các trận đấu võ kungfu, thiếu lâm hay Vịnh Xuân quyền.

Trung Quốc[sửa | sửa mã nguồn]

  • Khai lộ la (tiếng Trung: 开路锣; bính âm: Kāilù luó): một loại chiêng cỡ trung, đơn âm có lẽ được dùng trong các lễ tín ngưỡng của cá dân tộc thiểu số Trung Quốc
  • Kính la (tiếng Trung: 镜锣; bính âm: jìng luó): một loại chiêng bằng nhỏ sử dụng trong nhạc truyền thống của tỉnh Phúc Kiến.
  • Thâm ba(深波) – loại chiêng của người Triều Châu; còn gọi là Cao biên đại la (高边大锣)
  • Vân la (phồn thể: 雲鑼, giản thể: 云锣): là một nhạc cụ truyền thống của Trung Quốc. Nó được tạo thành từ một bộ chiêng có kích cỡ khác nhau được giữ trong một khung. Dàn chiêng treo lên giá gồm 7 chiêng lớn nhỏ khác nhau; 7 chiêng tương đương với các nốt "Đồ"-"Rê"- "Mi"- "Pha" -"Sol" -"La" -"Si". Những hình vẽ xưa cũng miêu tả loại Vân la nhỏ hơn chỉ có 5 chiêng, những cái này có cán, được giữ trong một bàn tay và gõ bằng tay khác. Loại Vân la hiện đại hóa đã phát triển từ loại Vân la truyền thống để sử dụng trong dàn nhạc lớn, hiện đại của Trung Quốc. Nó lớn hơn và có 29 chiêng trở lên với đường kính khác nhau. Loại hiện đại cao khoảng 2m, kể cả một giá đỡ có hai chân chống trên sàn (riêng khung chỉ cao khoảng 1m). Chiều rộng của khung khoảng 1,4m. Đôi khi loại Vân la truyền thống được gọi là Thập diện la (十面锣), tức chiêng 10 mặt, để phân biệt với loại Vân la hiện đại. Nó được truyền sang Triều Tiên từ thời Cao Ly, gọi là Ulla (hangul: 운라) và được sử dụng trong Tế lễ Tông miếu
  • Thập diện la (十面锣): Dàn chiêng cổ gồm 10 chiếc. Mỗi chiêng có đường kính khoảng 9-12 cm, chiều cao của khung khoảng 52 cm, các kích thước nhỏ dần phía trên và lớn dần phía dưới. Người ta thường sử dụng Vân la trong dàn nhạc gõ và hơi ở miền bắc Trung Quốc. Đây là bộ chiêng gốc và sau đó nó được du nhập vào các nước Đông Nam Á như bonangJava - Indonesia, khongmon (dàn cồng treo trên giá hình thuyền) ở Thái LankulintangPhilippines
  • Nguyệt la (tiếng Trung: 月锣; bính âm: yuè luó): một cái chiêng nhỏ không bằng phẳng, giữ bằng dây trong lòng bàn tay và gõ bằng dùi nhỏ, sử dụng trong nhạc Triều Châu.
  • Phong la (tiếng Trung: 风锣; bính âm: Fēng luó): chiêng gió, một loại chiêng bằng lớn, gõ bằng dùi bịt đầu.
  • Tiểu la (tiếng Trung: 小锣; bính âm: Xiǎoluó): một cái chiêng bằng nhỏ có độ cao âm thanh nâng lên khi gõ bằng cạnh của cái dùi gỗ bằng.
  • Đang tử (铛子) - một chiêng nhỏ, tròn, phẳng, được điều chỉnh treo bằng cách buộc bằng dây lụa trong một khung kim loại tròn được gắn trên một cán cầm bằng gỗ mỏng.

Triều Tiên[sửa | sửa mã nguồn]

  • Jing (hanja:징): Chiêng lớn được sử dụng trong Quân nhạc Đại xuý đả (Daechwita 대취타), pungmul (풍물) và samul nori (사물놀이). Nó cũng ít khi sử dụng trong Tông miếu Tế lễ nhạc (종묘제례악).
  • Kkwaenggwari (hangul: 꽹과리): chiêng nhỏ có dùi được sử dụng trong dân ca, pungmul và samul nori.
  • Ulla (hangul: 운라; hanja: 雲鑼 or 雲羅, Hán Việt: vân la): dàn chiêng mây 17 chiếc có kích cỡ khác nhau được giữ trong giá treo cố định gõ bằng búa nhỏ từ Trung Hoa truyền sang Triều Tiên từ thời Cao Ly. Nó được sử dụng trong Tế lễ Tông miếu, dàn cải tiến gồm 21 chiếc. Dàn chiêng này có thể gỡ ra dễ dàng khi di chuyển, xếp lại khi diễn tấu. Người ta sử dụng 2 que gõ tương tự đàn tam thập lục Yanggeum, ngày xưa dùng que bằng gỗ với phần đầu làm bằng sừng trâu hoặc que tre.

Tại Việt Nam[sửa | sửa mã nguồn]

Một bộ cồng chiêng, hiện trưng bày tại Bảo tàng các dân tộc Việt Nam (Buôn Ma Thuột, Đăk Lăk)

Nếu các dàn cồng chiêng Đông Nam Á đều sử dụng dùi để đánh chiêng thì nhiều dân tộc Tây Nguyên vẫn đánh chiêng bằng cùi tay (cho âm thanh trầm hơn, tròn trịa hơn).Có thể suy luận rằng, văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên đã phản ánh một xã hội ở cấp độ nguyên sơ nhất của con người mà ở đó, cồng chiêng vẫn còn giữ được những đặc điểm tương đối nguyên bản, chưa phát triển thành một nhạc cụ dân gian hay nhạc cụ cung đình như những nước Đông Nam Á khác. Nếu xem văn hóa cồng chiêng Đông Nam Á là một cây đại thụ thì văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên chính là một phần cội rễ; đó là nơi khởi nguồn, phát xuất cho mọi mạch nguồn sáng tạo. Chính vì tính nguyên bản và cấp bách trong việc bảo tồn, lưu giữ, Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên đã được UNESCO công nhận là Di sản. Phát huy di sản này như thế nào, tương lai của cồng chiêng Tây Nguyên sẽ ra sao là một câu hỏi mà để trả lời phải cần thêm sự góp sức nhiệt tình của các nhà nghiên cứu, rộng hơn là của cả cộng đồng.

Nghệ nhân chỉnh chiêng[sửa | sửa mã nguồn]

Một chiếc chiêng có nguồn gốc từ Philippines

Nghệ nhân chỉnh chiêng hay người điều khiển giàn chiêng là nhạc công giỏi, có khả năng thẩm âm, biết phát hiện và chỉnh sửa thanh âm lạc điệu của từng chiêng để đạt được âm thanh chuẩn của cả giàn chiêng. Nghệ nhân chỉnh chiêng không chỉnh âm cho các chiếc chiêng sai âm, mà còn chỉnh âm cho các giàn chiêng mới. Nghệ nhân chỉnh chiêng được coi là báu vật dân gian sống, bao hàm tính truyền thống và tính khoa học, không chỉ đơn thuần là một kĩ thuật viên.

Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]