Bước tới nội dung

I-21 (tàu ngầm Nhật)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Lịch sử
Đế quốc Nhật Bản
Tên gọi Tàu ngầm số 40
Xưởng đóng tàu Kawasaki Shipbuilding Corporation, Kobe
Đặt lườn 7 tháng 1, 1939
Hạ thủy 24 tháng 2, 1940
Đổi tên I-21, 24 tháng 2, 1940
Nhập biên chế 15 tháng 7, 1941
Xóa đăng bạ 30 tháng 4, 1944
Số phận
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu Type B1
Trọng tải choán nước
  • 2.625 tấn (2.584 tấn Anh) (nổi) [3]
  • 3.713 tấn (3.654 tấn Anh) (ngầm) [3]
Chiều dài 108,7 m (356 ft 8 in) chung [3]
Sườn ngang 9,3 m (30 ft 6 in)[3]
Mớn nước 5,14 m (16 ft 10 in)[3]
Công suất lắp đặt
  • 12.400 bhp (9.200 kW) (diesel)[3]
  • 2.000 hp (1.500 kW) (điện)[3]
Động cơ đẩy
Tốc độ
Tầm xa
  • 14.000 nmi (26.000 km; 16.000 mi) ở tốc độ 16 hải lý trên giờ (30 km/h; 18 mph) (nổi)[3]
  • 96 nmi (178 km; 110 mi) ở tốc độ 3 hải lý trên giờ (5,6 km/h; 3,5 mph)
Độ sâu thử nghiệm 100 m (330 ft)
Thủy thủ đoàn 94
Vũ khí
Máy bay mang theo 1 × thủy phi cơ Yokosuka E14Y
Hệ thống phóng máy bay 1 × máy phóng máy bay

I-21 (伊号第二一潜水艦 I-gō Dai Nijū-ichi sensui-kan?) là một tàu ngầm tuần dương lớp Type-B (巡潜乙型潜水艦 Junsen Otsu-gata sensuikan?) được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã tham gia cuộc tấn công Trân Châu Cảng, rồi tuần tra dọc bờ biển phía Tây Hoa Kỳ và hoạt động trong Chiến dịch Guadalcanal. I-21 là tàu ngầm Nhật Bản hoạt động thành công nhất tại vùng biển Australia, tham gia tấn công cảng Sydney và đánh chìm 44.000 GRT tàu bè Đồng Minh.[5] I-21 bị mất tích sau ngày 27 tháng 11, 1943, có thể bị đã máy bay từ tàu sân bay hộ tống USS Chenango đánh chìm ngoài khơi Tarawa vào ngày 29 tháng 11, 1943.

Thiết kế và chế tạo[sửa | sửa mã nguồn]

Thiết kế[sửa | sửa mã nguồn]

Tàu ngầm Type B được cải tiến từ phân lớp KD6 của lớp tàu ngầm Kaidai dẫn trước, và được trang bị một thủy phi cơ nhằm tăng cường khả năng trinh sát.[6] Chúng có trọng lượng choán nước 2.631 tấn (2.589 tấn Anh) khi nổi và 3.713 tấn (3.654 tấn Anh) khi lặn,[3] lườn tàu có chiều dài 108,7 m (356 ft 8 in), mạn tàu rộng 9,3 m (30 ft 6 in) và mớn nước sâu 5,1 m (16 ft 9 in).[3] Con tàu có thể lặn sâu đến 100 m (328 ft),[6] và có một thủy thủ đoàn đầy đủ bao gồm 94 sĩ quan và thủy thủ.[3]

Type B1 trang bị hai động cơ diesel Kampon Mk.2 Model 10 công suất 6.200 mã lực phanh (4.623 kW),[3] mỗi chiếc vận hành một trục chân vịt. Khi lặn, mỗi trục được vận hành bởi một động cơ điện công suất 1.000 mã lực (746 kW).[3] Khi di chuyển trên mặt nước nó đạt tốc độ tối đa 23,6 hải lý trên giờ (43,7 km/h; 27,2 mph) và 8 hải lý trên giờ (15 km/h; 9,2 mph) khi lặn dưới nước,[7] tầm xa hoạt động của Type B1 là 14.000 hải lý (26.000 km; 16.000 mi) ở tốc độ 16 hải lý trên giờ (30 km/h; 18 mph),[3] và có thể lặn xa 96 nmi (178 km; 110 mi) ở tốc độ 3 hải lý trên giờ (5,6 km/h; 3,5 mph).[8]

Những chiếc Type B1 có sáu ống phóng ngư lôi 53,3 cm (21,0 in), tất cả được bố trí trước mũi, và mang theo tổng cộng 17 quả ngư lôi Kiểu 95.[3] Vũ khí trên boong tàu bao gồm khẩu hải pháo 14 cm (5,5 in),[3][4] và hai pháo phòng không 25 mm Type 96.[8] Hầm chứa máy bay được tích hợp vào tháp chỉ huy và hướng ra phía trước. Máy phóng máy bay được bố trí hướng ra phía trước, trong khi khẩu hải pháo trên boong đặt phía sau. Cách sắp xếp này giúp chiếc thủy phi cơ Yokosuka E14Y tận dụng tốc độ hướng ra trước của con tàu khi được phóng lên.[8]

Chế tạo[sửa | sửa mã nguồn]

I-21 được đặt lườn như là chiếc Tàu ngầm số 40 tại xưởng tàu của hãng Kawasaki Shipbuilding CorporationKobe vào ngày 7 tháng 1, 1939.[1][2] Nó được đổi tên thành I-21 đồng thời được hạ thủy vào ngày 24 tháng 2, 1940,[1][2] rồi hoàn tất và nhập biên chế vào ngày 15 tháng 7, 1941,[1][2] dưới quyền chỉ huy của Trung tá Hải quân Irie Tatsushi.[1]

Lịch sử hoạt động[sửa | sửa mã nguồn]

1941[sửa | sửa mã nguồn]

Ngay khi nhập biên chế, I-21 được phối thuộc cùng Quân khu Hải quân Yokosuka.[1] Vào ngày 15 tháng 7, 1941, nó cùng các tàu ngầm I-22I-23 được điều về Đội tàu ngầm 3 thuộc Hải đội Tàu ngầm 1, trực thuộc Đệ Lục hạm đội.[1][2] Đến ngày 31 tháng 10, Trung tá Hải quân Matsumura Kanji tiếp nhận quyền chỉ huy chiếc tàu ngầm.[1][2] Vào ngày 10 tháng 11, bên trên soái hạm Katori, Phó đô đốc Shimizu Mitsumi, Tư lệnh Đệ Lục hạm đội, công bố Kế hoạch Z, là kế hoạch tấn công căn cứ Trân Châu Cảng của Hải quân Hoa Kỳ, mở màn cho cuộc xung đột tại Thái Bình Dương.[2]

Tấn công Trân Châu Cảng[sửa | sửa mã nguồn]

Khi lực lượng Hải quân Nhật Bản bắt đầu được huy động để chuẩn bị cho Kế hoạch Z, I-21 khởi hành từ Yokosuka vào ngày 19 tháng 11, 1941,[2] đi đến vịnh Hitokappu, Etorofu (nay là đảo Iturup) thuộc quần đảo Kuril ba ngày sau đó, nơi Không hạm đội 1 được tập trung.[2] Tại đây I-21 cùng các tàu ngầm I-19I-23 được điều về thành phần hộ tống cho Lực lượng Cơ động (Kidō Butai), rồi cùng hạm đội khởi hành vào ngày 26 tháng 11 để hướng sang quần đảo Hawaii; họ đảm nhiệm vai trò trinh sát phía trước lực lượng.[2] Lúc đang trên đường đi, vào ngày 2 tháng 12, nó nhận được thông điệp từ Hạm đội Liên hợp: "Leo núi Niitaka 1208" (tiếng Nhật: Niitakayama nobore 1208), là mật lệnh cho biết chiến sự với Khối Đồng Minh sẽ bắt đầu vào ngày 8 tháng 12 (theo giờ Nhật Bản, tức ngày 7 tháng 12 tại Hawaii bên kia đường đổi ngày).[2]

Vào lúc diễn ra cuộc Tấn công Trân Châu Cảng vào ngày 7 tháng 12, I-21 tuần tra ở khu vực phía Bắc Oahu.[2] Vào ngày 9 tháng 12, tàu ngầm I-6 báo cáo phát hiện một tàu sân bay lớp Lexington cùng hai tàu tuần dương ngoài khơi Oahu đang đi về hướng Đông Bắc; vì vậy I-21 cùng các tàu ngầm khác được lệnh truy đuổi. Tuy nhiên con tàu gặp trục trặc kỹ thuật động cơ diesel và mạch điện, và nhiều lần bị máy bay từ tàu sân bay đối phương phát hiện, nên phải lặn khẩn cấp để lẫn tránh và không thể theo đuổi kịp mục tiêu.[2]

Tuần tra dọc bờ Tây Hoa Kỳ[sửa | sửa mã nguồn]

Đến ngày 14 tháng 12, I-21 cùng với Hải đội Tàu ngầm 1 được lệnh tham gia cùng các tàu ngầm I-10I-26, để tuần tra dọc theo vùng bờ Tây Hoa Kỳ nhằm đánh phá tàu bè đối phương, đồng thời chuẩn bị cho một đợt bắn phá các thành phố tại lục địa Hoa Kỳ.[2] Nó đi đến khu vực tuần tra được chỉ định ngoài khơi Arguello Point, 55 mi (89 km) về phía Bắc Santa Barbara, California.[2]

Vào ngày 23 tháng 12, từ khoảng cách 2.190 yd (2.000 m), I-21 phóng hai quả ngư lôi tấn công tàu chở dầu SS Montebello (8.272 tấn) đang trên đường từ Port San Luis, California đến Vancouver, British Columbia. Sau khi trúng một quả ngư lôi và nhiều phát đạn pháo, Montebello đắm một giờ sau đó ở vị trí 4 mi (6,4 km) về phía Nam Hải đăng Piedras Blancas, tại tọa độ 35°35′B 121°16′T / 35,583°B 121,267°T / 35.583; -121.267; toàn bộ 38 thủy thủ của Montebello đều sống sót.[2] Cùng ngày hôm đó, I-21 bắn hải pháo và gây hư hại cho chiếc tàu chở dầu Idaho tại cùng vị trí trên.[2] Sang ngày hôm sau 24 tháng 12, I-21 bị một thủy phi cơ PBY Catalina tấn công bằng mìn sâu, rồi bị một tàu tuần tra thả hai quả mìn sâu nữa, khiến tạm thời hư hại bánh lái.[2] Tuy nhiên kế hoạch bắn phá các thành phố Hoa Kỳ dọc bờ Tây thoạt tiên bị trì hoãn, và sau cùng bị hủy bỏ vì các tàu ngầm đã cạn nhiên liệu và đối phương tăng cường tuần tra phòng thủ,[2] nên I-21 kết thúc chuyến tuần tra và về đến Kwajalein vào ngày 11 tháng 1, 1942,[2] và về đến Yokosuka vào ngày 1 tháng 2.[2]

1942[sửa | sửa mã nguồn]

1943[sửa | sửa mã nguồn]

Bị mất[sửa | sửa mã nguồn]

Vào ngày 27 tháng 11, 1943, tại khu vực quần đảo Gilbert ở vị trí 30 mi (48 km) về phía Tây Nam Tarawa, I-21 gửi một báo cáo trông thấy tàu bè đối phương lúc 18 giờ 08 phút, sau đó chiếc tàu ngầm mất liên lạc hoàn toàn.[2][9] Đến ngày 29 tháng 11, tàu sân bay hộ tống USS Chenango đang hỗ trợ cho cuộc đổ bộ lên Tarawa, khi những máy bay ném bom-ngư lôi TBF Avenger của Chenango đã bắt gặp và đánh chìm một tàu ngầm đối phương lúc 21 giờ 57 phút, rất có thể mục tiêu đó là I-21.[2]

I-21 đã không hồi đáp một mệnh lệnh của Tư lệnh Đệ Lục hạm đội vào ngày 30 tháng 11.[2] Đến ngày 24 tháng 12, Hải quân Nhật Bản công bố I-21 có thể đã bị mất tại khu vực quần đảo Gilbert với tổn thất toàn bộ 101 thành viên thủy thủ đoàn.[2] Tên nó được cho rút khỏi đăng bạ hải quân vào ngày 30 tháng 4, 1944.[2][1]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b c d e f g h i “I-21 ex No-40”. ijnsubsite.info. 4 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 9 tháng 5 năm 2024.
  2. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r s t u v w x y z aa Hackett, Bob; Kingsepp, Sander (2012). “IJN Submarine I-21: Tabular Record of Movement”. combinedfleet.com. Truy cập ngày 9 tháng 5 năm 2024.
  3. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r s “Type B1”. combinedfleet.com. 2016. Truy cập ngày 6 tháng 5 năm 2024.
  4. ^ a b Campbell (1985), tr. 191.
  5. ^ Stevens (2001).
  6. ^ a b Bagnasco (1944), tr. 189.
  7. ^ Chesneau (1980), tr. 200.
  8. ^ a b c Carpenter & Polmar (1986), tr. 102.
  9. ^ Boyd & Yoshida (2002).

Thư mục[sửa | sửa mã nguồn]

  • Bagnasco, Erminio (1977). Submarines of World War Two. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN 0-87021-962-6.
  • Boyd, Carl & Yoshida, Akikiko (2002). The Japanese Submarine Force and World War II. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN 1-55750-015-0.
  • Campbell, John (1985). Naval Weapons of World War Two. Naval Institute Press. ISBN 978-0870214592.
  • Carpenter, Dorr B. & Polmar, Norman (1986). Submarines of the Imperial Japanese Navy 1904–1945. London: Conway Maritime Press. ISBN 0-85177-396-6.
  • Chesneau, Roger biên tập (1980). Conway's All the World's Fighting Ships 1922–1946. Greenwich, UK: Conway Maritime Press. ISBN 0-85177-146-7.
  • Hashimoto, Mochitsura (1954). Sunk: The Story of the Japanese Submarine Fleet 1942 – 1945. Colegrave, E.H.M. (translator). London: Cassell and Company. ASIN B000QSM3L0.
  • Milanovich, Kathrin (2021). “The IJN Submarines of the I 15 Class”. Trong Jordan, John (biên tập). Warship 2021. Oxford, UK: Osprey Publishing. tr. 29–43. ISBN 978-1-4728-4779-9.
  • Stevens, David biên tập (2001). The Royal Australian Navy. The Australian Centenary History of Defence (Vol. III). South Melbourne, VIC: Oxford University Press. opp. p 112. ISBN 0-19-555542-2. OCLC 50418095.
  • Stille, Mark (2007). Imperial Japanese Navy Submarines 1941-45. New Vanguard. 135. Botley, Oxford, UK: Osprey Publishing. ISBN 978-1-84603-090-1.

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]