Bước tới nội dung

I-25 (tàu ngầm Nhật)

Lịch sử
Đế quốc Nhật Bản
Tên gọi Tàu ngầm số 42
Xưởng đóng tàu Mitsubishi Heavy Industries, Kobe
Đặt lườn 3 tháng 2, 1939
Hạ thủy 8 tháng 6, 1940
Đổi tên I-25, 8 tháng 6, 1940
Nhập biên chế 15 tháng 10, 1941
Xóa đăng bạ 1 tháng 12, 1943
Số phận Có thể bị tàu khu trục USS Patterson đánh chìm gần quần đảo New Hebrides, 25 tháng 8, 1943[1]
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu Type B1
Trọng tải choán nước
  • 2.625 tấn (2.584 tấn Anh) (nổi) [2]
  • 3.713 tấn (3.654 tấn Anh) (ngầm) [2]
Chiều dài 108,7 m (356 ft 8 in) chung [2]
Sườn ngang 9,3 m (30 ft 6 in)[2]
Mớn nước 5,14 m (16 ft 10 in)[2]
Công suất lắp đặt
  • 12.400 bhp (9.200 kW) (diesel)[2]
  • 2.000 hp (1.500 kW) (điện)[2]
Động cơ đẩy
Tốc độ
Tầm xa
  • 14.000 nmi (26.000 km; 16.000 mi) ở tốc độ 16 hải lý trên giờ (30 km/h; 18 mph) (nổi)[2]
  • 96 nmi (178 km; 110 mi) ở tốc độ 3 hải lý trên giờ (5,6 km/h; 3,5 mph)
Độ sâu thử nghiệm 100 m (330 ft)
Thủy thủ đoàn 94
Vũ khí
Máy bay mang theo 1 × thủy phi cơ Yokosuka E14Y
Hệ thống phóng máy bay 1 × máy phóng máy bay
Lịch sử phục vụ
Một phần của:
  • Quân khu Hải quân Yokosuka[1]
  • Hải đội Tàu ngàm 1
Chỉ huy:
  • Meiji Tagami[1]
  • 15 tháng 10, 1941 – 7 tháng 7, 1943
  • Tsuneo Shichiji
  • 7 tháng 7 – 15 tháng 7, 1943
  • Masaru Ohiga
  • 15 tháng 7 – 3 tháng 9, 1943

I-25 (イ-25?) là một tàu ngầm tuần dương lớp Type-B (巡潜乙型潜水艦 Junsen Otsu-gata sensuikan?) được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã tham gia cuộc tấn công Trân Châu Cảng, rồi sau đó tuần tra dọc bờ biển phía Tây Hoa Kỳ, Australia và Bắc Thái Bình Dương, bao gồm hai vụ ném bom từ chiếc thủy phi cơ mang theo xuống khu vực Oregon. I-25 bị mất tích tại khu vực quần đảo New Hebrides sau ngày 24 tháng 8, 1943, có thể bị tàu khu trục USS Patterson đánh chìm vào ngày 25 tháng 8, 1943.[1][4]

Thiết kế và chế tạo[sửa | sửa mã nguồn]

Thiết kế[sửa | sửa mã nguồn]

Tàu ngầm Type B được cải tiến từ phân lớp KD6 của lớp tàu ngầm Kaidai dẫn trước, và được trang bị một thủy phi cơ nhằm tăng cường khả năng trinh sát.[5] Chúng có trọng lượng choán nước 2.631 tấn (2.589 tấn Anh) khi nổi và 3.713 tấn (3.654 tấn Anh) khi lặn,[2] lườn tàu có chiều dài 108,7 m (356 ft 8 in), mạn tàu rộng 9,3 m (30 ft 6 in) và mớn nước sâu 5,1 m (16 ft 9 in).[2] Con tàu có thể lặn sâu đến 100 m (328 ft),[5] và có một thủy thủ đoàn đầy đủ bao gồm 94 sĩ quan và thủy thủ.[2]

Type B1 trang bị hai động cơ diesel Kampon Mk.2 Model 10 công suất 6.200 mã lực phanh (4.623 kW),[2] mỗi chiếc vận hành một trục chân vịt. Khi lặn, mỗi trục được vận hành bởi một động cơ điện công suất 1.000 mã lực (746 kW).[2] Khi di chuyển trên mặt nước nó đạt tốc độ tối đa 23,6 hải lý trên giờ (43,7 km/h; 27,2 mph) và 8 hải lý trên giờ (15 km/h; 9,2 mph) khi lặn dưới nước,[6] tầm xa hoạt động của Type B1 là 14.000 hải lý (26.000 km; 16.000 mi) ở tốc độ 16 hải lý trên giờ (30 km/h; 18 mph),[2] và có thể lặn xa 96 nmi (178 km; 110 mi) ở tốc độ 3 hải lý trên giờ (5,6 km/h; 3,5 mph).[7]

Những chiếc Type B1 có sáu ống phóng ngư lôi 53,3 cm (21,0 in), tất cả được bố trí trước mũi, và mang theo tổng cộng 17 quả ngư lôi Kiểu 95.[2] Vũ khí trên boong tàu bao gồm khẩu hải pháo 14 cm (5,5 in),[2][3] và hai pháo phòng không 25 mm Type 96.[7] Hầm chứa máy bay được tích hợp vào tháp chỉ huy và hướng ra phía trước. Máy phóng máy bay được bố trí hướng ra phía trước, trong khi khẩu hải pháo trên boong đặt phía sau. Cách sắp xếp này giúp chiếc thủy phi cơ Yokosuka E14Y tận dụng tốc độ hướng ra trước của con tàu khi được phóng lên.[7]

Chế tạo[sửa | sửa mã nguồn]

I-25 được đặt lườn như là chiếc Tàu ngầm số 42 tại xưởng tàu của hãng Mitsubishi Heavy IndustriesKobe vào ngày 3 tháng 2, 1939.[8][1] Nó được đổi tên thành I-25 trước khi được hạ thủy vào ngày 8 tháng 6, 1940,[8][1] rồi hoàn tất và nhập biên chế vào ngày 15 tháng 10, 1941,[8][1] dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Thiếu tá Hải quân Tagami Meiji.[8]

Lịch sử hoạt động[sửa | sửa mã nguồn]

1941[sửa | sửa mã nguồn]

Ngay khi nhập biên chế, I-25 được phối thuộc cùng Quân khu Hải quân Yokosuka.[8] Vào ngày 31 tháng 10, 1941, nó được đặt làm soái hạm của Đội tàu ngầm 4, thuộc Hải đội Tàu ngầm 1 trực thuộc Đệ Lục hạm đội.[8][1] Sau khi nhận lên tàu một thủy phi cơ Watanabe E9W1 ("Slim") vào ngày 7 tháng 11, nó khởi hành từ Yokosuka vào ngày 21 tháng 11[9] trong thành phần Lực lượng Viễn chinh Tiền phương của Đệ Lục hạm đội, để tham gia Kế hoạch Z, là kế hoạch tấn công căn cứ Trân Châu Cảng của Hải quân Hoa Kỳ, mở màn cho cuộc xung đột tại Thái Bình Dương.[1] Lúc đang trên đường đi, vào ngày 2 tháng 12, nó nhận được thông điệp từ Hạm đội Liên hợp: "Leo núi Niitaka 1208" (tiếng Nhật: Niitakayama nobore 1208), là mật lệnh cho biết chiến sự với Khối Đồng Minh sẽ bắt đầu vào ngày 8 tháng 12 (theo giờ Nhật Bản, tức ngày 7 tháng 12 tại Hawaii bên kia đường đổi ngày).[1]

Chuyến tuần tra thứ nhất - Tấn công Trân Châu Cảng[sửa | sửa mã nguồn]

Vào lúc diễn ra cuộc Tấn công Trân Châu Cảng vào ngày 7 tháng 12, I-25 cùng ba tàu ngầm khác tuần tra trên một tuyến cách 222 km (120 nmi; 138 mi) về phía Bắc Oahu.[1] Vào ngày 9 tháng 12, tàu ngầm I-6 báo cáo phát hiện một tàu sân bay lớp Lexington cùng hai tàu tuần dương ngoài khơi Oahu đang đi về hướng Đông Bắc; vì vậy I-25 cùng các tàu ngầm khác được lệnh truy đuổi. Trên đường đi, nó bị máy bay tuần tra đối phương phát hiện và bắn phá và thả mìn sâu nên phải lặn khẩn cấp để né tránh. Nó không thể đuổi kịp mục tiêu.[1]

Tuần tra dọc bờ Tây Hoa Kỳ[sửa | sửa mã nguồn]

Vào ngày 14 tháng 12, I-25 cùng với Hải đội Tàu ngầm 1 được lệnh tham gia cùng các tàu ngầm I-10I-26, để tuần tra dọc theo vùng bờ Tây Hoa Kỳ nhằm đánh phá tàu bè đối phương, đồng thời chuẩn bị cho một đợt bắn phá các thành phố tại lục địa Hoa Kỳ.[1] Sau khi đi đến khu vực tuần tra được chỉ định, vào ngày 18 tháng 12, ở vị trí cách 10 mi (16 km) về phía Tây cửa sông Colombia, I-25 phóng một quả ngư lôi tấn công tàu chở dầu L. P. St. Claire (8.066 tấn); I-25 tự nhận đã đánh chìm mục tiêu, nhưng chiếc tàu chở dầu không bị hư hại và đã chạy thoát.[1]

Vào ngày 18 tháng 12, I-25 được lệnh di chuyển đến khu vực giữa San FranciscoLos Angeles để đón lỏng ba thiết giáp hạm Hoa Kỳ mà phía Nhật Bản tin rằng đang được điều động từ khu vực Đại Tây Dương.[1] Tuy nhiên kế hoạch bắn phá các thành phố Hoa Kỳ dọc bờ Tây thoạt tiên bị trì hoãn, và sau cùng bị hủy bỏ vì các tàu ngầm đã cạn nhiên liệu và đối phương tăng cường tuần tra phòng thủ,[10][1] Đến ngày 28 tháng 12, tại vị trí cách bờ biển 16 km (8,6 nmi; 9,9 mi), nó phóng một quả ngư lôi tấn công tàu chở dầu SS Connecticut (8.684 tấn), tin rằng đã đánh chìm mục tiêu, nhưng chiếc tàu chở dầu chỉ bị hư hại và tự mắc cạn tại cửa sông Colombia, sau đó Connecticut được cứu hộ và sửa chữa.[11] I-25 kết thúc chuyến tuần tra và về đến Kwajalein vào ngày 11 tháng 1, 1942.[1]

1943[sửa | sửa mã nguồn]

Bị mất[sửa | sửa mã nguồn]

Vào ngày 25 tháng 7, dưới quyền chỉ huy của hạm trưởng mới, Trung tá Hải quân Obika Masaru,[8] và sự hiện diện của Đại tá Hải quân Miyazaki Takeji, Tư lệnh Đội tàu ngầm 2, I-25 khởi hành từ Truk cho chuyến tuần tra thứ bảy nhằm trinh sát trên không khu vực Espiritu Santo.[1] Đến ngày 23 tháng 8, tại khu vực New Hebrides, nó cho phóng thủy phi cơ để trinh sát Espiritu Santo; phi công đã báo cáo sự hiện diện của ba "thiết giáp hạm" và nhiều tàu chiến nhỏ.[1] Sang ngày hôm sau 24 tháng 8, I-25 báo cáo kết quả trinh sát về căn cứ, và sau đó mất tích.[1]

Vào ngày 25 tháng 8, đang khi hộ tống một đoàn tàu vận tải đi từ New Hebrides sang khu vực quần đảo Solomon, tàu khu trục USS Patterson bắt gặp trên màn hình radar một tàu ngầm đang di chuyển trên mặt nước. Patterson tiếp cận đến khoảng cách 4.000 yd (3.700 m) khi mục tiêu lặn xuống ẩn nấp. Chiếc tàu khu trục dò được tín hiệu sonar của đối thủ và đã thả nhiều lượt mìn sâu tấn công, có thể đã đánh chìm I-25 tại tọa độ 13°10′N 165°27′Đ / 13,167°N 165,45°Đ / -13.167; 165.450.[8][1] Do không thể định danh chính xác mục tiêu bị đánh chìm, và cùng trong giai đoạn từ cuối tháng 8 đến giữa tháng 9, các tàu khu trục USS Ellet, USS WadsworthUSS Saufley[12] cũng tiến hành những hoạt động chống tàu ngầm trong phạm vi 150 nmi (280 km) về phía Đông Bắc Espiritu Santo, tàu chiến Hoa Kỳ nào đã đánh chìm I-25 vẫn là một bí ẩn.[13]

Đến ngày 24 tháng 10, 1943, Hải quân Nhật Bản công bố I-25 có thể đã bị mất tại khu vực Fiji với tổn thất toàn bộ 100 người trên tàu, bao gồm Đại tá Hải quân Miyazaki Takeji, Tư lệnh Đội tàu ngầm 2.[1] Tên nó được cho rút khỏi đăng bạ hải quân vào ngày 1 tháng 12, 1943.[1][8]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r s t u v w Hackett, Bob; Kingsepp, Sander (2016). “IJN Submarine I-25: Tabular Record of Movement”. combinedfleet.com. Truy cập ngày 10 tháng 5 năm 2024.
  2. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r s “Type B1”. combinedfleet.com. 2016. Truy cập ngày 6 tháng 5 năm 2024.
  3. ^ a b Campbell (1985), tr. 191.
  4. ^ Webber (1985), tr. vi.
  5. ^ a b Bagnasco (1944), tr. 189.
  6. ^ Chesneau (1980), tr. 200.
  7. ^ a b c Carpenter & Polmar (1986), tr. 102.
  8. ^ a b c d e f g h i “I-25 ex No-42”. ijnsubsite.info. 28 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 10 tháng 5 năm 2024.
  9. ^ Webber (1975), tr. 63.
  10. ^ Webber (1975), tr. 14-16.
  11. ^ Felton (2006), tr. 53.
  12. ^ Rohwer, Jürgen; Hümmelchen, Gerhard (3 tháng 2 năm 2023). “Seekrieg 1943, August”. Württembergische Landesbibliothek Stuttgart (bằng tiếng Đức). Truy cập ngày 9 tháng 5 năm 2024.
  13. ^ “Japanese Submarine Attacks on Curry County in World War II”. Cape Blanco Heritage Society. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 5 năm 2019. Truy cập ngày 23 tháng 5 năm 2019.

Thư mục[sửa | sửa mã nguồn]

  • Bagnasco, Erminio (1977). Submarines of World War Two. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN 0-87021-962-6.
  • Boyd, Carl & Yoshida, Akikiko (2002). The Japanese Submarine Force and World War II. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN 1-55750-015-0.
  • Campbell, John (1985). Naval Weapons of World War Two. Naval Institute Press. ISBN 978-0870214592.
  • Carpenter, Dorr B. & Polmar, Norman (1986). Submarines of the Imperial Japanese Navy 1904–1945. London: Conway Maritime Press. ISBN 0-85177-396-6.
  • Chesneau, Roger biên tập (1980). Conway's All the World's Fighting Ships 1922–1946. Greenwich, UK: Conway Maritime Press. ISBN 0-85177-146-7.
  • Felton, Mark (2006). The Fujita Plan. Pen and Sword. tr. 53. ISBN 9781844154807. Truy cập ngày 10 tháng 5 năm 2024.
  • Hashimoto, Mochitsura (1954). Sunk: The Story of the Japanese Submarine Fleet 1942 – 1945. Colegrave, E.H.M. (translator). London: Cassell and Company. ASIN B000QSM3L0.
  • Jenkins, David (1992). Battle Surface! Japan's Submarine War Against Australia 1942–44. Milsons Point NSW Australia: Random House Australia. tr. 158, 169. ISBN 0-09-182638-1.
  • Jentschura, Hansgeorg; Jung, Dieter; Mickel, Peter (1977). Warships of the Imperial Japanese Navy, 1869–1945. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN 9780870218934.
  • Milanovich, Kathrin (2021). “The IJN Submarines of the I 15 Class”. Trong Jordan, John (biên tập). Warship 2021. Oxford, UK: Osprey Publishing. tr. 29–43. ISBN 978-1-4728-4779-9.
  • McCash, William (2005). Bombs Over Brookings: The World War II Bombings of Curry County, Oregon, and the Postwar Friendship Between Brookings and the Japanese Pilot, Nobuo Fujita. William McCash. ISBN 9780972983044.
  • Polmar, Norman; Noot, Jurrien (1991). Submarines of the Russian and Soviet Navies. Naval Institute Press. tr. 264. ISBN 9780870215704.
  • Webber, Ebbert (1975). Retaliation: Japanese Attacks and Allied Countermeasures on the Pacific Coast in World War II. Oregon State University Press. ISBN 0870710761.
  • Webber, Bert (1985). Silent Siege-II: Japanese Attacks Against North America In World War II. Ye Galleon Press. ISBN 9780877703181.

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]