Lặc Khắc Đức Hồn

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Đây là một phiên bản cũ của trang này, do NhacNy2412 (thảo luận | đóng góp) sửa đổi vào lúc 15:13, ngày 16 tháng 7 năm 2020 (Tạo với bản dịch của trang “勒克德浑”). Địa chỉ URL hiện tại là một liên kết vĩnh viễn đến phiên bản này của trang, có thể khác biệt rất nhiều so với phiên bản hiện hành.

(khác) ← Phiên bản cũ | Phiên bản mới nhất (khác) | Phiên bản mới → (khác)

Lặc Khắc Đức Hồn (chữ Hán: 勒克德浑, tiếng Mãn: ᠯᡝᡴᡩᡝᡥᡠᠨ, chuyển tả: Lekdehun, 25 tháng 6 năm 1629 - 4 tháng 5 năm 1652), Ái Tân Giác La, là một Hoàng thân thuộc 1 trong 12 Thiết mạo tử vương của nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc.

Cuộc sống

Lặc Khắc Đức Hồn sinh vào giờ Thìn, ngày 5 tháng 5 (âm lịch) năm Thiên Thông thứ 3 (1629) trong gia tộc Ái Tân Giác La. Ông là cháu nội của Lễ Liệt Thân vương Đại Thiện, là con trai thứ hai của Dĩnh Nghị Thân vương Tát Cáp Lân. Mẹ ông là Đích Phúc tấn Nạp Lạt thị, con gái của Ô Lạp Bối lặc Bố Chiếm Thái.

Năm Thiên Thông thứ 8 (1643), anh cả của ông là Đa Đạt Lễ và chú của ông là Thạc Thác vì mưu lập Đa Nhĩ Cổn mà bị xử tử, ông cũng bị liên lụy mà truất đi tư cách Tông thất.

Năm Thuận Trị nguyên niên (1644), ông được khôi phục thân phận Tông thất và phong làm là Bối lặc.

Năm thứ 2 (1645), Thuận Trị Đế phong ông làm "Bình Nam Đại tướng quân", thay thế Dự Thân vương Đa Đạc đóng quân ở Giang Ninh. Vào thời điểm đó, Minh triều Lỗ vương Chu Dĩ Hải ở phía đông Chiết Giang tự xưng Giám quốc, Đại học sĩ Mã Sĩ Anh thống suất quân đội vượt sông Tiền Đường ý đồ thu phục Hàng Châu, Lặc Khắc Đức Hồn lập tức suất quân đánh bại quân Nam Minh. Vào tháng 11 cùng năm, Hà Đằng Giao - Hồ Quảng Tổng đốc của Hoàng đế Nam Minh Chu Duật Kiện đã thu nhận tàn dư của Lý Tự Thành, Lặc Khắc Đức Hồn cùng với Trấn quốc Tướng quân Củng A Đại[1] lập tức mang quân đi thảo phạt.

Năm thứ 3 (1646), tháng giêng, ông lần lượt đánh hạ Vũ Xương, Lâm Tương, Nhạc Châu, Thạch Thủ, Kinh Châu, Tương Dương, Di Lăng Châu. Sau khi thu quân về triều, ông được ban thưởng trăm lượng vàng, hai ngàn lượng bạc.

Năm thứ 5 (1648), tháng 9, ông được phong làm Thuận Thừa Quận vương. Ông cùng với Trịnh Thân vương Tế Nhĩ Cáp Lãng đốc quân đánh hạ Tương Đàm, bắt sống Hà Đằng Giao. Sau đó ông suất lĩnh quân Thanh tiến vào Quảng Tây, tấn công Toàn Châu, đánh hạ Vĩnh An quan (永安关).

Năm thứ 7 (1650), luận công ban thưởng, ông được thưởng 50 lượng vàng và 5 ngàn lượng bạc.

Năm thứ 8 (1651), ông chưởng quản sự vụ Hình bộ.

Năm thứ 9 (1652), giờ Tuất, ngày 27 tháng 3 (âm lịch), ông qua đời khi mới 24 tuổi.

Năm Khang Hi thứ 10 (1671), ông được truy thụy "Cung Huệ" (恭惠).

Gia quyến

Thê thiếp

  • Đích Phúc tấn: Bác Nhĩ Tế Cát Đặc thị (博爾濟吉特氏), con gái của Công tước Y Đồ Tề Đổng Quả La (伊尔图齐董果罗) của Khoa Nhĩ Thấm.
  • Kế Phúc tấn: Tha Tháp Lạp thị (他塔喇氏), con gái của Đầu đẳng Thị vệ Đại Cung (岱恭).
  • Trắc Phúc tấn: Trát Nhĩ Cát thị (噶爾扎氏), con gái của Công tước Hỗ Lý Thái (祜里泰). Nguyên là thiếp thất. Năm Khang Hi thứ 55 (1716) được con trai thỉnh truy phong làm Trắc Phúc tấn.
  • Thiếp: Lưu thị (劉氏), con gái của Lưu Cửu Vũ (刘久武).

Hậu duệ

Con trai

  1. Cáp Nhĩ Cáp (哈爾哈, 1644 - 1645), mẹ là Đích Phúc tấn Bác Nhĩ Tế Cát Đặc thị. Chết yểu.
  2. Tát Lạt (薩喇, 1649 - 1693), mẹ là Lưu thị. Có bốn con trai.
  3. Nặc La Bố (諾羅布, 24 tháng 3 năm 1650 - 17 tháng 3 năm 1717), mẹ là Trắc Phúc tấn Trát Nhĩ Cát thị. Từng nhậm chức Đầu đẳng Thị vệ, Đô thống, Nghị chính đại thần, Hữu dực Tiền phong thống lĩnh, Hàng Châu Tướng quân. Năm 1715 được tập tước Thuận Thừa Quận vương đời thứ 7. Sau khi qua đời được truy thụy "Thuận Thừa Trung Quận vương" (順承忠郡王). Có bảy con trai.
  4. Lặc Nhĩ Cẩm (勒爾錦, tiếng Mãn: ᠯᡝᡵᡤᡳᠶᡝᠨ, chuyển tả: Lergiyen, 29 tháng 1 năm 1652 - 7 tháng 9 năm 1706), mẹ là Kế Phúc tấn Tha Tháp Lạp thị. Năm 1652 tập tước Thuận Thừa Quận vương đời thứ 2. Từng chưởng quản Tông Nhân phủ. Năm 1673 nhậm chức "Ninh Nam Tĩnh Khấu Đại tướng quân", thảo phạt Ngô Tam Quế. Năm 1680 vì làm lỡ việc quân cơ mà ông bị cách chức tướng quân, lột bỏ tước vị, do con trai thứ ba của ông là Lặc Nhĩ Bối thừa tập Thuận Thừa Quận vương. Có mười bốn con trai.

Chú thích

  1. ^ Củng A Đại (鞏阿岱) là con trai thứ tư của Đốc Nghĩa Cương Bối lặc Ba Nhã Lạt - em trai của Nỗ Nhĩ Cáp Xích

Tham khảo