Bước tới nội dung

I-31 (tàu ngầm Nhật)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Tàu ngầm chị em I-26, một chiếc Type B1 tiêu biểu
Lịch sử
Đế quốc Nhật Bản
Tên gọi Tàu ngầm số 144
Xưởng đóng tàu Xưởng vũ khí Hải quân Yokosuka
Đặt lườn 6 tháng 12, 1939
Hạ thủy 13 tháng 3, 1941
Đổi tên I-37, 13 tháng 3, 1941
Đổi tên I-31, 1 tháng 11, 1941
Hoàn thành 30 tháng 5, 1942
Nhập biên chế 30 tháng 5, 1942
Xóa đăng bạ 1 tháng 8, 1943
Số phận Bị các tàu khu trục Edwards, FrazierFarragut đánh chìm gần đảo Attu, 13 tháng 5, 1943
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu Type B1
Trọng tải choán nước
  • 2.625 tấn (2.584 tấn Anh) (nổi) [1]
  • 3.713 tấn (3.654 tấn Anh) (ngầm) [1]
Chiều dài 108,7 m (356 ft 8 in) chung [1]
Sườn ngang 9,3 m (30 ft 6 in)[1]
Mớn nước 5,14 m (16 ft 10 in)[1]
Công suất lắp đặt
  • 12.400 bhp (9.200 kW) (diesel)[1]
  • 2.000 hp (1.500 kW) (điện)[1]
Động cơ đẩy
Tốc độ
Tầm xa
  • 14.000 nmi (26.000 km; 16.000 mi) ở tốc độ 16 hải lý trên giờ (30 km/h; 18 mph) (nổi)[1]
  • 96 nmi (178 km; 110 mi) ở tốc độ 3 hải lý trên giờ (5,6 km/h; 3,5 mph)
Độ sâu thử nghiệm 100 m (330 ft)
Thủy thủ đoàn 94
Vũ khí
Máy bay mang theo 1 × thủy phi cơ Yokosuka E14Y
Hệ thống phóng máy bay 1 × máy phóng máy bay

I-31 là một tàu ngầm tuần dương lớp Type-B (巡潜乙型潜水艦 Junsen Otsu-gata sensuikan?) được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã tham gia Chiến dịch Guadalcanal cho đến đầu năm 1943, khi nó chuyển sang hoạt động trong Chiến dịch quần đảo Aleut, nơi nó bị các tàu khu trục Hoa Kỳ USS Edwards, USS FrazierUSS Farragut đánh chìm gần đảo Attu vào ngày 13 tháng 5, 1943.

Thiết kế và chế tạo[sửa | sửa mã nguồn]

Thiết kế[sửa | sửa mã nguồn]

Tàu ngầm Type B được cải tiến từ phân lớp KD6 của lớp tàu ngầm Kaidai dẫn trước, và được trang bị một thủy phi cơ nhằm tăng cường khả năng trinh sát.[3] Chúng có trọng lượng choán nước 2.631 tấn (2.589 tấn Anh) khi nổi và 3.713 tấn (3.654 tấn Anh) khi lặn,[1] lườn tàu có chiều dài 108,7 m (356 ft 8 in), mạn tàu rộng 9,3 m (30 ft 6 in) và mớn nước sâu 5,1 m (16 ft 9 in).[1] Con tàu có thể lặn sâu đến 100 m (328 ft),[3] và có một thủy thủ đoàn đầy đủ bao gồm 94 sĩ quan và thủy thủ.[1]

Type B1 trang bị hai động cơ diesel Kampon Mk.2 Model 10 công suất 6.200 mã lực phanh (4.623 kW),[1] mỗi chiếc vận hành một trục chân vịt. Khi lặn, mỗi trục được vận hành bởi một động cơ điện công suất 1.000 mã lực (746 kW).[1] Khi di chuyển trên mặt nước nó đạt tốc độ tối đa 23,6 hải lý trên giờ (43,7 km/h; 27,2 mph) và 8 hải lý trên giờ (15 km/h; 9,2 mph) khi lặn dưới nước,[4] tầm xa hoạt động của Type B1 là 14.000 hải lý (26.000 km; 16.000 mi) ở tốc độ 16 hải lý trên giờ (30 km/h; 18 mph),[1] và có thể lặn xa 96 nmi (178 km; 110 mi) ở tốc độ 3 hải lý trên giờ (5,6 km/h; 3,5 mph).[5]

Những chiếc Type B1 có sáu ống phóng ngư lôi 53,3 cm (21,0 in), tất cả được bố trí trước mũi, và mang theo tổng cộng 17 quả ngư lôi Kiểu 95.[1] Vũ khí trên boong tàu bao gồm khẩu hải pháo 14 cm (5,5 in),[1][2] và hai pháo phòng không 25 mm Type 96.[5] Hầm chứa máy bay được tích hợp vào tháp chỉ huy và hướng ra phía trước. Máy phóng máy bay được bố trí hướng ra phía trước, trong khi khẩu hải pháo trên boong đặt phía sau. Cách sắp xếp này giúp chiếc thủy phi cơ Yokosuka E14Y tận dụng tốc độ hướng ra trước của con tàu khi được phóng lên.[5]

Chế tạo[sửa | sửa mã nguồn]

I-31 được đặt lườn như là chiếc Tàu ngầm số 144 tại Xưởng vũ khí Hải quân YokosukaYokosuka vào ngày 6 tháng 12, 1939.[6][7] Nó được đổi tên thành I-37 đồng thời được hạ thủy vào ngày 13 tháng 3, 1941,[6][7] rồi đổi tên thành I-31 vào ngày 1 tháng 11, 1941.[6][7] Con tàu hoàn tất và nhập biên chế vào ngày 30 tháng 5, 1942,[6][7] dưới quyền chỉ huy của Thiếu tá Hải quân Inoue Noritsune.[6]

Lịch sử hoạt động[sửa | sửa mã nguồn]

Ngay khi nhập biên chế, I-31 được phối thuộc cùng Quân khu Hải quân Kure.[6] Vào ngày 30 tháng 5, 1942, nó cùng các tàu ngầm chị em I-32I-33 gia nhập Đội tàu ngầm 15, thuộc Hải đội Tàu ngầm 1, trực thuộc Đệ Lục hạm đội.[6][7]

Chiến dịch Guadalcanal[sửa | sửa mã nguồn]

Sau khi lực lượng Đồng Minh đổ bộ lên Guadalcanal, I-31 khởi hành từ Kure vào ngày 15 tháng 8 cho chuyến tuần tra đầu tiên trong chiến tranh tại khu vực này, mang theo một thủy phi cơ Yokosuka E14Y.[7] Nó phát hiện tàu đối phương vào ngày 25 tháng 8, tại vị trí 175 mi (282 km) về phía Đông Nam San Cristóbal nhưng không thể tấn công, và sau đó gặp trục trặc hệ thống thủy lực nên buộc phải quay trở về Truk để sửa chữa. [7]

I-31 rời Truk vào ngày 6 tháng 9 cho chuyến tuần tra tuần tra tiếp theo, trinh sát các căn cứ thủy phi cơ Đồng Minh tại các đảo NdeniVanikoro.[7] Sau khi chiếc E14Y của nó phát hiện nhiều thủy phi cơ PBY Catalina cùng hai tàu tiếp liệu thủy phi cơ USS BallardUSS Mackinac trong vịnh Graciosa thuộc quần đảo Santa Cruz vào ngày 11 tháng 9, I-31 xâm nhập khu vực neo đậu lúc nữa đêm, bắn phá máy bay đối phương bằng hải pháo trước khi rút lui.[7] Hai chiếc PBY Catalina đã bị hư hại nặng, và căn cứ thủy phi cơ tại Ndeni sau đó phải được chuyển về Espiritu Santo.[7] I-31 quay trở về Truk vào ngày 6 tháng 10.[7]

Khởi hành từ Truk vào ngày 14 tháng 10 cho chuyến tuần tra thứ ba, I-31 tiếp tục hoạt động tại khu vực Guadacanal.[7] Thủy phi cơ của nó đã trinh sát cảng Suva, Fiji vào ngày 4 tháng 11;[8][7]Pago Pago, Samoa thuộc Mỹ vào ngày 11 tháng 11.[7] Nó đi đến đảo Shortland vào ngày 20 tháng 11, chất lên tàu 30 tấn đạn dược và lương thực, rồi lên đường vào ngày 25 tháng 11 cho chuyến đi tiếp liệu cho lực lượng đồn trú tại Guadalcanal.[7] I-31 đi đến ngoài khơi vịnh Kamimbo, Guadalcanal hai ngày sau đó để chất dỡ hàng hóa rồi quay trở lại Shortland, rồi về đến Truk vào ngày 2 tháng 12.[7]

Sau khi chất lên tàu 15 tấn lương thực trong các thùng cao su, I-31 rời Truk vào ngày 22 tháng 12 cho chuyến đi tiếp liệu đến Guadacanal thứ hai ngang qua đảo Shortland.[7] Nó chất dỡ hàng hóa tại vịnh Kamimbo vào ngày 27 tháng 12 rồi quay trở lại Shortland.[7] Trên đường đi vào ngày hôm sau, tại vị trí 50 mi (80 km) về phía Đông Nam đảo Mono thuộc quần đảo Treasury, nó phóng ngư lôi tấn công một tàu ngầm đang đi trên mặt nước, nhưng không trúng đích.[7] Về đến Truk vào ngày 4 tháng 1, 1943, I-31 được lệnh quay trở về Nhật Bản để đại tu, đi đến Kure vào ngày 13 tháng 1.[7]

Chiến dịch quần đảo Aleut[sửa | sửa mã nguồn]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r s “Type B1”. combinedfleet.com. 2016. Truy cập ngày 6 tháng 5 năm 2024.
  2. ^ a b Campbell (1985), tr. 191.
  3. ^ a b Bagnasco (1944), tr. 189.
  4. ^ Chesneau (1980), tr. 200.
  5. ^ a b c Carpenter & Polmar (1986), tr. 102.
  6. ^ a b c d e f g “I-31 ex I-37 ex No-144”. ijnsubsite.info. 18 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 13 tháng 5 năm 2024.
  7. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r s t Hackett, Bob; Kingsepp, Sander (2016). “IJN Submarine I-31: Tabular Record of Movement”. combinedfleet.com. Truy cập ngày 13 tháng 5 năm 2024.
  8. ^ “The Official Chronology of the U.S. Navy in World War II - Chapter IV 1942”. Truy cập ngày 13 tháng 5 năm 2024.

Thư mục[sửa | sửa mã nguồn]

  • Bagnasco, Erminio (1977). Submarines of World War Two. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN 0-87021-962-6.
  • Boyd, Carl & Yoshida, Akikiko (2002). The Japanese Submarine Force and World War II. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN 1-55750-015-0.
  • Campbell, John (1985). Naval Weapons of World War Two. Naval Institute Press. ISBN 978-0870214592.
  • Carpenter, Dorr B. & Polmar, Norman (1986). Submarines of the Imperial Japanese Navy 1904–1945. London: Conway Maritime Press. ISBN 0-85177-396-6.
  • Chesneau, Roger biên tập (1980). Conway's All the World's Fighting Ships 1922–1946. Greenwich, UK: Conway Maritime Press. ISBN 0-85177-146-7.
  • Hashimoto, Mochitsura (1954). Sunk: The Story of the Japanese Submarine Fleet 1942 – 1945. Colegrave, E.H.M. (translator). London: Cassell and Company. ASIN B000QSM3L0.
  • Milanovich, Kathrin (2021). “The IJN Submarines of the I 15 Class”. Trong Jordan, John (biên tập). Warship 2021. Oxford, UK: Osprey Publishing. tr. 29–43. ISBN 978-1-4728-4779-9.
  • Stille, Mark (2007). Imperial Japanese Navy Submarines 1941-45. New Vanguard. 135. Botley, Oxford, UK: Osprey Publishing. ISBN 978-1-84603-090-1.

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]