Bước tới nội dung

Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Son môi”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 74: Dòng 74:
Son môi được sản xuất bằng cách mài và làm nóng thành phần. Sau đó, sáp nóng được thêm vào hỗn hợp tạo bề mặt. Dầu và mỡ cừu được bổ sung cho các yêu cầu công thức cụ thể. Sau đó, chất lỏng nóng được đổ vào một khuôn kim loại. Hỗn hợp sau đó được ướp lạnh. Khi đã đông cứng lại, son được đun nóng bằng lửa cho nửa phần thứ hai để tạo ra sự hoàn thiện sáng bóng và loại bỏ tạp chất.<ref name="chemical1" />
Son môi được sản xuất bằng cách mài và làm nóng thành phần. Sau đó, sáp nóng được thêm vào hỗn hợp tạo bề mặt. Dầu và mỡ cừu được bổ sung cho các yêu cầu công thức cụ thể. Sau đó, chất lỏng nóng được đổ vào một khuôn kim loại. Hỗn hợp sau đó được ướp lạnh. Khi đã đông cứng lại, son được đun nóng bằng lửa cho nửa phần thứ hai để tạo ra sự hoàn thiện sáng bóng và loại bỏ tạp chất.<ref name="chemical1" />


== Vết chì ==
== Dấu vết chì ==
Một nghiên cứu của nhóm người tiêu dùng Mỹ ''chiến dịch mỹ phẩm an toàn'', trong tháng 10 năm 2007, phát hiện 60 % son môi kiểm tra được chứa chút ít lượng [[chì]], đặc biệt là son môi đỏ.<ref>My Product Alert: [http://www.myproductalert.com/lead-in-lipsticks.html Extensive Report on Lead in Lipsticks]</ref> Hàm lượng chì dao động 0,03-0,65 ppm. Một phần ba son môi chứa chì vượt quá giới hạn 0,1 ppm do Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ chỉ định chì trong kẹo.<ref>US FDA: [http://www.cfsan.fda.gov/~dms/pbcandy2.html#intro Document on Lead in Candy]</ref><ref>[http://www.fda.gov/Cosmetics/ProductandIngredientSafety/ProductInformation/ucm137224.htm FDA Lipstick and Lead: Questions and Answers]</ref>
Một nghiên cứu của nhóm người tiêu dùng Mỹ ''chiến dịch mỹ phẩm an toàn'', trong tháng 10 năm 2007, phát hiện 60 % son môi kiểm tra được chứa chút ít lượng [[chì]], đặc biệt là son môi đỏ.<ref>My Product Alert: [http://www.myproductalert.com/lead-in-lipsticks.html Extensive Report on Lead in Lipsticks]</ref> Hàm lượng chì dao động 0,03-0,65 ppm. Một phần ba son môi chứa chì vượt quá giới hạn 0,1 ppm do Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ chỉ định lượng chì trong kẹo.<ref>US FDA: [http://www.cfsan.fda.gov/~dms/pbcandy2.html#intro Document on Lead in Candy]</ref><ref>[http://www.fda.gov/Cosmetics/ProductandIngredientSafety/ProductInformation/ucm137224.htm FDA Lipstick and Lead: Questions and Answers]</ref>

== Sử dụng trong tiếng địa phương ==
* Cụm từ "son môi trên cổ áo của mình" là một uyển ngữ để mô tả một người đàn ông gian đối bạn tình.
* Một "[[lesbian thoa son môi]]" là một người phụ nữ đồng tính hay lưỡng tính thể hiện tính cách [[nữ tính]]. Thuật ngữ lặp âm được cho đã đi vào sử dụng phổ biến trong những năm 1980 để phân biệt giữa người đồng tính nữ người tuân thủ nhiều vai trò giới tính truyền thống và [[nam tính và nữ tính|những người không theo truyền thống]]. Trong một số hoàn cảnh, nó có ý nghĩa miệt thị.
* '''Lippy''' là một câu nói thân mật của người Anh về son môi, đặc biệt là ở [[bắc nước Anh]].
* Cụm từ "[[son môi trên một con lợn]]" là một uyển ngữ cho cố gắng không thành công khi làm cho một cái gì đó hấp dẫn (hoặc một số ý tưởng) vốn đã không hấp dẫn.
* Bài hát "[[You're the Top]]" từ vở nhạc kịch Broadway ''[[Anything Goes]]'' năm 1934, [[Cole Porter]] đề cập '''son môi dùi trống'''. Một công ty New York với tên Pháp-âm, Parfums Charbert (thành lập năm 1933 do [[William Gaxton]] và Herbert Harris; đóng cửa vào khoảng 1963/1964), sản xuất một dòng nước hoa/mỹ phẩm dùi trống (khắc họa chai nước hoa nhỏ hình cái trống trên thương hiệu của mình) mà bao gồm '''son môi dùi trống'''.<ref>{{cite web | url=http://cleopatrasboudoir.blogspot.com/2014/01/charbert-perfumes.html | title=Charbert Perfumes | publisher=Cleopatra's Boudoir | date=18 January 2014 | accessdate=26 April 2014}}</ref> Quảng cáo cho các sản phẩm này xuất hiện trong ''[[New York Times]]'' năm 1934.<ref>{{cite web | url=http://www.slate.com/articles/news_and_politics/chatterbox/2005/06/drumstick_lipstick_explained.html | title=Drumstick Lipstick Explained! A decades-long mystery is solved. | publisher=Slate | date=16 June 2005 | accessdate=26 April 2014 | author=Noah, Timothy}}</ref>


==Tham khảo==
==Tham khảo==

Phiên bản lúc 02:53, ngày 26 tháng 5 năm 2016

Một ống son môi
Một phụ nữ đang thoa son môi

Son môi là một sản phẩm mỹ phẩm có chứa bột màu, dầu, sáp, chất làm mềm da phết màu sắc, làm bề mặt và bảo vệ đôi môi.

Nhiều màu sắc và kiểu loại son môi tồn tại. Như với hầu hết nhiều loại mỹ phẩm, son môi khá phổ biến, nhưng không phải độc quyền dành cho phái nữ. Việc sử dụng son môi đã tồn tại vào thời Trung Cổ. Một số son môi cũng là son dưỡng môi, để gia tăng màu sắc và độ ẩm.

Lịch sử

Cận cảnh son môi đỏ

Đàn ông và phụ nữ Sumer cổ đại có thể là những người đầu tiên phát minh và thoa son môi, khoảng 5.000 năm trước.[1] Họ nghiền đá quý và sử dụng chúng để trang trí khuôn mặt, chủ yếu trên môi và xung quanh mắt. Nữ hoàng Cleopatra của Ai Cập nghiền con bọ để tạo ra một màu đỏ trên môi.[2] Cũng khoảng năm 3000 TCN đến 1500 TCN, phụ nữ thuộc văn minh lưu vực sông Ấn cổ đại thoa son môi đỏ nhuộm màu để trang trí đôi môi của họ trên gương mặt.[3] Người Ai Cập cổ đại tô son môi để phô bày địa vị xã hội hơn là giới tính.[4] Họ chiết xuất chất màu đỏ từ fucus-algin, 0,01% iốt, và một số mannite brom, nhưng thuốc nhuộm này dẫn đến bệnh nghiêm trọng. Son môi với các hiệu ứng lung linh ban đầu được làm ra bằng cách sử dụng chất phát ngũ sắc có trong vảy cá.[5]

Vào thời kỳ vàng đạo Hồi, nhà thẩm mỹ Andalucia nổi tiếng, Abu al-Qasim al-Zahrawi (Abulcasis) phát minh ra son môi rắn, đó là thỏi thơm cuộn lại và ép vào mốc đặc biệt, ông mô tả chúng trong tác phẩm Al-Tasrif.[6]

Những cô gái người Úc sẽ vẽ miệng màu đỏ với màu vàng nâu trong nghi lễ dậy thì.[7]

Vương quốc Anh

Chất nhuộm màu môi bắt đầu phổ biến vào thế kỷ 16 tại Anh. Dưới thời kỳ Nữ hoàng Elizabeth I, đôi môi đỏ tươi sáng và một khuôn mặt trắng bệch đã trở thành mốt thời thượng.[8] Vào thời điểm đó, son môi đã được sản xuất bằng cách pha trộn sáp ong và chất nhuộm đỏ từ thực vật. Thời đó chỉ phụ nữ tầng lớp thượng lưu và diễn viên nam mới trang điểm son môi.[9]

Trong suốt cả thế kỷ 19, việc sử dụng công khai mỹ phẩm đã không được chấp nhận ở Anh đối với phụ nữ đáng kính và chỉ những người có vị thế xã hội thấp như diễn viên và gái mại dâm dùng son môi. Dùng mỹ phẩm trang điểm được xem là trắng trợn và bất lịch sự.[2] Vào những năm 1850, các báo cáo xuất bản đã cảnh báo phụ nữ về sự nguy hiểm khi sử dụng chì và chu sa khi dùng mỹ phẩm trên khuôn mặt. Đến cuối thế kỷ 19, Guerlain, một công ty mỹ phẩm của Pháp, bắt đầu sản xuất son môi. Son môi thương mại đầu tiên được phát minh vào năm 1884, bởi xưởng sản xuất nước hoa tại Paris, Pháp. Thỏi son được bao phủ trong giấy lụa và được làm từ mỡ hươu, dầu thầu dầusáp ong.[2] Trước đó, son môi còn được làm tại nhà.[10] Chấp nhận toàn vẹn việc sử dụng mỹ phẩm công khai ở Anh dường như đã trở thành mốt thời thượng của người London ít nhất vào năm 1921.[11]

Một phụ nữ tô son môi dạng hộp trang điểm tại Washington D.C., 1943

Hoa Kỳ

Thế kỷ 19, son môi được tô màu với thuốc nhuộm đỏ yên chi. Thuốc nhuộm yên chi được chiết xuất từ rệp son, loài côn trùng có vảy nguồn gốc từ Mexico và Trung Mỹ, sống trên cây xương rồng. Côn trùng rệp son sản xuất axit carminic để ngăn chặn những loài côn trùng khác ăn thịt. Axit carminic, tạo thành 17% đến 24% trọng lượng của loài côn trùng khô, có thể chiết xuất từ cơ thể và trứng côn trùng. Trộn với muối nhôm hay canxi để làm nên thuốc nhuộm đỏ yên chi (còn được gọi là rệp son).[12]:36

Một ống son môi

Son môi này không hình thành dạng ống; nó được tô thoa với một cái bàn chải. Thuốc nhuộm yên chi đắt đỏ và phong cách son môi màu yên chi được xem là không tự nhiên và cường điệu, vì vậy son môi không được tán thành để trang điểm hàng ngày. Chỉ có diễn viên nam và diễn viên nữ có thể nhận biết ngay khi họ trang điểm son môi. Năm 1880, vài nữ diễn viên sân khấu thoa son môi ở nơi công cộng.[13][14] Nữ diễn viên sân khấu nổi tiếng, Sarah Bernhardt, bắt đầu thoa son môi và má hồng nơi công cộng. Trước cuối thế kỷ 19, phụ nữ chỉ áp dụng trang điểm tại nhà. Bernhardt thường thoa phết chất nhuộm yên chi lên môi cô trước công chúng.[12]:36

Trong những năm đầu thập niên 1890, yên chi được pha trộn với một chất nền dầu và sáp. Hỗn hợp đưa ra một cái nhìn tự nhiên và được chấp nhận hơn giữa phụ nữ. Tại thời điểm đó, son môi không được bán ở dạng vít chặt vào ống kim loại; mà được bán trong các ống giấy, giấy nhuộm màu, hoặc trong bình lọ nhỏ.[13] Cửa hàng Sears Roebuck đầu tiên chào bán phấn hồng cho môi và má vào cuối thập niên 1890.

Từ năm 1912, phụ nữ thời trang Mỹ đã tiến đến xem xét việc chấp nhận son môi, mặc dù một bài viết trên tờ New York Times khuyên rằng cần thoa son một cách thận trọng.[15]

Khoảng năm 1915, son môi được bán trong hộp kim loại hình trụ, vốn do Maurice Levy phát minh. Phụ nữ phải trượt một đòn bẩy nhỏ phía bên ống bằng cạnh móng tay để di chuyển thỏi son môi lên đến trên cùng hộp son,[16] mặc dù son môi trong hộp chứa kim loại đẩy hướng lên đã xuất hiện ở châu Âu kể từ năm 1911.[17] Năm 1923, ống xoay hướng lên đầu tiên được cấp bằng sáng chế bởi James Bruce Mason Jr. ở Nashville, Tennessee. Khi phụ nữ bắt đầu tô son môi để chụp ảnh, nhiếp ảnh làm son môi có thể chấp nhận ở phụ nữ.[13] Elizabeth ArdenEstée Lauder bắt đầu bán son môi trong thẩm mỹ viện của họ.[14]

Trong chiến tranh thế giới thứ hai, ống son môi kim loại được thay thế bằng ống nhựa và giấy. Son môi khan hiếm trong thời gian đó do bởi một số thành phần thiết yếu của son môi, dầu mỏdầu thầu dầu không có sẵn.:50 Chiến tranh thế giới thứ hai cho phép phụ nữ làm việc trong kỹ thuật và nghiên cứu khoa học, trong những năm cuối thập niên 1940, Hazel Bishop, một nhà hóa học hữu cơ ở New York và New Jersey, tạo ra son môi lâu dài đầu tiên, gọi là son môi No-Smear.[18] Với sự giúp đỡ của Raymond Specter, một nhà quảng cáo, kinh doanh son môi Bishop phát triển mạnh.

Một dạng khác của màu môi, sáp lỏng, công thức lỏng nửa lâu dài, được công ty quốc tế Lip-Ink phát minh vào những năm 1990. Các công ty khác đã bắt chước ý tưởng, đưa ra phiên bản riêng của họ về "chất nhuộm môi" hoặc "màu môi lỏng" lâu dài.

Xu hướng son môi

Elizabeth Taylor đã giúp đại chúng hóa son môi đỏ.

Trong suốt những năm đầu thế kỷ 20, son môi tiến đến một số lượng hạn chế các gam màu.

Màu đỏ sẫm là một trong những gam màu phổ biến nhất suốt thế kỷ 19 và 20. Son môi đỏ sẫm đã phổ biến trong những năm 1920. Thiếu nữ thoa son môi để tượng trưng cho sự độc lập của họ. Son môi được tô điểm quanh môi để tạo thành một "cung Cupid", lấy cảm hứng từ nữ diễn viên Clara Bow.[19] Vào thời điểm đó, người ta chấp nhận tô điểm son môi nơi công cộng và trong bữa ăn trưa, nhưng không bao giờ vào bữa ăn tối.[16][20]

Trong những năm đầu thập niên 1930, Elizabeth Arden bắt đầu giới thiệu nhiều màu son môi khác nhau. Cô lấy cảm hứng từ các công ty khác để tạo ra một loạt gam màu son môi.[21] Trong những năm 1930, son môi được xem là biểu tượng của hoạt động tình dục người lớn. Các cô gái trẻ tin rằng son môi là một biểu tượng của phái nữ. Người lớn nhìn thấy nó như một hành động nổi loạn. Nhiều người Mỹ, đặc biệt là người nhập cư, không chấp nhận các cô gái trẻ thoa son môi. Một nghiên cứu vào năm 1937, khảo sát cho biết rằng hơn 50% các cô gái tuổi teen đã đấu tranh với cha mẹ của họ để được thoa son môi.[22]

Vào giữa thập niên 1940, nhiều cuốn sách tuổi teen và tạp chí nhấn mạnh rằng đàn ông ưu thích một diện mạo tự nhiên hơn một diện mạo trang điểm. Sách và tạp chí cũng cảnh báo các cô gái dùng mỹ phẩm có thể phá hỏng cơ hội ưu ái của họ và sự nghiệp. Hàm ý của những bài viết này là son môi và má hồng cho cô gái tuổi teen hành động rất khiêu khích với đàn ông.[22] Bất chấp gia tăng việc sử dụng mỹ phẩm, nó vẫn liên quan đến nạn mại dâm. Các cô gái tuổi teen đã chán nản dùng mỹ phẩm vì sợ rằng họ sẽ bị nhầm lẫn với cô gái "phóng đãng" hoặc gái mại dâm.[23]

Vào những năm 1950, nữ diễn viên màn ảnh Marilyn MonroeElizabeth Taylor đã giúp mang lại đôi môi đỏ sẫm. Một cuộc khảo sát năm 1951 cho thấy hai phần ba thiếu nữ thoa son môi.

Năm 1950, nhà hóa học Hazel Bishop thành lập công ty, Hazel Bishop Inc., để thúc đẩy phát minh son môi 'kissproof', lâu dài không nhòe của cô ( "lưu trú trong bạn ... không phải trong anh ta"), sau đó nhanh chóng được chấp nhận.[24] Vào cuối những năm 1950, một công ty mỹ phẩm mang tên Gala giới thiệu son môi lung linh nhạt màu. Sau đó, Max Factor tạo ra một màu son môi phổ biến được gọi là Strawberry Meringue. Nhà sản xuất son môi bắt đầu tạo ra son môi màu oải hương, hồng nhạt, trắnglòng đào. Kể từ khi các bậc phụ huynh thường cau mày về cô con gái tuổi teen thoa son môi đỏ, một vài thiếu nữ bắt đầu thoa son môi màu hồng và màu quả đào, đã trở thành một xu hướng.[25] Son môi màu trắng hoặc gần như trắng đã phổ biến trong những năm 1960.[22] Những nhóm nhạc rock như RonettesShirelles đại chúng hóa son môi trắng. Thiếu nữ sẽ tô son môi trắng trên lớp son môi hồng hoặc đặt dưới mắt che khuyết điểm trên đôi môi của họ. Trong thời gian đó, nhiều loại son môi hoặc mờ, trong suốt, hoặc hơi sáng bóng.[26] Trong những năm 1960, son môi được gắn liền với nữ tính. Những phụ nữ không thoa son môi bị nghi rối loạn tâm thần hoặc đồng tính nữ.[22]

Trong những năm 1970, một số lượng công ty mỹ phẩm giới thiệu son môi có màu sắc khác thường hơn như xanh lam sáng óng ánh (Kanebo), xanh lục lá chanh mờ (Conga Lime của Revlon), và xanh nước biển ánh bạc (Metallic Grandma của Biba). Mỹ phẩm M•A•C tiếp tục phát hành phiên bản giới hạn và son môi sưu tầm cao có phạm vi rộng về màu sắc và điểm kết thúc, trong đó có màu sắc bất thường như màu nền tím, xanh lam và xanh lục.

Ca sĩ nhạc rock Marilyn Manson giúp đại chúng hóa son môi sẫm trong nhóm văn hóa thay thế.

Son môi đen trở nên phổ biến vào cuối thập niên 1970 và trong thập niên 1990. Trong những năm 1950, son môi màu đen được các nữ diễn viên thoa lên khi đóng vai chính trong phim kinh dị. Nó trở nên phổ biến trở lại một phần do nhóm văn hóa punkgoth.[27]

Vào giữa thập niên 1980, cái gọi là son môi tâm trạng cũng được bán cho người trưởng thành của các công ty mỹ phẩm chủ đạo. Đây là loại son thay đổi màu sắc sau khi thoa tô, dựa trên thay đổi độ pH của da được cho phản ánh tâm trạng của người thoa son.[28] Những loại son môi có sẵn dành cho trẻ em gái chơi trò trang điểm. Chúng đã hồi sinh vào đầu thế kỷ 21, không quá tốn kém cũng như các dòng mỹ phẩm độc quyền hơn và hóa chất thay đổi màu sắc cũng xuất hiện trong son bóng, như Smashbox O-Gloss và phấn mặt đỏ, chẳng hạn như Stila Custom Color Blush.

Trong những năm 1990, màu son môi đã trở nên bán mờ. Gam màu nâu rất phổ biến. Những gam màu được lấy cảm hứng từ một số chương trình như "Friends". Trong cuối những năm 1990 và vào thế kỷ 21, màu ngọc trai trở nên rất phổ biến. Son môi không còn mờ hoặc bán mờ, chúng sáng bóng và chứa nhiều màu ngọc trai giao thoa.

Năm 2012, màu son sáng rõ nét trở thành xu thế lần nữa với màu sắc bão hòa như màu hồng nóng, neon và cam.[29]

Năm 2014 và đầu năm 2015 son môi màu nude đang trở thành mốt vô cùng phổ biến. Những thỏi son môi theo xu hướng chung "ít hơn là nhiều hơn". Ví dụ về người nổi tiếng thúc đẩy xu hướng này là Kim KardashianKylie Jenner.[30]

Thành phần

Son môi chứa sáp, dầu, chất chống oxy hóa và chất làm mềm da.[31] Sáp cung cấp cấu trúc cho son môi rắn. Son môi có thể được làm từ nhiều loại sáp như sáp ong, ozokeritesáp candelilla. Do bởi điểm nóng chảy cao, sáp cọ Carnauba là một thành phần quan trọng kiên cố son môi. Các loại dầu và chất béo khác nhau cũng được sử dụng trong son môi, chẳng hạn như dầu ô liu, dầu khoáng, bơ ca cao, lanolinpetrolatum.

Son môi tạo màu sắc từ nhiều chất nhuộm và thuốc nhuộm đỏ tía bao gồm, nhưng không giới hạn axit brom, D&C Red No. 21, canxi đỏ tía như D&C Red 7 và D&C Red 34 và D&C Orange No. 17. Son môi hồng được sản xuất bằng cách trộn màu titan điôxít và gam màu đỏ. Cả hai chất nhuộm màu hữu cơ và vô cơ được sử dụng.

Son môi mờ chứa các chất làm đầy hơn như silica nhưng không có nhiều chất làm mềm da. Son môi creme chứa nhiều sáp hơn dầu. Son môi mỏng và bền lâu chứa nhiều dầu hơn, trong khi son môi bền lâu cũng chứa dầu silicone, đóng kín màu sắc lên môi người thoa. Son bóng môi có chứa nhiều dầu hơn dành cho hoàn thiện độ sáng bóng cho môi.

Son môi lung lung và có màu sương giá có thể chứa mica, silica và thành phần ngọc trai tổng hợp, chẳng hạn như bismuth oxychloride, cung cấp cho thỏi son độ lấp lánh hoặc sáng lung linh.[5]

Son môi được sản xuất bằng cách mài và làm nóng thành phần. Sau đó, sáp nóng được thêm vào hỗn hợp tạo bề mặt. Dầu và mỡ cừu được bổ sung cho các yêu cầu công thức cụ thể. Sau đó, chất lỏng nóng được đổ vào một khuôn kim loại. Hỗn hợp sau đó được ướp lạnh. Khi đã đông cứng lại, son được đun nóng bằng lửa cho nửa phần thứ hai để tạo ra sự hoàn thiện sáng bóng và loại bỏ tạp chất.[5]

Dấu vết chì

Một nghiên cứu của nhóm người tiêu dùng Mỹ chiến dịch mỹ phẩm an toàn, trong tháng 10 năm 2007, phát hiện 60 % son môi kiểm tra được chứa chút ít lượng chì, đặc biệt là son môi đỏ.[32] Hàm lượng chì dao động 0,03-0,65 ppm. Một phần ba son môi chứa chì vượt quá giới hạn 0,1 ppm do Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ chỉ định lượng chì có trong kẹo.[33][34]

Sử dụng trong tiếng địa phương

  • Cụm từ "son môi trên cổ áo của mình" là một uyển ngữ để mô tả một người đàn ông gian đối bạn tình.
  • Một "lesbian thoa son môi" là một người phụ nữ đồng tính hay lưỡng tính thể hiện tính cách nữ tính. Thuật ngữ lặp âm được cho đã đi vào sử dụng phổ biến trong những năm 1980 để phân biệt giữa người đồng tính nữ người tuân thủ nhiều vai trò giới tính truyền thống và những người không theo truyền thống. Trong một số hoàn cảnh, nó có ý nghĩa miệt thị.
  • Lippy là một câu nói thân mật của người Anh về son môi, đặc biệt là ở bắc nước Anh.
  • Cụm từ "son môi trên một con lợn" là một uyển ngữ cho cố gắng không thành công khi làm cho một cái gì đó hấp dẫn (hoặc một số ý tưởng) vốn đã không hấp dẫn.
  • Bài hát "You're the Top" từ vở nhạc kịch Broadway Anything Goes năm 1934, Cole Porter đề cập son môi dùi trống. Một công ty New York với tên Pháp-âm, Parfums Charbert (thành lập năm 1933 do William Gaxton và Herbert Harris; đóng cửa vào khoảng 1963/1964), sản xuất một dòng nước hoa/mỹ phẩm dùi trống (khắc họa chai nước hoa nhỏ hình cái trống trên thương hiệu của mình) mà bao gồm son môi dùi trống.[35] Quảng cáo cho các sản phẩm này xuất hiện trong New York Times năm 1934.[36]

Tham khảo

  1. ^ Schaffer, Sarah (2006), Reading Our Lips: The History of Lipstick Regulation in Western Seats of Power, Digital Access to Scholarship at Harvard |ngày truy cập= cần |url= (trợ giúp)
  2. ^ a b c “The Slightly Gross Origins of Lipstick”. InventorSpot. Truy cập ngày 9 tháng 2 năm 2010.
  3. ^ Yona Williams. Ancient Indus Valley: Food, Clothing & Transportation.
  4. ^ Schaffer, Sarah (ngày 16 tháng 5 năm 2006). “The History of Lipstick Regulation in Western Seats of Power”. Harvard.edu. Harvard. Truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2016.
  5. ^ a b c “What's That Stuff?”. Chemical and Engineering News. Truy cập ngày 2 tháng 9 năm 2010.
  6. ^ Harvard Law School:Reading Our Lips: The History of Lipstick Regulation in Western Seats of Power
  7. ^ Richards, Beth (1994). “Blood of the Moon”. Herizons: 28.
  8. ^ http://www.elizabethancostume.net/makeup.html Elizabethan Makeup
  9. ^ “Elizabethan Make-up”. Elizabethanera. org.uk. Truy cập ngày 9 tháng 2 năm 2010.
  10. ^ Conway, Susannah (3 tháng 1 năm 1999). “Fashion: The History of... Lipstick – Lip-Smackers Good”. London: The Independent (U.K.). Truy cập ngày 9 tháng 2 năm 2010.
  11. ^ The Times, Monday, Dec 12, 1921; pg. 7; Issue 42901; col C, Shops At Their Best: "Vanity cases are in endless variety, large enough to hold mirror, powder-puff, lip-stick, and other necessaries of feminine social life."
  12. ^ a b Riordan, Theresa (10 tháng 5 năm 2004). Inventing Beauty: A History of the Innovations that Have Made Us Beautiful. New York, NY: Crown Publishing Group. tr. 36–60. ISBN 0-7679-1451-1.
  13. ^ a b c “A Brief History of Lipstick”. Enjoy Your Style. Truy cập ngày 2 tháng 9 năm 2010.
  14. ^ a b “How Lipstick Works”. Discovery Health. Truy cập ngày 2 tháng 9 năm 2010.
  15. ^ New York Times, March 17, 1912, "The Art of Making Up":"There was a time when to confess to make up was to place one's self beyond the pale...We flaunt the vanity box these days as frankly as our ancestors did in the eighteenth century.... Touch the lips slightly with a lip-stick, but do not make your mouth look like raw beef."
  16. ^ a b “Clara Bow Lips – 1920s Beauty”. About.com. Truy cập ngày 2 tháng 9 năm 2010.
  17. ^ “Cosmetic Explosion That Started With A Lipstick”. My Art Deco Style. Truy cập ngày 30 tháng 3 năm 2014.
  18. ^ Berg, Rona (1 tháng 1 năm 2001). Beauty: The New Basics. New York, NY: Workman Publishing. tr. 144. ISBN 978-0-7611-0186-4.
  19. ^ “The Roaring 20s – Image Review”. Illinois State University. Truy cập ngày 2 tháng 9 năm 2010.
  20. ^ McVeigh, Tracy (17 tháng 1 năm 2010). “Lipstick Follows Economy Into Red”. London: The Guardian (U.K.). Truy cập ngày 2 tháng 9 năm 2010.
  21. ^ Sherrow, Victoria (30 tháng 3 năm 2001). For Appearance's Sake: The Historical Encyclopedia of Good Looks, Beauty, and Grooming. Connecticut: Greenwood Publishing. tr. 180. doi:10.1336/1573562041. ISBN 1-57356-204-1.
  22. ^ a b c d Mitchell, Claudia; Jacqueline Reid-Walsh (30 tháng 12 năm 2007). Girl Culture: An Encyclopedia. Connecticut: Greenwood Publishing. tr. 396–397. doi:10.1336/0313339082. ISBN 0-313-33908-2.
  23. ^ Forman-Brunell, Miriam (1 tháng 6 năm 2001). Girlhood in America: An Encyclopedia. Santa Barbara, California: ABC-CLIO. tr. 159. ISBN 1-57607-206-1.
  24. ^ New York Times, December 10, 1998, obituary: 'Hazel Bishop, 92, an innovator who made lipstick kissproof'
  25. ^ “Beauty and Make Up Fashion History After 1950”. Fashion Era. Truy cập ngày 2 tháng 9 năm 2010.
  26. ^ “White Lipstick”. Enjoy Your Style. Truy cập ngày 2 tháng 9 năm 2010.
  27. ^ “Black Lipstick”. enjoy-your-style.com.
  28. ^ Mansour, David (2005). From Abba to Zoom: A Pop Culture Encyclopedia of the Late 20th Century. Kansas City, Missouri: Andrews McMeel Publishing. tr. 319. ISBN 978-0-7407-5118-9.
  29. ^ Macrae, Sarah. “2012 Critics' Choice Awards Beauty Trend: Bold Lipstick”. POPSUGAR Beauty Australia.
  30. ^ “Best Nude Lipstick”. bestnudelipstick.com.
  31. ^ Günther Schneider, Sven Gohla, Jörg Schreiber, Waltraud Kaden, Uwe Schönrock, Hartmut Schmidt-Lewerkühne, Annegret Kuschel, Xenia Petsitis, Wolfgang Pape, Hellmut Ippen and Walter Diembeck "Skin Cosmetics" in Ullmann's Encyclopedia of Industrial Chemistry 2005, Wiley-VCH, Weinheim. doi:10.1002/14356007.a24_219
  32. ^ My Product Alert: Extensive Report on Lead in Lipsticks
  33. ^ US FDA: Document on Lead in Candy
  34. ^ FDA Lipstick and Lead: Questions and Answers
  35. ^ “Charbert Perfumes”. Cleopatra's Boudoir. 18 tháng 1 năm 2014. Truy cập ngày 26 tháng 4 năm 2014.
  36. ^ Noah, Timothy (16 tháng 6 năm 2005). “Drumstick Lipstick Explained! A decades-long mystery is solved”. Slate. Truy cập ngày 26 tháng 4 năm 2014.