Hồi quốc Sulu
Sultanate of Sulu
|
|||||||||||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Tên bản ngữ
| |||||||||||||||||||||
1405–1915 | |||||||||||||||||||||
Quốc kỳ | |||||||||||||||||||||
Map showing the extent of the Sultanate of Sulu in 1822 with borders of modern nation states | |||||||||||||||||||||
Tổng quan | |||||||||||||||||||||
Vị thế | Part of Bruneian Empire (1405–1578), Independent kingdom (1578–1851), Protectorate of Tây Ban Nha (1851–1898), Protectorate of the Hoa Kỳ (1903–1915) | ||||||||||||||||||||
Thủ đô |
| ||||||||||||||||||||
Ngôn ngữ thông dụng | Tausug, Arabic, Bajau, Visayan, Banguingui và Malay | ||||||||||||||||||||
Tôn giáo chính | Sunni Islam | ||||||||||||||||||||
Chính trị | |||||||||||||||||||||
Chính phủ | Monarchy | ||||||||||||||||||||
Sultan | |||||||||||||||||||||
• 1405–?? | Sharif ul-Hashim of Sulu (first) | ||||||||||||||||||||
• 1974–1986 | Mohammed Mahakuttah Abdullah Kiram (last officially recognized) | ||||||||||||||||||||
Lịch sử | |||||||||||||||||||||
• Ascension of Rajah Baginda | 17 November 1405 | ||||||||||||||||||||
• Dissolution of Sultanate | 1915 | ||||||||||||||||||||
Kinh tế | |||||||||||||||||||||
Đơn vị tiền tệ | Barter and later the Sulu coins system was used[2] | ||||||||||||||||||||
| |||||||||||||||||||||
Hiện nay là một phần của |
Một phần của loạt bài về |
Lịch sử Philippines |
---|
Tiền sử (trước 900) |
Người Tabon |
Sự độ bổ của người Negrito |
Sự bành trướng của các tộc người Nam Đảo |
Tranh khắc đá Angono |
Sơ sử (900–1521) |
Vương quốc Tondo |
Vương quốc Maynila |
Vương quốc Namayan |
Vương quốc Butuan |
Kalantiao |
Hồi quốc Maguindanao |
Hồi quốc Sulu |
Thuộc địa (1565–1946) |
Đông Ấn Tây Ban Nha (1565–1898) |
Manila thuộc Anh |
Cộng hòa Zamboanga (1899–1903) |
Đệ nhất Cộng hòa |
Chính phủ quân sự Hoa Kỳ (1898–1902) |
Chính phủ Đảo (1901–35) |
Thịnh vượng chung (1935–46) |
Đệ nhị Cộng hòa (1943–45) |
Đương đại (1946–nay) |
Đệ tam Cộng hòa (1946–65) |
Chế độ độc tài Marcos (1965–86) |
Đệ ngũ Cộng hòa (1986–nay) |
Nhà nước Hồi giáo Sulu (Tausūg: Kasultanan sin Sūg, Jawi: کسلطانن سولو دار الإسلام (Kasultanan Sūg), tiếng Mã Lai: Kesultanan Sulu, tiếng Ả Rập: سلطنة سولك (Saltanat Sulik)), là một cựu quốc gia đã từng nằm tại phía nam của Philippines. Cũng như Nhà nước Hồi giáo Maguindanao, Nhà nước Hồi giáo Sulu là một trong số rất ít chính thể đã từng được thành lập trên lãnh thổ của Philippines (khi Ferdinand Magellan tới Philippines vào thế kỉ 16, nhiều tộc người sống trên lãnh thổ này còn sống trong tình trạng nguyên thủy). Khi mạnh nhất, Sulu chiếm hàng loạt hải đảo, phía đông giáp với bắc đảo Midanao, và từng cai trị phần lãnh thổ Bắc Borneo và cả quần đảo Palawan nữa.
Thành lập
[sửa | sửa mã nguồn]Vào thập niên 1450, Shari'ful Hashem Syed Abu Bakr, một người Ả Rập sinh tại Johor, đã từ Malacca tới Sulu. Vào năm 1457, ông lập ra nước Sulu và, sau đó, tự đổi tên thành Paduka Maulana Mahasari Sharif Sultan Hashem Abu Bakr. Trước thời điềm này quãng vài chục năm, Nhà nước Hồi giáo Brunei cũng đã được thành lập.
Vào năm 1703 (có tài liệu ghi là 1658), phần đất Bắc Borneo (nay là bang Sabah của Malaysia) trở thành lãnh thổ của Sulu. Vua Brunei sau khi nhận được sự trợ giúp của Sulu để chống lại bạo loạn trong nước và cướp biển, đã tặng cho vua Sulu phần đất này. Tuy vậy, trong cùng năm đó, vua Sulu đem tặng đảo Palawan cho vua Quadarat (1619-1671) của Nhà nước Hồi giáo Maguindanao như một món quà dẫn cưới sau khi ông vua này kết hôn với con gái của vua Sulu và kết thành liên minh Sulu-Maguindanao. Tuy vậy, chỉ hai năm sau, vào năm 1705, vua Maguindanao là Bayan ul-Anwar Maruhom Batua (1702-1736) đã để mất Palawan vào tay người Tây Ban Nha.
Sự can thiệp của ngoại bang
[sửa | sửa mã nguồn]Năm 1865, Claude Lee Moses, lãnh sự Hoa Kỳ tại Brunei, ký được hợp đồng thuê đất Bắc Borneo trong thời hạn 10 năm với Brunei. Tuy vậy, chính phủ thời hậu chiến của Mĩ không muốn đụng chạm nhiều tới các phần thuộc địa Á châu nên Moses đã nhượng lại quyền thuê đất này cho American Trading Company. Do vướng phải những khó khăn tài chính nên sau đó công ty này lại nhượng quyền thuê đất trên cho Nam tước Gustavus von Overbeck. Von Overbeck đã kiếm được một thỏa thuận gia hạn hợp đồng thuê đất thêm 10 năm nữa từ Temenggong của Brunei, và cũng kiếm được một thỏa thuận tương tự từ phía vua Sulu vào ngày 22 tháng 1 năm 1878.
Nhằm trang trải cho kế hoạch trên, von Overbeck tìm kiếm sự hậu thuẫn của anh em nhà Dent - làAlfred và Edward. Dẫu vậy, von Overbeck không thuyết phục nổi chính phủ về những mối lời nhìn thấy được từ dự án này. Kết quả là von Overbeck bỏ cuộc để lại cho Afred Dent quyền cai quản phần đất thuê được. Đó là vào thời điểm năm 1880.
Được sự hậu thuẫn của Sir Rutherford Alcock và Sir Henry Keppel, Đô đốc của Hải quân Hoàng gia Anh, vào tháng 7 năm 1881, anh em nhà Dent lập ra British North Borneo Provisional Association Ltd. Cũng như giấy nhượng đất chính thức của Hoàng gia vào ngày 1 tháng 9 cùng năm, để rồi vào tháng 5 năm 1882, British North Borneo Chartered Company ra đời và chính thức thay thế cho công ty lâm thời đã kể ở trên. Sir Rutherford Alcock trở thành chủ tịch sáng lập, còn Alfred là giám đốc điều hành.
Dù gặp một vài phản đối về mặt ngoại giao từ Hà Lan, Tây Ban Nha và Sarawak (khi này Sarawak chịu sự cai trị của dòng họ Brooke da trắng, những người đã lên ngôi vua từ cách đó khoảng 50 năm), British North Borneo Company vẫn tiến hành tổ chức cái quản và sắp xếp lại mảnh đất này. Sau đó, công ty này nhận được sự thừa nhận về chủ quyền đất đai từ phía nhà vua Brunei và không ngừng mở rộng lãnh thổ.
Năm 1888, Bắc Borneo trở thành đất bảo hộ của Đế quốc Anh. Tuy vậy thì British North Borneo Company vẫn tiếp tục được cai quản trực tiếp, Hoàng gia Anh chỉ can thiệp và chủ trì về sự vụ ngoại giao mà thôi.
Như vậy, cho tới nửa sau thế kỉ 19, Sulu đã từng bước và cuối cùng là hoàn toàn mất phần đất bắc Borneo. Câu chuyện này trùng khít với sự suy sụp không thể ngăn chặn nổi của Vương quốc Hồi giáo này. Cuối cùng, vào năm 1899, sau khi vị vua có thực quyền cuối cùng của Sulu qua đời, vương quốc này trở thành lãnh thổ của Philippines.
Các Sultan của Sulu:
- Sharif ul-Hashim: 1450-1480
- Kamalud-Din: 1480-1505
- Alaud-Din: 1505
- Amirul-Umara: 1505-1527
- Muizzul-Mutawadi: 1527-1548
- Nasirud-Din I: 1548-1568
- Muhammad ul-Halim: 1568-1596
- Batara Shah Tengah: 1596-1608
- Muwallil Wasit I: 1610-1645
- Nasir ud-Din II: 1645-1648
- Salahud-Din Bakhtiar: 1649-1680
- Ali Shah
- Nur Sultan ul-Azam
- Al Haqunu Ibn Wali ul-Ahad
- Shahabud-Din: 1685-1710
- Mustafa Shafi ud-Din: 1710-1718
- Badarud-Din I: 1718-1732
- Nasarud-Din: 1732-1735
- Alimud-Din I: 1735-1748; 1764-1773
- Bantilan Muizzud-Din: 1748-1763
- Mohammad Israel: 1773-1778
- Alimud-Din II: 1763-1764; 1778-1789
- Sharapud-Din: 1789-1808
- Alimud-Din III: 1808
- Aliyud-Din I: 1808-1821
- Shakirul-Lah: 1821-1823
- Jamalul-Kiram I: 1823-1844
- Mohammed Pulalun Kiram: 1844-1862
- Jamalul A'Lam: 1862-1881
- Badarud-Din II: 1881-1884
- Harun Ar-Rashid: 1886-1894
- Jamalul-Kiram II: 1894-1936
- Muwallil Wasit II: 1936
- Amirul Umara I: 1937-1950
- Jainal Abirin: 1937-1950
- Sultan Mohammed Esmail El Kiram I: 1950-1974
- Sultan Moh. Mahakuttah A. Kiram: 1974-1980
- Moh. Punjungan Kiram: 1980-1983
- Abirin Aguimuddin: 1983
- Jamal ul-Kiram III: 1983-1990
- Jamal ul-Kiram III: 1983-1990
Raja Muda Muedzul Lail Tân Kiram: 1986-nay
- Mohammad Akijal Atti: 1990-1999
- Ismael Kiram II: 1999 - nay
Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]- Bản mẫu Portal-inline có liên kết đỏ đến cổng thông tin
- Sơ khai Philippines
- Cựu quốc gia trong lịch sử Philippines
- Cựu quốc gia trong lịch sử Malaysia
- Lịch sử Brunei
- Lịch sử Hồi giáo
- Lịch sử Sabah
- Cựu quốc gia trong lịch sử Brunei
- Cựu bảo hộ
- Hoàng gia Philippines
- Đông Nam Á hải đảo
- Moro
- Cựu quốc gia ở Borneo
- Cựu sultanat
- Biển Sulu
- Cựu quốc gia ở Đông Nam Á
- Cựu quốc gia quân chủ ở Châu Á
- Nổi dậy Moro