Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Núi Bân”
n chỉnh lại một vài câu |
|||
Dòng 1: | Dòng 1: | ||
[[Hình:Festival Huế 2008-8.JPG|nhỏ|phải| |
[[Hình:Festival Huế 2008-8.JPG|nhỏ|phải|250px|Tái hiện Lễ đăng quang của Hoàng đế Quang Trung tại Núi Bân]] |
||
'''Núi Bân''' |
'''Núi Bân''' cao 43,92[[m]], [[diện tích]] 80.956[[m2]]; ở xứ Cồn Mồ, thuộc xóm Hành, thôn Tứ Tây, xã Thủy An (nay là phường An Tây, thành phố [[Huế]]). Thời [[nhà Nguyễn]], núi Bân thuộc địa phận xã An Cựu, huyện [[Hương Trà]]. |
||
Đây là nơi Bắc Bình Vương [[Nguyễn Huệ]] cho lập đàn (Đàn Nam Giao [[nhà Tây Sơn|Tây Sơn]]) để làm lễ tế cáo trời, lên ngôi Hoàng đế và xuất quân ra [[Bắc Hà]] đánh quân [[nhà Thanh|Thanh]] xâm lược vào ngày 25 tháng 11 năm [[Mậu Thân]] (22 tháng 12 năm 1788). |
|||
==Vị trí, tên gọi== |
|||
'''Núi Bân''' ở xứ Cồn Mồ, thuộc xóm Hành, thôn Tứ Tây, xã Thủy An (nay là phường An Tây, thành phố Huế). Thời [[nhà Nguyễn]], núi Bân thuộc địa phận xã An Cựu, huyện [[Hương Trà]]. |
|||
==Tên gọi== |
|||
Khi xưa, không rõ núi tên gì, nhưng từ khi Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ cho ban xẻ núi Bân thành ba tầng, để lập đàn tế cáo trời thì nhân nhân gọi núi là ''Động Tầng, Ba Tầng, Tam Tầng, Ba Vành, Hòn Thiên''. |
Khi xưa, không rõ núi tên gì, nhưng từ khi Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ cho ban xẻ núi Bân thành ba tầng, để lập đàn tế cáo trời thì nhân nhân gọi núi là ''Động Tầng, Ba Tầng, Tam Tầng, Ba Vành, Hòn Thiên''. |
||
Theo PGS, TS. Đỗ Bang, thì rất có thể Nguyễn Huệ là người đã đặt tên Bân cho núi (nơi mà ông chọn để đắp đàn), với nghĩa: ''trong và ngoài đều hoàn mỹ''. |
Theo PGS, TS. Đỗ Bang, thì rất có thể Nguyễn Huệ là người đã đặt tên ''Bân'' cho núi (nơi mà ông chọn để đắp đàn), với nghĩa: ''trong và ngoài đều hoàn mỹ''. |
||
Sách [[Hoàng Lê nhất thống chí]] (bản của [[Ngô Thời Chí]]) chép nhầm chữ ''Bân'' ([[chữ Hán]]) thành chữ ''Sam''. Và khi phiên âm, các tác giả [[Trần Trọng Kim]], [[Hoa Bằng]], [[Phan Trần Chúc]] đều đã ghi nhầm chữ ''Bân'' thành chữ ''Bàn''. |
Sách [[Hoàng Lê nhất thống chí]] (bản của [[Ngô Thời Chí]]) chép nhầm chữ ''Bân'' ([[chữ Hán]]) thành chữ ''Sam''. Và khi phiên âm, các tác giả [[Trần Trọng Kim]], [[Hoa Bằng]], [[Phan Trần Chúc]] đều đã ghi nhầm chữ ''Bân'' thành chữ ''Bàn''. |
||
==Đàn Nam Giao Tây Sơn== |
==Đàn Nam Giao Tây Sơn== |
||
Để trở thành Đàn Nam Giao, những người thiết kế và thi công đã ban xẻ núi Bân thành ba khối hình nón cụt chồng lên nhau tăng dần theo chiều cao. |
|||
Từ chân núi lên đỉnh ở độ cao 39m, là tầng thứ nhất có chu vi 220m. Bề rộng của tầng này không đều nhau: phía Bắc rộng 19m, phía Nam rộng 16,80m. Phía Tây và phía Đông chỉ rộng chừng 12m. Ngay ở chính giữa mặt tầng thứ nhất về phía Tây |
Từ chân núi lên đỉnh ở độ cao 39m, là tầng thứ nhất có [[chu vi]] 220m. Bề rộng của tầng này không đều nhau: [[phía Bắc]] rộng 19m, [[phía Nam]] rộng 16,80m. [[Phía Tây]] và [[phía Đông]] chỉ rộng chừng 12m. Ngay ở chính giữa mặt tầng thứ nhất về [[phía Tây Nam]], hiện còn dấu vết một tầng phụ cao 1m. |
||
Tầng thứ hai ở độ cao 42m, có chu vi 122,5m, bề rộng của tầng này là: Phía bắc: 8,4m; phía Nam:10,3m; Phía Tây và phía Đông chừng 11,5m. |
Tầng thứ hai ở độ cao 42m, có chu vi 122,5m, bề rộng của tầng này là: Phía bắc: 8,4m; phía Nam:10,3m; Phía Tây và phía Đông chừng 11,5m. |
||
Dòng 22: | Dòng 22: | ||
Có bốn con đường đi lên đỉnh, bề rộng các con đường này càng lên cao càng thu hẹp dần, bề ngang ở tầng thứ nhất là 5,2m, ở tầng thứ hai chỉ còn 4 m… |
Có bốn con đường đi lên đỉnh, bề rộng các con đường này càng lên cao càng thu hẹp dần, bề ngang ở tầng thứ nhất là 5,2m, ở tầng thứ hai chỉ còn 4 m… |
||
Và để tạo nên thế vững chắc cho đàn nhằm sử dụng lâu dài, người ta đã dùng gạch và đá xếp bó vỉa quanh ba tầng đàn. Do vậy, sau khi Nguyễn Huệ làm lễ lên ngôi và xuất quân ra Bắc năm 1788, thì đàn vẫn được tiếp tục sử dụng để làm lễ cáo trời |
Và để tạo nên thế vững chắc cho đàn nhằm sử dụng lâu dài, người ta đã dùng gạch và đá xếp bó vỉa quanh ba tầng đàn. Do vậy, sau khi Nguyễn Huệ làm lễ lên ngôi và xuất quân ra [[miền Bắc Việt Nam|Bắc]] năm 1788, thì đàn vẫn được tiếp tục sử dụng để làm lễ cáo trời cho đến khi [[Phú Xuân]] (Huế) bị chúa [[Nguyễn Phúc Ánh]] dẫn quân ra chiếm lấy vào năm [[Tân Dậu]] (1801). |
||
==Câu đối liên quan== |
==Câu đối liên quan== |
Phiên bản lúc 12:36, ngày 27 tháng 5 năm 2010
Núi Bân cao 43,92m, diện tích 80.956m2; ở xứ Cồn Mồ, thuộc xóm Hành, thôn Tứ Tây, xã Thủy An (nay là phường An Tây, thành phố Huế). Thời nhà Nguyễn, núi Bân thuộc địa phận xã An Cựu, huyện Hương Trà.
Đây là nơi Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ cho lập đàn (Đàn Nam Giao Tây Sơn) để làm lễ tế cáo trời, lên ngôi Hoàng đế và xuất quân ra Bắc Hà đánh quân Thanh xâm lược vào ngày 25 tháng 11 năm Mậu Thân (22 tháng 12 năm 1788).
Tên gọi
Khi xưa, không rõ núi tên gì, nhưng từ khi Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ cho ban xẻ núi Bân thành ba tầng, để lập đàn tế cáo trời thì nhân nhân gọi núi là Động Tầng, Ba Tầng, Tam Tầng, Ba Vành, Hòn Thiên.
Theo PGS, TS. Đỗ Bang, thì rất có thể Nguyễn Huệ là người đã đặt tên Bân cho núi (nơi mà ông chọn để đắp đàn), với nghĩa: trong và ngoài đều hoàn mỹ.
Sách Hoàng Lê nhất thống chí (bản của Ngô Thời Chí) chép nhầm chữ Bân (chữ Hán) thành chữ Sam. Và khi phiên âm, các tác giả Trần Trọng Kim, Hoa Bằng, Phan Trần Chúc đều đã ghi nhầm chữ Bân thành chữ Bàn.
Đàn Nam Giao Tây Sơn
Để trở thành Đàn Nam Giao, những người thiết kế và thi công đã ban xẻ núi Bân thành ba khối hình nón cụt chồng lên nhau tăng dần theo chiều cao.
Từ chân núi lên đỉnh ở độ cao 39m, là tầng thứ nhất có chu vi 220m. Bề rộng của tầng này không đều nhau: phía Bắc rộng 19m, phía Nam rộng 16,80m. Phía Tây và phía Đông chỉ rộng chừng 12m. Ngay ở chính giữa mặt tầng thứ nhất về phía Tây Nam, hiện còn dấu vết một tầng phụ cao 1m.
Tầng thứ hai ở độ cao 42m, có chu vi 122,5m, bề rộng của tầng này là: Phía bắc: 8,4m; phía Nam:10,3m; Phía Tây và phía Đông chừng 11,5m.
Tầng thứ ba ở ngay đỉnh đồi, bề mặt khá phẳng, có chu vi 52,7m.
Có bốn con đường đi lên đỉnh, bề rộng các con đường này càng lên cao càng thu hẹp dần, bề ngang ở tầng thứ nhất là 5,2m, ở tầng thứ hai chỉ còn 4 m…
Và để tạo nên thế vững chắc cho đàn nhằm sử dụng lâu dài, người ta đã dùng gạch và đá xếp bó vỉa quanh ba tầng đàn. Do vậy, sau khi Nguyễn Huệ làm lễ lên ngôi và xuất quân ra Bắc năm 1788, thì đàn vẫn được tiếp tục sử dụng để làm lễ cáo trời cho đến khi Phú Xuân (Huế) bị chúa Nguyễn Phúc Ánh dẫn quân ra chiếm lấy vào năm Tân Dậu (1801).
Câu đối liên quan
Tại đền thờ Quang Trung ở chân núi Liên Phong, gần cửa biển Lạch Bạng, thuộc xã Hải Thượng, huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa, còn lưu hai câu đối trên hai trụ gạch trước cổng đền, như sau:
- Anh hùng thanh sất Bân Sơn cổ,
- Miếu mạo quang lưu Bạng hải kim.
Tạm dịch:
- Tiếng thét của người anh hùng vang dậy từ núi Bân xưa
- Ánh sáng của tòa miếu mạo còn tỏa chiếu nơi cửa Bạng ngày nay.
Khu tưởng niệm
Khu tưởng niệm anh hùng dân tộc Hoàng đế Quang Trung tại di tích lịch sử núi Bân, có diện tích 9,5ha được khởi công xây dựng từ năm 2008 với nhiều hạng mục, trong đó tượng đài đặc tả chân dung vua Quang Trung cao 21m, thân tượng cao 12m được làm bằng đá hoa cương.
Năm 1988, Núi Bân (Bân Sơn) đã được công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia.
Tài liệu tham khảo
- PGS, TS. Đỗ Bang, Bân Sơn và ý nghĩa của sự kiện 22 tháng 12 năm 1788. Bài viết in trong sách Tây Sơn- Thuận Hóa và anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ- Qaung Trung. Nxb Chính Trị Quốc Gia, 2009.
- GS. Nguyễn Khắc Thuần, Danh tướng Việt Nam (tập 3). Nxb Giáo Dục, 2005.