Giáo phận Ubon Ratchathani

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Giáo phận Ubon Ratchathani

Dioecesis Ubonratchathaniensis

สังฆมณฑลอุบลราชธานี
Vị trí
Quốc gia Thái Lan
Giáo tỉnhGiáo tỉnh Thare và Nonseng
Tổng giáo phận đô thànhTổng giáo phận Thare và Nonseng
Thống kê
Khu vực53.917 km2 (20.817 dặm vuông Anh)
Dân số
- Địa bàn
- Giáo dân
(tính đến 2010)
7.785.113
26.242 (0,3%)
Thông tin
Giáo pháiCông giáo Rôma
Giáo hội Sui iurisGiáo hội Latinh
Nghi lễNghi lễ Rôma
Nhà thờ chính tòaNhà thờ chính tòa Đức Mẹ vô nhiễm nguyên tội tại Ubon Ratchathani
Lãnh đạo hiện tại
Giáo hoàngPhanxicô
Trưởng giáo tỉnh Antôn Weradet Chaiseri
Giám mục Philípphê Banchong Chaiyara
Bản đồ
Vị trí giáo phận Ubon Ratchathani
Vị trí giáo phận Ubon Ratchathani

Giáo phận Ubon Ratchathani (tiếng Thái: สังฆมณฑลอุบลราชธานี; tiếng Latinh: Dioecesis Ubonratchathaniensis) là một giáo phận của Giáo hội Công giáo RômaThái Lan. Lãnh đạo đuơng nhiệm của giáo phận là Giám mục Philípphê Banchong Chaiyara.

Địa giới[sửa | sửa mã nguồn]

Địa giới giáo phận bao gồm 7 tỉnh: Amnat Charoen, Maha Sarakham, Roi Et, Sisaket, Surin, Ubon RatchathaniYasothonThái Lan.

Tòa giám mục và Nhà thờ chính tòa Đức Mẹ vô nhiễm nguyên tội của giáo phận được đặt tại thành phố Ubon Ratchathani.

Giáo phận được chia thành 60 giáo xứ.

Lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]

Hạt Đại diện Tông tòa Ubon được thành lập vào ngày 7/5/1953 theo tông sắc Nos quibus của Giáo hoàng Piô XII trên phần lãnh thổ tách ra từ Hạt Đại diện Tông tòa Thare (nay là Tổng giáo phận Thare và Nonseng).

Vào ngày 22/3/1965 một phần lãnh thổ giáo phận được tách ra để thành lập Hạt Đại diện Tông tòa Nakhorn-Rajasima (nay là Giáo phận Nakhon Ratchasima).

Vào ngày 18/12 cùng năm, Hạt Đại diện Tông tòa được nâng cấp thành một giáo phận theo tông sắc Qui in fastigio của Giáo hoàng Phaolô VI.

Vào ngày 2/7/1969 giáo phận đã đổi tên thành như hiện tại theo nghị định Cum Excellentissimus của Bộ Truyền giáo.

Giám mục quản nhiệm[sửa | sửa mã nguồn]

Các giai đoạn trống tòa không quá 2 năm hay không rõ ràng bị loại bỏ.

Thống kê[sửa | sửa mã nguồn]

Đến năm 2020, giáo phận có 24.609 giáo dân trên dân số tổng cộng 7.918.291, chiếm 0,3%.

Năm Dân số Linh mục Phó tế Tu sĩ Giáo xứ
giáo dân tổng cộng % linh mục đoàn linh mục triều linh mục dòng tỉ lệ
giáo dân/linh mục
nam tu sĩ nữ tu sĩ
1970 12.706 3.900.000 0,3 3 3 4.235 3 130 20
1980 17.291 6.392.242 0,3 26 5 21 665 24 126 57
1990 20.371 6.967.970 0,3 34 17 17 599 24 134
1999 23.590 7.573.620 0,3 35 24 11 674 14 143 25
2000 24.310 7.725.668 0,3 35 24 11 694 14 148 25
2001 24.760 7.770.793 0,3 37 27 10 669 12 154 22
2002 24.967 7.838.608 0,3 40 30 10 624 12 146 22
2003 25.201 7.841.117 0,3 42 32 10 600 12 156 24
2004 25.571 7.921.032 0,3 42 32 10 608 12 161 55
2010 26.242 7.785.113 0,3 40 32 8 656 13 169 58
2014 25.905 8.010.073 0,3 40 31 9 647 12 135 60
2017 25.201 7.916.177 0,3 42 32 10 600 13 132 60
2020 24.609 7.918.291 0,3 40 36 4 615 7 146 60

Ghi chú[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Được bổ nhiệm làm Giám mục hiệu tòa Mascula.

Tài liệu[sửa | sửa mã nguồn]

  • (tiếng Latinh) Bolla Nos quibus, AAS 45 (1953), p. 712
  • “Bolla Qui in fastigio (bằng tiếng La-tinh).
  • (tiếng Latinh) Decreto Cum Excellentissimus, AAS 62 (1970), p. 181

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]