Dyanne Bito

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Dyanne Bito
Thông tin cá nhân
Tên đầy đủ Dyanne Marie Christine Bito
Ngày sinh 10 tháng 8, 1981 (42 tuổi)
Nơi sinh Curaçao
Chiều cao 1,63 m (5 ft 4 in)
Vị trí Forward, Defender
Sự nghiệp cầu thủ trẻ
Năm Đội
1994–1998 Geel-Wit
1998–2000 TYBB
Sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp*
Năm Đội ST (BT)
2000–2004 Wartburgia
2004–2007 Heike Rheine 63 (30)
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia
Năm Đội ST (BT)
2000–2015 Netherlands 146 (6)
*Số trận ra sân và số bàn thắng ở câu lạc bộ tại giải quốc gia

Dyanne Marie Christine Bito [1] (phát âm tiếng Hà Lan[diˈɑnə maːˈri krɪsˈtinə ˈbitoː]; sinh ngày 10 tháng 8 năm 1981) là một cựu hậu vệ bóng đá nữ người Hà Lan, từng chơi cho đội tuyển bóng đá quốc gia nữ Hà Lan và câu lạc bộ ở Hà Lan và Đức.

Sự nghiệp câu lạc bộ[sửa | sửa mã nguồn]

Bito bắt đầu sự nghiệp tại Haarlem, nơi cô thi đấu cho Geel-Wit năm 1994, cô chuyển đến The Yellow Black Boys (TYBB) năm 1998 và đến ASV Wartburgia năm 2000.[1][2]

Năm 2004, cô ký hợp đồng với câu lạc bộ FFC Heike Rheine của Bundesliga Đức. Cô ở lại Đức trong 3 mùa giải và ghi 30 bàn với 63 lần ra sân.[3]

Cô trở về Hà Lan trước mùa giải 2007-08 và chơi cho ADO Den Haag trong lễ khai mạc Eredivisie nữ.[1] Cho đến thời điểm đó trong sự nghiệp, Bito đã chơi như một tiền đạo nhưng tại ADO, cô bắt đầu chơi như một hậu vệ phải.[4] Cô cũng xuất hiện lần đầu tại Cúp bóng đá nữ UEFA (nay được gọi là Giải vô địch nữ UEFA) trong trận đấu vòng loại đầu tiên của Cúp bóng đá nữ UEFA 2007 với KÍ của Quần đảo Faroe.[5]

Năm 2008, cô ký hợp đồng với AZ Alkmaar và giành được các danh hiệu Eredivisie trong năm 2008-09 [6] và 2009-10.[7] Bito đã giành Cúp nữ KNVB năm 2010-11, cô đã chơi trong trận chung kết trong trận đấu AZ đánh bại SC Heerenveen 2-0.[8]

Khi AZ quyết định dừng các hoạt động bóng đá nữ sau khi kết thúc mùa giải 2010-11,[9] Bito là một trong số nhiều cầu thủ chuyển đến câu lạc bộ mới thành lập Telstar.[10] Cô đã chơi trong BeNe League, khi nó thay thế Eredivisie vào năm 2012. Sau bốn mùa ở câu lạc bộ, Bito tuyên bố từ giã sự nghiệp bóng đá vào năm 2015.[11][12]

Sự nghiệp quốc tế[sửa | sửa mã nguồn]

Trong 15 năm, Bito là thành viên của đội tuyển quốc gia Hà Lan. Trận ra mắt của cô là gặp Hungary vào ngày 14 tháng 10 năm 2000, cô vào sân thay người ở phút thứ 75 của trận đấu trên sân khách trong trận play-off vòng loại Euro 2001 của UEFA mà Hà Lan thắng 3-0.[1][5][13][14]

Cô là một phần của đội tuyển Hà Lan thi đấu UEFA Women's Euro 2009 tại Phần Lan.[12] Vào tháng 12 năm 2009, khi đó, huấn luyện viên quốc gia Vera Pauw đã rời Bito và Claudia van den Heiligenberg ra khỏi đội hình trước trận đấu với Belarus. Quyết định này đã gây tranh cãi và được báo cáo rằng bộ đôi này đã bị đuổi vì họ đang trong một mối quan hệ.[15] Pauw giận dữ bác bỏ các yêu sách, nói rằng đó là một sự xúc phạm khi cho rằng họ bị loại vì mối quan hệ của họ.[16] Van den Heiligenberg và Bito vẫn ở cùng nhau [17] và cả hai đã được trở lại vào đội tuyển quốc gia bởi huấn luyện viên quốc gia Roger Reijners vào năm 2010.

Vào ngày 22 tháng 4 năm 2010, Bito xuất hiện lần thứ 100 cho đội tuyển quốc gia Hà Lan tại trận đấu vòng loại FIFA World Cup 2011 với đội tuyển Macedonia.[1]

Vào tháng 6 năm 2013, huấn luyện viên đội tuyển quốc gia Roger Reijners đã chọn Bito trong đội hình cho UEFA Women's Euro 2013 tại Thụy Điển.[18]

Reijners đã chọn Brito là một phần của đội tuyển Hà Lan cho FIFA World Cup 2015 tại Canada.[19] Ngay sau khi kết thúc giải đấu, cô tuyên bố giã từ sự nghiệp bóng đá và vào thời điểm đó, cô là cầu thủ quốc tế người Hà Lan được giới thiệu nhiều thứ hai với 146 lần ra sân (chỉ sau 156 của Annemieke K Diesel).[12]

Danh hiệu[sửa | sửa mã nguồn]

AZ Alkmaar
  • Eredivisie (2): 2008-09 và 2009-10
  • Cúp nữ KNVB (1): 2010111

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b c d e “Profile”. vrouwenvoetbalnederland (bằng tiếng Hà Lan). ngày 26 tháng 3 năm 2015. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 15 tháng 7 năm 2019.
  2. ^ Hofmann, Pieter (ngày 19 tháng 8 năm 2015). 'Vrouwenvoetbal toch een ondergeschoven kindje'. Omroep NTR (bằng tiếng Hà Lan).
  3. ^ “Profile”. DFB (bằng tiếng Đức). Truy cập ngày 1 tháng 12 năm 2016.
  4. ^ “Heike Rheine Kader Frauen Bundesliga 2006/07”. DFB (bằng tiếng Đức). Truy cập ngày 1 tháng 12 năm 2016.
  5. ^ a b “Dyanne Bito”. UEFA. Truy cập ngày 1 tháng 12 năm 2016.
  6. ^ “AZ Vrouwen kampioen na galavoorstelling”. AZ Alkmaar (bằng tiếng Hà Lan). ngày 28 tháng 5 năm 2009.
  7. ^ “AZ Vrouwen wederom kampioen na monsterzege”. AZ Alkmaar (bằng tiếng Hà Lan). ngày 12 tháng 5 năm 2010.
  8. ^ “AZ Vrouwen veroveren KNVB beker”. AZ Alkmaar (bằng tiếng Hà Lan). ngày 21 tháng 5 năm 2011.
  9. ^ “AZ stopt met vrouwenvoetbal”. AZ Alkmaar (bằng tiếng Hà Lan). ngày 22 tháng 2 năm 2011.
  10. ^ “Dyanne Bito aan het woord”. Telstar (bằng tiếng Hà Lan). ngày 9 tháng 7 năm 2013.
  11. ^ “Dyanne Bito benoemd tot bondsridder”. Telstar (bằng tiếng Hà Lan). ngày 12 tháng 3 năm 2016.
  12. ^ a b c van As, Inge (ngày 28 tháng 7 năm 2015). “Dyanne Bito: 'Moeilijke beslissing'. Onsoranje (bằng tiếng Hà Lan). Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 12 năm 2016. Truy cập ngày 15 tháng 7 năm 2019.
  13. ^ “Profile”. FIFA. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 6 năm 2015. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2015.
  14. ^ “Hungary 0-3 Netherlands match report”. Onsoranje (bằng tiếng Hà Lan). Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 12 năm 2016. Truy cập ngày 1 tháng 12 năm 2016.
  15. ^ 'Verliefde' speelsters uit Oranje gezet” (bằng tiếng Hà Lan). Algemeen Dagblad. ngày 1 tháng 12 năm 2009. Truy cập ngày 23 tháng 7 năm 2013.
  16. ^ 'Verhaal gebaseerd op leugens' [Story based on lies]. OnsOranje.NL (bằng tiếng Hà Lan). Royal Dutch Football Association. ngày 2 tháng 12 năm 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 2 năm 2010. Truy cập ngày 23 tháng 7 năm 2013.
  17. ^ Hoogenboom, Alieke. 'Mijn werk combineren met voetbal is zwaar' (bằng tiếng Hà Lan). Hier! in de Regio. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 8 năm 2015. Truy cập ngày 23 tháng 7 năm 2013.
  18. ^ “Trio miss cut in Netherlands squad”. UEFA. ngày 30 tháng 6 năm 2013. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2013.
  19. ^ “2015 World Cup Squads” (PDF). FIFA. Truy cập ngày 1 tháng 12 năm 2016.

liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]