Bước tới nội dung

I-32 (tàu ngầm Nhật)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Lịch sử
Đế quốc Nhật Bản
Tên gọi Tàu ngầm số 145
Xưởng đóng tàu Xưởng vũ khí Hải quân Sasebo, Sasebo
Đặt lườn 20 tháng 1, 1940
Hạ thủy 17 tháng 12, 1940
Đổi tên I-39, 17 tháng 12, 1940
Đổi tên I-32, 1 tháng 11, 1941
Hoàn thành 26 tháng 4, 1942
Nhập biên chế 26 tháng 4, 1942
Xóa đăng bạ 10 tháng 6, 1944
Số phận
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu Type B1
Trọng tải choán nước
  • 2.625 tấn (2.584 tấn Anh) (nổi) [1]
  • 3.713 tấn (3.654 tấn Anh) (ngầm) [1]
Chiều dài 108,7 m (356 ft 8 in) chung [1]
Sườn ngang 9,3 m (30 ft 6 in)[1]
Mớn nước 5,14 m (16 ft 10 in)[1]
Công suất lắp đặt
  • 12.400 bhp (9.200 kW) (diesel)[1]
  • 2.000 hp (1.500 kW) (điện)[1]
Động cơ đẩy
Tốc độ
Tầm xa
  • 14.000 nmi (26.000 km; 16.000 mi) ở tốc độ 16 hải lý trên giờ (30 km/h; 18 mph) (nổi)[1]
  • 96 nmi (178 km; 110 mi) ở tốc độ 3 hải lý trên giờ (5,6 km/h; 3,5 mph)
Độ sâu thử nghiệm 100 m (330 ft)
Thủy thủ đoàn 94
Vũ khí
Máy bay mang theo 1 × thủy phi cơ Yokosuka E14Y
Hệ thống phóng máy bay 1 × máy phóng máy bay

I-32 là một tàu ngầm tuần dương lớp Type-B (巡潜乙型潜水艦 Junsen Otsu-gata sensuikan?) được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã tuần tra tại Ấn Độ DươngThái Bình Dương cũng như tham gia các Chiến dịch GuadalcanalNew Guinea. I-32 mất tích sau ngày 23 tháng 3, 1944, có thể đã bị tàu khu trục USS Halsey Powell, tàu hộ tống khu trục USS Manlovetàu săn ngầm USS PC-1135 đánh chìm gần Wotje vào ngày 24 tháng 3, 1944

Thiết kế và chế tạo[sửa | sửa mã nguồn]

Thiết kế[sửa | sửa mã nguồn]

Tàu ngầm Type B được cải tiến từ phân lớp KD6 của lớp tàu ngầm Kaidai dẫn trước, và được trang bị một thủy phi cơ nhằm tăng cường khả năng trinh sát.[3] Chúng có trọng lượng choán nước 2.631 tấn (2.589 tấn Anh) khi nổi và 3.713 tấn (3.654 tấn Anh) khi lặn,[1] lườn tàu có chiều dài 108,7 m (356 ft 8 in), mạn tàu rộng 9,3 m (30 ft 6 in) và mớn nước sâu 5,1 m (16 ft 9 in).[1] Con tàu có thể lặn sâu đến 100 m (328 ft),[3] và có một thủy thủ đoàn đầy đủ bao gồm 94 sĩ quan và thủy thủ.[1]

Type B1 trang bị hai động cơ diesel Kampon Mk.2 Model 10 công suất 6.200 mã lực phanh (4.623 kW),[1] mỗi chiếc vận hành một trục chân vịt. Khi lặn, mỗi trục được vận hành bởi một động cơ điện công suất 1.000 mã lực (746 kW).[1] Khi di chuyển trên mặt nước nó đạt tốc độ tối đa 23,6 hải lý trên giờ (43,7 km/h; 27,2 mph) và 8 hải lý trên giờ (15 km/h; 9,2 mph) khi lặn dưới nước,[4] tầm xa hoạt động của Type B1 là 14.000 hải lý (26.000 km; 16.000 mi) ở tốc độ 16 hải lý trên giờ (30 km/h; 18 mph),[1] và có thể lặn xa 96 nmi (178 km; 110 mi) ở tốc độ 3 hải lý trên giờ (5,6 km/h; 3,5 mph).[5]

Những chiếc Type B1 có sáu ống phóng ngư lôi 53,3 cm (21,0 in), tất cả được bố trí trước mũi, và mang theo tổng cộng 17 quả ngư lôi Kiểu 95.[1] Vũ khí trên boong tàu bao gồm khẩu hải pháo 14 cm (5,5 in),[1][2] và hai pháo phòng không 25 mm Type 96.[5] Hầm chứa máy bay được tích hợp vào tháp chỉ huy và hướng ra phía trước. Máy phóng máy bay được bố trí hướng ra phía trước, trong khi khẩu hải pháo trên boong đặt phía sau. Cách sắp xếp này giúp chiếc thủy phi cơ Yokosuka E14Y tận dụng tốc độ hướng ra trước của con tàu khi được phóng lên.[5]

Chế tạo[sửa | sửa mã nguồn]

I-32 được đặt lườn như là chiếc Tàu ngầm số 145 tại Xưởng vũ khí Hải quân SaseboSasebo vào ngày 20 tháng 1, 1940.[6][7] Nó được đổi tên thành I-39 đồng thời được hạ thủy vào ngày 17 tháng 12, 1940,[6][7] rồi đổi tên thành I-32 vào ngày 1 tháng 11, 1941.[6][7] Con tàu hoàn tất và nhập biên chế vào ngày 26 tháng 4, 1942,[6][7] dưới quyền chỉ huy của Trung tá Hải quân Ikezawa Masayuki.[6]

Lịch sử hoạt động[sửa | sửa mã nguồn]

1942[sửa | sửa mã nguồn]

Ngay khi nhập biên chế, I-32 được phối thuộc cùng Quân khu Hải quân Kure.[6] Vào ngày 30 tháng 5, 1942, nó cùng các tàu ngầm chị em I-31I-33 gia nhập Đội tàu ngầm 15, thuộc Hải đội Tàu ngầm 1, trực thuộc Đệ Lục hạm đội.[6][7] I-32 khởi hành từ Kure vào ngày 16 tháng 6 để đi sang căn cứ Truk tại quần đảo Caroline.[7]

Chuyến tuần tra thứ nhất[sửa | sửa mã nguồn]

I-32 xuất phát từ Truk vào ngày 30 tháng 6 cho chuyến tuần tra đầu tiên ngoài khơi Australia.[7] Nó tiến hành trinh sát Port Vila trên đảo Efate thuộc quần đảo New Hebrides vào ngày 9 tháng 7, và New Caledonia từ ngày 13 đến ngày 15 tháng 7.[7] Sau đó nó vòng qua phía Nam lục địa Australia để đi vào Ấn Độ Dương.[7] Tại vị trí 200 nmi (370 km) về phía Đông Nam Esperance, Western Australia vào ngày 4 tháng 8, nó trồi lên mặt nước lúc 19 giờ 10 phút để tấn công bằng hải pháo tàu chở quân Australia Katoomba, vốn đang trong hành trình từ Fremantle, Western Australia đến Adelaide, South Australia.[7] Katoomba chống trả hết mức bằng hải pháo và chạy hết tốc độ, đồng thời đánh tín hiệu cầu cứu. I-32 từ bỏ cuộc truy đuổi sau ba giờ và không bắn trúng Katoomba phát nào.[7] Nó kết thúc chuyến tuần tra tại Penang, Malaya vào ngày 28 tháng 8, rồi lên đường vào ngày 6 tháng 9 và về đến Truk vào ngày 18 tháng 9.[7]

Chuyến tuần tra thứ hai[sửa | sửa mã nguồn]

Mang theo một thủy phi cơ Yokosuka E14Y, I-32 khởi hành từ Truk vào ngày 30 tháng 9 để bắt đầu chuyến tuần tra thứ hai, với nhiệm vụ trinh sát khu vực Nouméa, New Caledonia.[7] Tuy nhiên nó gặp trục trặc rò rỉ dầu diesel vào ngày 3 tháng 10, nên phải hủy bỏ chuyến tuần tra và về đến Truk vào ngày 6 tháng 10.[7] Chiếc tàu ngầm buộc phải quay trở về Nhật Bản để sửa chữa, về đến Kure vào ngày 13 tháng 10.[7]

Chiến dịch New Guinea[sửa | sửa mã nguồn]

Sau khi hoàn tất việc sửa chữa, I-32 rời Kure vào ngày 4 tháng 12 để quay trở lại Truk, rồi lại lên đường vào ngày 14 tháng 12 để đi sang Rabaul trên đảo New Britain.[7] Lúc đang đi ngầm trong biển Bismarck ngoài khơi quần đảo Admiralty vào ngày 16 tháng 12, nó phát hiện một tàu ngầm Đồng Minh đang đi trên mặt nước lúc 22 giờ 00, nên đổi hướng để tiếp cận mục tiêu. Tuy nhiên đối phương đã lặn xuống trước khi I-32 kịp tấn công.[7] Nó đi đến Rabaul vào ngày 17 tháng 12.[7]

Từ Rabaul, I-32 bắt đầu thực hiện một loạt các chuyến đi tiếp liệu sang Papua New Guinea để hỗ trợ cho lực lượng Nhật Bản đồn trú tại đây đang tham gia Chiến dịch New Guinea.[7] Chất lên tàu 22 tấn đạn dược và lương thực, nó rời Rabaul cho chuyến đi tiếp liệu đầu tiên vào ngày 19 tháng 12, đi đến khu vực cửa sông Mambare tại Buna trên bờ biển New Guinea vào ngày 24 tháng 12. Nó chất dỡ hàng hóa rồi lên đường ngay cho chặng quay trở về, đi đến Rabaul vào ngày 26 tháng 12.[7] Nó lại rời Rabaul vào ngày 27 tháng 12 cho chuyến đi tiếp liệu thứ hai, nhưng đã không thành công khi không liên lạc được với lực lượng đồn trú trên bờ, và quay trở về đến Rabaul vào ngày 31 tháng 12 với hàng hóa còn nguyên vẹn trên tàu.[7]

1943[sửa | sửa mã nguồn]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r s “Type B1”. combinedfleet.com. 2016. Truy cập ngày 6 tháng 5 năm 2024.
  2. ^ a b Campbell (1985), tr. 191.
  3. ^ a b Bagnasco (1944), tr. 189.
  4. ^ Chesneau (1980), tr. 200.
  5. ^ a b c Carpenter & Polmar (1986), tr. 102.
  6. ^ a b c d e f g “I-32 ex I-39 ex No-145”. ijnsubsite.info. 11 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 13 tháng 5 năm 2024.
  7. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r s t u Hackett, Bob; Kingsepp, Sander (2012). “IJN Submarine I-32: Tabular Record of Movement”. combinedfleet.com. Truy cập ngày 13 tháng 5 năm 2024.

Thư mục[sửa | sửa mã nguồn]

  • Bagnasco, Erminio (1977). Submarines of World War Two. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN 0-87021-962-6.
  • Boyd, Carl & Yoshida, Akikiko (2002). The Japanese Submarine Force and World War II. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN 1-55750-015-0.
  • Campbell, John (1985). Naval Weapons of World War Two. Naval Institute Press. ISBN 978-0870214592.
  • Carpenter, Dorr B. & Polmar, Norman (1986). Submarines of the Imperial Japanese Navy 1904–1945. London: Conway Maritime Press. ISBN 0-85177-396-6.
  • Chesneau, Roger biên tập (1980). Conway's All the World's Fighting Ships 1922–1946. Greenwich, UK: Conway Maritime Press. ISBN 0-85177-146-7.
  • Hashimoto, Mochitsura (1954). Sunk: The Story of the Japanese Submarine Fleet 1942 – 1945. Colegrave, E.H.M. (translator). London: Cassell and Company. ASIN B000QSM3L0.
  • Milanovich, Kathrin (2021). “The IJN Submarines of the I 15 Class”. Trong Jordan, John (biên tập). Warship 2021. Oxford, UK: Osprey Publishing. tr. 29–43. ISBN 978-1-4728-4779-9.
  • Stille, Mark (2007). Imperial Japanese Navy Submarines 1941-45. New Vanguard. 135. Botley, Oxford, UK: Osprey Publishing. ISBN 978-1-84603-090-1.

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]