Bước tới nội dung

I-29 (tàu ngầm Nhật)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Lịch sử
Đế quốc Nhật Bản
Tên gọi Tàu ngầm số 142
Xưởng đóng tàu Xưởng vũ khí Hải quân Yokosuka
Đặt lườn 20 tháng 9, 1939
Hạ thủy 29 tháng 9, 1940
Đổi tên I-31, 29 tháng 9, 1940
Đổi tên I-29, 1 tháng 11, 1941
Hoàn thành 27 tháng 2, 1942
Nhập biên chế 27 tháng 2, 1942
Xóa đăng bạ 10 tháng 10, 1944
Số phận Bị tàu ngầm USS Sawfish đánh chìm trong eo biển Balintang, Philippines, 26 tháng 7, 1944
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu Type B1
Trọng tải choán nước
  • 2.625 tấn (2.584 tấn Anh) (nổi) [1]
  • 3.713 tấn (3.654 tấn Anh) (ngầm) [1]
Chiều dài 108,7 m (356 ft 8 in) chung [1]
Sườn ngang 9,3 m (30 ft 6 in)[1]
Mớn nước 5,14 m (16 ft 10 in)[1]
Công suất lắp đặt
  • 12.400 bhp (9.200 kW) (diesel)[1]
  • 2.000 hp (1.500 kW) (điện)[1]
Động cơ đẩy
Tốc độ
Tầm xa
  • 14.000 nmi (26.000 km; 16.000 mi) ở tốc độ 16 hải lý trên giờ (30 km/h; 18 mph) (nổi)[1]
  • 96 nmi (178 km; 110 mi) ở tốc độ 3 hải lý trên giờ (5,6 km/h; 3,5 mph)
Độ sâu thử nghiệm 100 m (330 ft)
Thủy thủ đoàn 94
Vũ khí
Máy bay mang theo 1 × thủy phi cơ Yokosuka E14Y
Hệ thống phóng máy bay 1 × máy phóng máy bay

I-29, tên mã Matsu, là một tàu ngầm tuần dương lớp Type-B (巡潜乙型潜水艦 Junsen Otsu-gata sensuikan?) được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã từng tham gia trận chiến biển Coraltấn công cảng Sydney, trước khi chủ yếu hoạt động tuần tra tại Ấn Độ Dương từ giữa năm 1942. Dưới tên mã Matsu (松, Hán-Việt: Tùng), chiếc tàu ngầm được huy động tham gia nhiệm vụ Yanagi nhằm trao đổi vật tư chiến lược, nhân sự và hàng hóa với Đức Quốc Xã. I-29 hoàn tất nhiệm vụ đầu tiên trong tháng 5, 1943; nhưng trong chặng quay trở về của nhiệm vụ thứ hai, nó bị tàu ngầm Hoa Kỳ USS Sawfish đánh chìm trong eo biển Balintang, Philippines vào ngày 26 tháng 7, 1944.

Thiết kế và chế tạo[sửa | sửa mã nguồn]

Thiết kế[sửa | sửa mã nguồn]

Tàu ngầm Type B được cải tiến từ phân lớp KD6 của lớp tàu ngầm Kaidai dẫn trước, và được trang bị một thủy phi cơ nhằm tăng cường khả năng trinh sát.[3] Chúng có trọng lượng choán nước 2.631 tấn (2.589 tấn Anh) khi nổi và 3.713 tấn (3.654 tấn Anh) khi lặn,[1] lườn tàu có chiều dài 108,7 m (356 ft 8 in), mạn tàu rộng 9,3 m (30 ft 6 in) và mớn nước sâu 5,1 m (16 ft 9 in).[1] Con tàu có thể lặn sâu đến 100 m (328 ft),[3] và có một thủy thủ đoàn đầy đủ bao gồm 94 sĩ quan và thủy thủ.[1]

Type B1 trang bị hai động cơ diesel Kampon Mk.2 Model 10 công suất 6.200 mã lực phanh (4.623 kW),[1] mỗi chiếc vận hành một trục chân vịt. Khi lặn, mỗi trục được vận hành bởi một động cơ điện công suất 1.000 mã lực (746 kW).[1] Khi di chuyển trên mặt nước nó đạt tốc độ tối đa 23,6 hải lý trên giờ (43,7 km/h; 27,2 mph) và 8 hải lý trên giờ (15 km/h; 9,2 mph) khi lặn dưới nước,[4] tầm xa hoạt động của Type B1 là 14.000 hải lý (26.000 km; 16.000 mi) ở tốc độ 16 hải lý trên giờ (30 km/h; 18 mph),[1] và có thể lặn xa 96 nmi (178 km; 110 mi) ở tốc độ 3 hải lý trên giờ (5,6 km/h; 3,5 mph).[5]

Những chiếc Type B1 có sáu ống phóng ngư lôi 53,3 cm (21,0 in), tất cả được bố trí trước mũi, và mang theo tổng cộng 17 quả ngư lôi Kiểu 95.[1] Vũ khí trên boong tàu bao gồm khẩu hải pháo 14 cm (5,5 in),[1][2] và hai pháo phòng không 25 mm Type 96.[5] Hầm chứa máy bay được tích hợp vào tháp chỉ huy và hướng ra phía trước. Máy phóng máy bay được bố trí hướng ra phía trước, trong khi khẩu hải pháo trên boong đặt phía sau. Cách sắp xếp này giúp chiếc thủy phi cơ Yokosuka E14Y tận dụng tốc độ hướng ra trước của con tàu khi được phóng lên.[5]

Chế tạo[sửa | sửa mã nguồn]

I-29 được đặt lườn như là chiếc Tàu ngầm số 142 tại Xưởng vũ khí Hải quân Yokosuka vào ngày 20 tháng 9, 1939.[6][7] Nó được đổi tên thành I-33 đồng thời được hạ thủy vào ngày 29 tháng 9, 1940,[6][7] rồi đổi tên thành I-29 vào ngày 1 tháng 11, 1941.[6][7] Con tàu hoàn tất và nhập biên chế vào ngày 27 tháng 2, 1942,[6][7] dưới quyền chỉ huy của Thiếu tá Hải quân Izu Juichi.[6]

Nhiệm vụ Yanagi[sửa | sửa mã nguồn]

Theo tinh thần Hiệp ước Ba bên (Tripartite Pact) được ký kết giữa Đức Quốc Xã, Ý vào Nhật Bảntháng 9, 1940, Nhật Bản trao đổi nhân sự, vật tư chiến lược và hàng hóa với Đức và Ý, thoạt tiên sử dụng tàu chở hàng, nhưng phải chuyển sang tàu ngầm khi các vùng biển bị lực lượng Đồng Minh phong tỏa.

Lần lượt đã tổ chức các chuyến: I-30 vào tháng 4, 1942; I-29 vào tháng 4, 1943; I-8 vào tháng 6, 1943; I-34 vào tháng 10, 1943; U-511 vào tháng 8, 1943; I-52 vào tháng 6, 1944; và U-234 vào tháng 5, 1945. Trong số này, I-30 đắm do trúng thủy lôiI-34 bị tàu ngầm Anh HMS Taurus đánh chìm, sau đó I-52 chịu cùng chung số phận. Vào tháng 5, 1945, U-234 đang thực hiện chuyến đi cuối cùng khi Đức Quốc Xã đầu hàng, nên U-234 bị chiếm giữ tại Newfoundland, kết thúc việc trao đổi kỹ thuật với Nhật Bản.

Lịch sử hoạt động[sửa | sửa mã nguồn]

1942[sửa | sửa mã nguồn]

Ngay khi nhập biên chế, I-29 được phối thuộc cùng Quân khu Hải quân Kure.[6] Vào ngày 24 tháng 2, 1942, nó gia nhập Đội tàu ngầm 14 trực thuộc Đệ Lục hạm đội.[6][7] Đến ngày 10 tháng 3, Đội tàu ngầm 14 được điều động về Hải đội Tàu ngầm 8 và trực thuộc Đệ Lục hạm đội.[6] I-29 cùng Đội tàu ngầm 14 (còn bao gồm các chiếc I-27I-28) và Đội tàu ngầm 3 (các chiếc I-21, I-22I-24) được điều sang Lực lượng Tiền phương phía Đông, và rời Kure vào ngày 16 tháng 4 để hỗ trợ cho kế hoạch chiếm Port Moresby, Papua New Guinea.[7]

Chuyến tuần tra thứ nhất[sửa | sửa mã nguồn]

Sau khi đi đến căn cứ Truk vào ngày 24 tháng 4, I-29 khởi hành sáu ngày sau đó cho chuyến tuần tra đầu tiên trong chiến tranh dọc bờ biển phía Đông Australia; nó mang theo một thủy phi cơ Yokosuka E14Y.[7] Nó đi đến vị trí tuần tra vào ngày 5 tháng 5.[7] Khi kế hoạch chiếm Port Moresby bị hủy bỏ sau Trận chiến biển Coral, đến ngày 13 tháng 5, I-29 chuyển sang tuần tra ngoài khơi Sydney.[7] Vào ngày 16 tháng 5, ở vị trí cách 35 mi (56 km) về phía Đông Newcastle, New South Wales, nó phóng hai quả ngư lôi tấn công tàu buôn vũ trang Liên Xô Uelen (5.135 tấn), rồi trồi lên mặt nước để tiếp tục bắn phá mục tiêu bằng hải pháo; Uelen chỉ bị hư hại nhẹ với ba thủy thủ bị thương.[7]

Đến sáng sớm ngày 23 tháng 5, I-29 cho phóng chiếc thủy phi cơ để trinh sát cảng Sydney, phát hiện nhiều tàu chiến và tàu buôn Đồng Minh trong cảng.[7] Căn cứ trên những thông tin này, Bộ tư lệnh Đệ Lục hạm đội đã ra lệnh cho các tàu ngầm I-22, I-24I-27 tiến hành cuộc tấn công cảng Sydney bằng tàu ngầm bỏ túi lớp Kō-hyōteki.[7] I-27 kết thúc chuyến tuần tra vào ngày 10 tháng 6 và lên đường quay trở về căn cứ. Trên đường đi, thủy phi cơ của nó đã trinh sát Noumea, rồi về đến Kwajalein thuộc quần đảo Marshall.[7]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r s “Type B1”. combinedfleet.com. 2016. Truy cập ngày 6 tháng 5 năm 2024.
  2. ^ a b Campbell (1985), tr. 191.
  3. ^ a b Bagnasco (1944), tr. 189.
  4. ^ Chesneau (1980), tr. 200.
  5. ^ a b c Carpenter & Polmar (1986), tr. 102.
  6. ^ a b c d e f g h “I-29 ex I-33 ex No-142”. ijnsubsite.info. 31 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 12 tháng 5 năm 2024.
  7. ^ a b c d e f g h i j k l m Hackett, Bob; Kingsepp, Sander (2016). “IJN Submarine I-29: Tabular Record of Movement”. combinedfleet.com. Truy cập ngày 12 tháng 5 năm 2024.

Thư mục[sửa | sửa mã nguồn]

  • Bagnasco, Erminio (1977). Submarines of World War Two. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN 0-87021-962-6.
  • Boyd, Carl & Yoshida, Akikiko (2002). The Japanese Submarine Force and World War II. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN 1-55750-015-0.
  • Campbell, John (1985). Naval Weapons of World War Two. Naval Institute Press. ISBN 978-0870214592.
  • Carpenter, Dorr B. & Polmar, Norman (1986). Submarines of the Imperial Japanese Navy 1904–1945. London: Conway Maritime Press. ISBN 0-85177-396-6.
  • Chesneau, Roger biên tập (1980). Conway's All the World's Fighting Ships 1922–1946. Greenwich, UK: Conway Maritime Press. ISBN 0-85177-146-7.
  • Hashimoto, Mochitsura (1954). Sunk: The Story of the Japanese Submarine Fleet 1942 – 1945. Colegrave, E.H.M. (translator). London: Cassell and Company. ASIN B000QSM3L0.
  • Milanovich, Kathrin (2021). “The IJN Submarines of the I 15 Class”. Trong Jordan, John (biên tập). Warship 2021. Oxford, UK: Osprey Publishing. tr. 29–43. ISBN 978-1-4728-4779-9.
  • Paterson, Lawrence (2004). “II”. Hitler's Grey Wolves: U-Boats in the Indian Ocean. Mechanicsburg, PA: Stackpole Books. ISBN 1-85367-615-2.
  • Stille, Mark (2007). Imperial Japanese Navy Submarines 1941-45. New Vanguard. 135. Botley, Oxford, UK: Osprey Publishing. ISBN 978-1-84603-090-1.

Đọc thêm[sửa | sửa mã nguồn]

  • Blair, Clay (1996). Hitler's U-Boat War: The Hunters, 1939-1942. London: RandomHouse. ISBN 0394588398.
  • Goss, Chris (1997). Bloody Biscay: The Story of the Luftwaffe's Only Long Range Maritime Fighter Unit, V Gruppe/Kampfgeschwader 40, and its Adversaries, 1942-1944. Manchester, England: Crecy Publishing. ISBN 0-947554-62-9.
  • Jenkins, David (1992). Battle Surface!: Japan's Submarine War Against Australia, 1942-44. Milsons Point, New South Wales: Random House. ISBN 0 340 54336 1.
  • Miller, Vernon (1999). Japanese Submarine Losses to Allied Submarines in World War II. Merriam Press Original Publication. ISBN 9781576381618.

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]