Ernst I xứ Sachsen-Coburg và Gotha
Ernst I xứ Sachsen-Coburg và Gotha | |
---|---|
Chân dung của George Dawe (c. 1819) | |
Công tước xứ Sachsen-Coburg-Saalfeld (Ernst III) | |
Tại vị | 9 tháng 12 năm 1806 – 12 tháng 11 năm 1826 |
Tiền nhiệm | Franz |
Công tước xứ Sachsen-Coburg và Gotha (Ernst I) | |
Tại vị | 12 tháng 11 năm 1826 – 29 tháng 1 năm 1844 |
Tiền nhiệm | Friedrich IV |
Kế nhiệm | Ernst II |
Thông tin chung | |
Sinh | Coburg, Sachsen-Coburg-Saalfeld, Đế chế La Mã Thần thánh | 2 tháng 1 năm 1784
Mất | 29 tháng 1 năm 1844 Gotha, Sachsen-Coburg và Gotha, Bang liên Đức | (60 tuổi)
An táng | Morizkirche, then Friedhof am Glockenberg |
Hậu duệ | |
Gia tộc |
|
Thân phụ | Franz xứ Sachsen-Coburg-Saalfeld |
Thân mẫu | Augusta Reuß xứ Ebersdorf |
Tôn giáo | Tin Lành |
Ernst I (tiếng Đức: Ernst Anton Karl Ludwig; 2 tháng 1 năm 1784 – 29 tháng 1 năm 1844) từng là công tước có chủ quyền cuối cùng của Sachsen-Coburg-Saalfeld (với công hiệu là Ernst III) từ năm 1806 đến năm 1826 và là công tước có chủ quyền đầu tiên của Sachsen-Coburg và Gotha từ năm 1826 đến năm 1844. Ernst đã chiến đấu chống lại Napoléon Bonaparte, và thông qua các dự án xây dựng cũng như việc thành lập một nhà hát cung đình, ông đã để lại dấu ấn mạnh mẽ cho Coburg - nơi ông cư trú.
Năm 1825, người họ hàng của ông là Friedrich IV xứ Sachsen-Gotha-Altenburg qua đời mà không có con cái thừa tự, vì thế mà các công tước Ernestine được thừa kế tài sản và lãnh thổ của Sachsen-Gotha-Altenburg, trong đó Ernst nhận được Gotha nhưng phải mất Saalfeld cho Công tước xứ Sachsen-Meiningen. Từ dấu mốc này, Công quốc Sachsen-Coburg-Saalfeld được đổi thành Sachsen-Coburg và Gotha và khai sinh ra Nhà Sachsen-Coburg và Gotha.
Ông là cha của Vương tế Albrecht, chồng của Nữ vương Victoria. Vì thế, các vị quân chủ của Vương quốc Anh từ vua Edward VII cho đến Nữ vương Elizabeth II đều là hậu duệ dòng nam của Vương tộc Sachsen-Coburg và Gotha. Ernst là anh trai của Thân vương Ferdinand xứ Sachsen-Coburg và Gotha, người đã kết hôn với Thân vương nữ Mária Antónia nữ thừa kế của Nhà Koháry, một trong 3 chủ đất lớn nhất ở Vương quốc Hungary, và tạo ra Vương tộc Sachsen-Coburg và Gotha-Koháry, nắm giữ các ngai vàng Vương quốc Bồ Đào Nha và Vương quốc Bulgaria sau này.[1]:47 Ông cũng là anh trai của Thân vương Leopold, người đã được bầu chọn lên ngai vàng của Vương quốc Bỉ vào năm 1831 và con cháu ông vẫn trị vì vương quốc này cho đến tận ngày nay.[2][3]
Đối với Nữ vương Victoria, Ernst vừa là bố chồng vừa là cậu ruột của bà, vì mẹ của Victoria là Victorie xứ Sachsen-Coburg-Saalfeld, em gái ruột của ông.[4]
Cuộc sống đầu đời[sửa | sửa mã nguồn]
Ernst sinh ngày 2 tháng 1 năm 1784. Ông là con trai cả của Franz xứ Sachsen-Coburg-Saalfeld và Augusta Reuß xứ Ebersdorf. Em trai út của ông, Leopold, sau này được bầu làm vị vua đầu tiên của Vương quốc Bỉ.
Vào ngày 10 tháng 5 năm 1803, ở tuổi 19, Ernst được tuyên bố là đã đủ tuổi trường thành và vì cha ông bị bệnh nặng nên ông đã đảm nhận vị trí nhiếp chính vương cho công quốc. Khi cha ông qua đời năm 1806, ông kế vị trở thành công tước xứ Sachsen-Coburg-Saalfeld với công hiệu Ernst III. Tuy nhiên, ông không thể ngay lập tức nắm quyền quản lý chính thức vùng đất của mình, vì công quốc đã bị quân đội Đệ Nhất Đế chế Pháp của Napoléon I chiếm đóng. Năm sau, Hòa ước Tilsit (1807) được ký kết, công quốc Sachsen-Coburg-Saalfeld được thống nhất (trước đó đã bị giải thể) và Ernst được phục vị.[5] Điều này xảy ra do Đế quốc Nga tạo áp lực lên Pháp, vì chị gái của ông là Công nữ Juliane đã kết hôn với em trai của Sa hoàng Nga.
Hôn nhân và hậu duệ[sửa | sửa mã nguồn]
Ernest kết hôn với Công nữ Louise xứ Sachsen-Gotha-Altenburg ở Gotha vào ngày 31 tháng 7 năm 1817. Họ có hai người con:
- Ernst II, Công tước xứ Sachsen-Coburg và Gotha (21 tháng 6 năm 1818 – 22 tháng 8 năm 1893), kết hôn với Alexandrine xứ Baden vào ngày 3 tháng 5 năm 1842.
- Công tử Albrecht xứ Sachsen-Coburg và Gotha (26 tháng 8 năm 1819 – 14 tháng 12 năm 1861), kết hôn với Nữ vương Victoria của Vương quốc Liên hiệp Anh vào ngày 10 tháng 2 năm 1840. Họ có 9 người con.
Cuộc hôn nhân không hạnh phúc vì cả hai vợ chồng đều lăng nhăng, Ernst và Louise ly thân vào năm 1824 và chính thức ly hôn vào ngày 31 tháng 3 năm 1826. Là những người thừa kế của Coburg, những đứa trẻ ở lại với cha của họ. Louise qua đời năm 1831.[6]
Tại Coburg vào ngày 23 tháng 12 năm 1832, Ernst kết hôn với cháu gái của mình là Nữ công tước Marie xứ Württemberg, con gái của chị gái ông, Antoinette. Họ không có con. Cuộc hôn nhân này khiến Marie vừa là em họ đời đầu của Công tử Albrecht vừa là mẹ kế của ông.
Ernst có ba đứa con ngoài giá thú:
- Berta Ernestine von Schauenstein (26 tháng 1 năm 1817 – Coburg, 15 tháng 8 năm 1896), sinh ra bởi Sophie Fermepin de Marteaux. Cô kết hôn với người anh họ đầu tiên của mình là Eduard Edgar Schmidt-Löwe von Löwenfels, con trai ngoài giá thú của chị gái của cha cô, Juliane.
- Ernst Albert và Robert Ferdinand, cặp song sinh sinh năm 1838, sinh ra bởi Margaretha Braun. Chúng được ban tước hiệu Freiherren xứ Bruneck vào năm 1856.
Điền trang[sửa | sửa mã nguồn]
Sau năm 1813, Ernst là tướng Phổ và tham gia các hoạt động quân sự chống lại quân Pháp của Hoàng đế Napoléon I. Ông đã chiến đấu trong các trận Lützen và Leipzig (1813), và năm 1814 đã tiến vào pháo đài Mainz của Pháp.[1] Sau trận Leipzig, ông chỉ huy Quân đoàn 5.[5] After the battle of Leipzig, he commanded the 5. Armeekorps.[1]:106
Sau thất bại của Napoléon trong trận Waterloo, Đại hội Viên vào ngày 9 tháng 6 năm 1815 đã trao cho Ernst một khu vực rộng 450 km2 với 25.000 cư dân xung quanh thị trấn Sankt Wendel. Diện tích của nó được tăng thêm phần nào nhờ Hiệp ước Paris thứ hai.[5] Năm 1816, khu đất này được đổi tên thành Thân vương quốc Lichtenberg. Ernst bán nó cho Vương quốc Phổ vào năm 1834.[1]:106
Năm 1825, Friedrich IV, Công tước xứ Sachsen-Gotha-Altenburg, chú của Louise, người vợ đầu tiên của Ernst, qua đời mà không có người thừa kế. Điều này dẫn đến việc sắp xếp lại các công quốc Ernestine. Chỉ với tư cách là một thành viên của triều đại Ernestine (chứ không phải với tư cách là chồng của Louise), Ernest mới có quyền đòi thừa kế tài sản của cố công tước. Tuy nhiên, lúc đó ông đang làm thủ tục ly hôn với Louise, và các chi nhánh khác đã lợi dụng điều này như một đòn bẩy để đạt được một thỏa thuận tốt hơn cho mình bằng cách nhấn mạnh rằng ông ta không nên thừa kế Gotha. Họ đạt được thỏa hiệp vào ngày 12 tháng 11 năm 1826: Ernst nhận Gotha, nhưng phải nhượng Saalfeld cho Sachsen-Meiningen. Sau đó ông trở thành "Ernst I, Công tước xứ Sachsen-Coburg và Gotha". Mặc dù ông đã đưa ra hiến pháp cho Coburg vào năm 1821 nhưng ông không can thiệp vào hệ thống chính quyền ở Gotha.[5]
Tại Coburg, Ernst chịu trách nhiệm về nhiều dự án xây dựng khác nhau, bao gồm cả việc thành lập Hofttheater trong tòa nhà mới. Schlossplatz như ngày nay phần lớn là do hoạt động dưới sự cai trị của ông.[1]:107 Ông chủ yếu được nhớ đến vì sự phát triển kinh tế, giáo dục và hiến pháp của các lãnh thổ của mình, cũng như vị trí quốc tế quan trọng mà gia tộc Coburg đạt được.[5]
Qua đời[sửa | sửa mã nguồn]
Ernst qua đời vào ngày 29 tháng 1 năm 1844 và ban đầu được chôn cất tại Morizkirche nhưng sau đó được an táng trong lăng mộ mới xây ở Friedhof am Glockenberg.[1]:47
Vinh danh[sửa | sửa mã nguồn]
Ông đã nhận được các vinh dự sau:[7]
- Đế quốc Nga:
- Thanh kiếm vàng cho lòng dũng cảm, hạng kim cương, tháng 6 năm 1807[8]
- Hiệp sĩ Thánh George, hạng 4, 9 tháng 9 năm 1813[9]
- Hiệp sĩ Thánh Alexander Nevsky, hạng kim cương, 1813[8]
- Hiệp sĩ Thánh Andrew
- Hiệp sĩ Thánh Anna, hạng nhất
- * Vương quốc Sachsen:[10]
- Hiệp sĩ Rue Crown, 1810
- Thập tự lớn Huân chương quân sự Thánh Henry, 1815
- * Đế quốc Áo: Thập tự lớn Huân chương Thánh Stephen, 1820[11]
- Sachsen-Weimar-Eisenach: Thập tự lớn Đại bàng Trắng, 6 January 1828[12]
- Sachsen-Coburg và Gotha, Sachsen-Meiningen, Sachsen-Altenburg: Các công quốc Ernestine:
- Đồng sáng lập và Grand Master của Huân chương Nhà Sachsen-Ernestine, 25 tháng 12 năm 1833[13]
- Grand Master của Huân chương Thánh Joachim
- Belgium: Grand Cordon của Huân chương Leopold, 15 tháng 7 năm 1835[14]
- Kingdom of Portugal:[15]
- Thập tự lớn Tháp và Kiếm, 9 tháng 12 năm 1835
- Thập tự lớn Huân chương quân sự Hoàng gia Our Lord Jesus Christ, 23 tháng 4 năm 1836
- Liên hiệp Anh: Hiệp sĩ Stranger Garter, 16 tháng 7 năm 1838[16]
- Vương quốc Pháp: Thập tự lớn của Bắc Đẩu Bội Tinh, May 1840[17]
- Baden:[18]
- Hiệp sĩ của Huân chương Nhà Fidelity, 1842
- Thập tự lớn của Sư tử Zähringer, 1842
- Vương quốc Phổ:
Tổ tiên[sửa | sửa mã nguồn]
Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]
- ^ a b c d e Klüglein, Norbert (1991). Coburg Stadt und Land (German). Verkehrsverein Coburg.
- ^ Pirenne 1948, tr. 26.
- ^ Pirenne 1948, tr. 26–7.
- ^ Tom Levine: Die Windsors. Glanz und Tragik einer fast normalen Familie. Campus-Verlag, Frankfurt am Main u. a. 2005, ISBN 3-593-37763-2, S. 20.
- ^ a b c d e Chisholm, Hugh biên tập (1911). Encyclopædia Britannica. 9 (ấn bản 11). Cambridge University Press. tr. 751. .
- ^ Strachey, Lytton (1921). Queen Victoria. London: Chatto and Windus. pp. 97–98
- ^ Staatshandbücher für das Herzogtum Sachsen-Coburg und Gotha (1843), "Genealogie des Herzoglichen Hauses" pp. xxiii-xxiv
- ^ a b A.A. Podmazo biên tập (1996). “Словарь русских генералов, участников боевых действий против армии Наполеона Бонапарта в 1812—1815 гг” [Russian generals and participants in the hostilities against the army of Napoleon Bonaparte in 1812-1815.]. The History of the Fatherland in the Evidence and Documents of the XVIII — XX Centuries (bằng tiếng Nga). Russian archives. 7: 548.
- ^ Almanach de la cour: pour l'année ... 1817. l'Académie Imp. des Sciences. 1817. tr. 137.
- ^ Staatshandbuch für den Freistaat Sachsen: 1843. Heinrich. 1843. tr. 3, 5.
- ^ "A Szent István Rend tagjai" Lưu trữ 22 tháng 12 2010 tại Wayback Machine
- ^ Staatshandbuch für das Großherzogtum Sachsen / Sachsen-Weimar-Eisenach (1843), "Großherzogliche Hausorden" p. 7[liên kết hỏng]
- ^ Staatshandbücher ... Sachsen-Coburg und Gotha (1837), "Herzogliche Sachsen-Ernestinischer Hausorden" p. 10
- ^ H. Tarlier (1854). Almanach royal officiel, publié, exécution d'un arrête du roi (bằng tiếng Pháp). 1. tr. 37.
- ^ Bragança, Jose Vicente de (2014). “Agraciamentos Portugueses Aos Príncipes da Casa Saxe-Coburgo-Gota” [Portuguese Honours awarded to Princes of the House of Saxe-Coburg and Gotha]. Pro Phalaris (bằng tiếng Bồ Đào Nha). 9–10: 6–7. Truy cập ngày 28 tháng 11 năm 2019.
- ^ Shaw, Wm. A. (1906) The Knights of England, I, London, p. 55
- ^ M. & B. Wattel. (2009). Les Grand'Croix de la Légion d'honneur de 1805 à nos jours. Titulaires français et étrangers. Paris: Archives & Culture. tr. 522. ISBN 978-2-35077-135-9.
- ^ Hof- und Staats-Handbuch des Großherzogtum Baden (1843), "Großherzogliche Orden" pp. 31, 46
- August Beck: Ernst I.: Herzog Ernst Anton Karl Ludwig von Sachsen-Koburg-Gotha. In: Allgemeine Deutsche Biographie (ADB). Band 6, Duncker & Humblot, Leipzig 1877, p. 313–317.
- Carl-Christian Dressel: Die Entwicklung von Verfassung und Verwaltung in Sachsen-Coburg 1800–1826 im Vergleich. Duncker & Humblot Berlin 2007, ISBN 978-3-428-12003-1.
- Friedrich Knorr: Ernst I., Herzog von Sachsen-Coburg-Saalfeld. In: Neue Deutsche Biographie (NDB). Band 4, Duncker & Humblot, Berlin 1959, ISBN 3-428-00185-0, pp. 620.
- Heide Schulz: Freue Dich, Coburg. Die Ode H. C. A. Eichstädts zum Royal Wedding 1840, in: Coburger Geschichtsblätter 20, 2012, p. 25–54, ISSN 0947-0336.