Kim Go-eun

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Đây là một tên người Triều Tiên, họ là Kim.
Kim Go-eun
김고은
Sinh김고은
2 tháng 7, 1991 (32 tuổi)
Yeonhui-dong, Seodaemun-gu, Seoul, Hàn Quốc
Quốc tịch Hàn Quốc
Tên khác곤 (gon)
Học vịĐại học Nghệ thuật Quốc gia Hàn Quốc - Khoa Nghệ thuật biểu diễn và Sân khấu
Nghề nghiệpDiễn viên
Người mẫu
Năm hoạt động2012 - nay
Người đại diệnBH Entertainment[1]
Chiều cao1,67 m (5 ft 5+12 in)
Cân nặng48 kg (106 lb)
Trang webKim Go-eun trên Instagram
Tên tiếng Triều Tiên
Hangul
Hanja
Romaja quốc ngữGim Go-eun
McCune–ReischauerKim Ko-ŭn
Hán-ViệtKim Cao Ngân

Kim Go-Eun (Tiếng Hàn김고은; sinh ngày 2 tháng 7 năm 1991) là nữ diễn viên và người mẫu người Hàn Quốc. Cô bắt đầu sự nghiệp diễn xuất với bộ phim A Muse (2012) và tiếp tục xuất hiện trong bộ phim tội phạm kinh dị Monster (2014) và Coin Locker Girl (2015). Sau đó, Go-eun tiếp nhận vai nữ chính trong hai bộ phim truyền hình phát sóng trên kênh tvNBẫy tình yêu (2016) và Yêu tinh (2016–17).

Trong sự nghiệp diễn xuất của mình, Kim Go-eun đã nhận được nhiều giải thưởng, trong đó đáng chú ý nhất là Giải thưởng điện ảnh Blue Dragon cho nữ diễn viên mới xuất sắc nhất, Giải thưởng Nghệ thuật Baeksang cho nữ diễn viên mới xuất sắc nhất (phim truyền hình) và gần đây nhất là Giải thưởng Phim truyền hình Rồng Xanh cho nữ diễn viên chính xuất sắc nhất.

Tiểu sử[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 1994, khi Go-eun mới 3 tuổi, cô cùng gia đình chuyển đến sinh sống tại thủ đô Bắc Kinh, Trung Quốc và sinh sống tại đây trong suốt hơn 10 năm. Khi quay trở lại Hàn Quốc, cô chia sẻ rằng bản thân mình thực sự đã rất sốc với môi trường sống thay đổi và tính cạnh tranh khắc nghiệt tại quê hương, những trải nghiệm mới đó khác hẳn với những năm tháng ở nước ngoài của cô, ngoại cảnh chính là thứ đã gây tác động mạnh mẽ nhất tới tính cách của Go-eun sau này. Và cũng vì cảm nhận được điều đó mà đạo diễn phim A Muse - nhà sản xuất Jung Ji-woo đã giao vai nữ chính trong tác phẩm của mình cho Go-eun: "Cô ấy có một sự tò mò và lòng can đảm bẩm sinh. Cô ấy mạnh mẽ ở khía cạnh không bao giờ bị ngoại lực tác động dễ dàng, và cô ấy cũng không đi theo những lối mòn được định hướng sẵn chỉ vì mọi người xung quanh ai cũng làm vậy" – ông chia sẻ[3].

Cô cũng chia sẻ thêm rằng, bản thân mình là một fan nhiệt thành, rất thích và đã xem đi xem lại nhiều lần tác phẩm Together (2002) của đạo diễn, nhà sản xuất phim người Trung Quốc Trần Khải Ca và lần nào cũng khóc, kể từ đó, Kim Go-eun quyết định nung nấu ước mơ trở thành một nhà biên kịch phim. Tuy nhiên, cơ duyên lại mang cô đến với sân khấu điện ảnh. Cô theo học và tốt nghiệp trường Đại học Nghệ thuật Quốc gia Hàn Quốc[4][5]. Ngoài tiếng Hàn là ngôn ngữ mẹ đẻ, cô còn thông thạo tiếng Trung do đã sinh sống nhiều năm ở Trung Quốc.

Cuộc sống cá nhân[sửa | sửa mã nguồn]

Vào tháng 08 năm 2016, đại diện của Kim Go-eun xác nhận rằng cô đang hẹn hò với nam tài tử Shin Ha-kyun. Tuy nhiên, cả hai đã xác nhận chia tay vào tháng 2 năm 2017 với lý do lịch trình bận rộn và tiếp tục giữ mối quan hệ bạn bè, tiền bối – hậu bối.

Sự nghiệp diễn xuất[sửa | sửa mã nguồn]

2012: A Muse và những thành công bước đầu[sửa | sửa mã nguồn]

Từ một sinh viên, năm 2012, Kim Go Eun trở thành tâm điểm chú ý của các phương tiện truyền thông khi tham gia tác phẩm điện ảnh 18+ của đạo diễn Jung Ji-Woo mang tên A Muse (Eungyo, tên tiếng Việt: Nàng Thơ). Trong phim, cô vào vai Han Eun-Gyo, một nữ sinh trung học 17 tuổi xinh đẹp nhưng thiếu thốn tình thương. Chán nản với những trận đòn roi của mẹ, cô tìm đến sự bình yên nơi mái hiên của Lee Jeok-Yo (Park Hae-Il), một nhà thơ 70 tuổi. Cô bé Eun Gyo sau đó đến giúp việc tại căn nhà của người mà cô gọi là "ông nội", trở thành nguồn cảm hứng và đánh thức dục vọng bên trong hai người đàn ông: một nhà thơ già luôn mong mỏi tìm lại sức sống của tuổi trẻ đã qua và một cậu học trò thèm khát hư danh có tên Seo Ji-Woo (Kim Moo-Yeol).

Mô tả cảm xúc của mình về những đặc điểm nghề nghiệp, Kim Go-eun nói: "Khi tôi đứng trên sân khấu lần đầu tiên, tôi đã rất lo lắng và tôi nghĩ rằng nó sẽ rất khó khăn nếu tôi phải làm điều này cho phần còn lại của cuộc đời tôi. Nhưng từ những lần sau, tôi cảm thấy ngây ngất, như thể tôi đã có đôi cánh trên lưng, và tôi không bao giờ muốn bước ra khỏi sân khấu. Tôi tiếp tục diễn xuất vì tôi muốn giữ cảm giác đó". Về quyết định để bản thân hạn chế xuất hiện trong những quảng cáo, cô nói: "Tôi không bao giờ nghĩ về hình ảnh của mình hoặc hợp đồng quảng cáo tiềm năng khi lựa chọn các dự án phim tiếp theo. Điều tôi lo lắng là những tác động xuất hiện của tôi trong quảng cáo sẽ có trong những vai diễn của tôi".

Kim Go-Eun, một sinh viên chuyên ngành diễn xuất nhiều triển vọng lúc đó mới 20 tuổi, chưa từng tham gia một dự án điện ảnh nào ngoài những bài tập làm phim và các vở kịch ở trường. Cô gặp gỡ đạo diễn Jung Ji-Woo thông qua những người bạn mà không hề biết rằng, ông cũng đang tìm kiếm "nàng thơ" cho bộ phim của mình, "Tôi được đạo diễn yêu cầu thử vai sau cuộc trò chuyện. Tôi thậm chí còn không thể chuẩn bị được gì nữa", Go-Eun nhớ lại.

Năng lực tiềm tàng trong con người Kim Go-Eun đã giúp cô sinh viên không một chút kinh nghiệm ấy vượt qua hơn 300 ứng viên để hóa thân thành nàng Lolita xứ Hàn. Nhưng bối cảnh 18+ của A Muse lại thực sự là thử thách đối với cô. Ngay ở vai diễn đầu tay này, Kim phải đảm nhận tới hai cảnh 18+ cùng bạn diễn Park Hae-Il và Kim Moo-Yeol. Nữ diễn viên trẻ thừa nhận từng rất lo lắng và xấu hổ, nhưng khi những cảnh quay bắt đầu được ghi lại, cô lại nhanh chóng cảm thấy bản thân hoàn toàn đắm chìm vào nhân vật.

Vai diễn "Han Eun-Gyo" đã tạo nên hiện tượng diễn xuất của năm 2012 mang tên Kim Go-Eun, khi nó mang về cho nữ sinh viên trường Nghệ thuật tới 9 giải "Diễn viên mới xuất sắc nhất" tại các lễ trao giải, trong đó có "Chuông Vàng" lần thứ 49 và "Rồng Xanh" lần thứ 33 - hai giải thưởng danh giá bậc nhất của làng điện ảnh Hàn Quốc.

2013-2015: Gián đoạn và quay trở lại[sửa | sửa mã nguồn]

Mặc dù có nhiều lời đề nghị sau A Muse, Kim Go-eun quyết định tạm dừng diễn xuất, cô bắt đầu cho phép bản thân một khoảng thời gian nghỉ ngơi ngắn ngủi trong vòng hai năm, trong thời gian đó, Go-eun quay lại trường để hoàn thành việc học tập. Trở lại làng điện ảnh vào năm 2014, Kim Go-Eun đã cho thấy những bước trưởng thành đáng kể trong diễn xuất khi cô nhận lời tham gia phim điện ảnh Quái vật (2014) của đạo diễn Hwang In-Ho. Nhân vật của cô là Bok-Soon, một phụ nữ chậm phát triển có em gái bị một tên sát nhân giết hại dã man. Đau đớn và tức giận, Bok-Soon trở nên điên loạn và bắt đầu lên kế hoạch trả thù cho người em đã mất.

Đến năm 2015, Kim Go-Eun tiếp tục để lại dấu ấn trên màn ảnh rộng với ba vai diễn trong Coin Locker Girl - Phố người Hoa (2015)Memories Of The Sword và Xác chết bí ẩn (2015). Nếu như ở phim võ thuật Memories Of The Sword, cô hóa thân thành nữ kiếm khách Seol-Hee, thì đến với Xác chết bí ẩn, Kim lại được dịp làm một công tố viên đầy năng nổ và có phần hung hăng. Tuy nhiên, Phố người Hoa, tác phẩm có sự tham gia của nữ diễn viên gạo cội Kim Hye-Soo, mới là cái tên được chú ý nhất tại các phòng vé của Kim Go-Eun trong năm 2015.

2016 - Nay: Ra mắt phim truyền hình và sự nổi tiếng[sửa | sửa mã nguồn]

Đầu năm 2016, Kim Go-Eun ra mắt màn ảnh nhỏ với vai diễn Hong-Seol trong Bẫy tình yêu, dự án trực thuộc đài cáp tvN được chuyển thể từ Webtoon (truyện tranh phát hành trực tuyến) cùng tên của họa sĩ Soonkki. Đó là lần kết hợp đầu tiên của cô với đạo diễn Lee Yoo-Jung - người đã đưa Quán cà phê hoàng tử trở thành cái tên đình đám trên màn ảnh Hàn cách đây gần 9 năm. Cô cũng góp giọng hát của mình trong ca khúc "Attraction" bởi Tearliner cho OST của bộ phim. Go-eun sau đó đã giành giải thưởng Baeksang thuộc hạng mục Best New Actress cho vai diễn này, qua đó một lần nữa khẳng định được tài năng của mình trong lĩnh vực điện ảnh. Sau khi dự án trên hoàn thành, cô tiếp tục tham gia vào những dự án mới, một trong số đó là vai chính trong Canola (2016), một bộ phim gia đình cảm động kể về cuộc hội ngộ giữa một cô gái và bà ngoại của mình.

Cùng năm, Go-eun đóng vai nữ chính Ji Eun-tak trong bộ phim truyền hình mới của đài tvN mang tên Yêu tinh, kết hợp cùng 2 nam tài tử hàng đầu xứ Hàn là Gong YooLee Dong-wook. Được xem là tác phẩm thành công nhất năm 2016, đầu 2017 khi lượng khán giả theo dõi bộ phim gia tăng một cách chóng mặt qua từng tập phim. Ngoài ra, các bản OST của bộ phim cũng đồng loạt đứng ở những vị trí hàng đầu trong các bảng xếp hạng.

Năm 2019, Kim Go-eun trở lại màn ảnh rộng với phim điện ảnh Sunset in My Hometown (Hoàng hôn trên Thị trấn). Để hóa thân vào vai diễn, cô đã tăng 8kg. Cô cho biết: "Khi tôi nghiên cứu các nhân vật, tôi nghĩ rằng Sun-mi trông sẽ không xinh như vậy và Mi-kyung, người mà Hak-soo phải lòng, trông sẽ xinh hơn. Vì vậy, tôi quyết định tăng cân." Năm 2019, cô đóng cặp với bạn diễn Jung Hae-in trong một bộ phim điện ảnh khác là Tune in for Love. Bộ phim đã phá vỡ kỉ lục phòng vé cho một bộ phim tình cảm trong ngày khởi chiếu 28 tháng 8 năm 2019, thu về 173.562 lượt xem và vượt qua kỷ lục trước đó của Cậu bé người sói. Phim cũng là phim đứng đầu phòng vé Hàn Quốc trong tuần đầu tháng 9 năm 2019. Vào tháng 11, Tune in for Love được trình chiếu tại Liên hoan phim Đông Á Luân Đôn.

Trong giai đoạn năm 2020 đến năm 2022, Kim Go-eun tiếp tục hoạt động tích cực với các bộ phim như phim ngắn Untact, phim âm nhạc Hero và ba bộ phim truyền hình Quân vương bất diệt, Các tế bào của YumiNhững người phụ nữ bé nhỏ.

Danh sách các phim đã tham gia[sửa | sửa mã nguồn]

Phim[sửa | sửa mã nguồn]

Năm Tên phim Tên tiếng Hàn Vai diễn Ghi chú Tham khảo
2012 A Muse (còn gọi là Eungyo) 은교 Han Eun-kyo [6]
Yeonga Yung-ah Phim ngắn [7][8]
Comfort Eun-hye Phim độc lập
2013 Neverdie Butterfly 네버다이 버터플라이 Moon Soo-yeon Cameo [9]
2014 Monster 몬스터 Bok-soon [10]
2015 Coin Locker Girl 차이나타운 Il-young [11]
Memories of the Sword 협녀: 칼 의 기억 Seol-hee / Hong-yi [12]
Xác chết bí ẩn 성난 변호사 Jin Sun-mi [13]
2016 Canola 계춘할망 Hye-ji [14]
2018 Sunset in My Hometown 변산 Sun-mi [15]
2019 Hit-and-Run Squad 뺑반 Người quen của Min-jae Cameo
Tune in for Love 유열의 음악앨범 Kim Mi-soo [16]
2020 Untact 언택트 Soo-jin Phim ngắn [17]
2024 Exhuma: Quật mộ trùng ma 파묘 Hwa-rim
TBA Hero 영웅 Seol-hee Dự kiến phát hành vào 2022 [18]

Phim truyền hình[sửa | sửa mã nguồn]

Năm Tên phim Tên tiếng Hàn Kênh phát sóng Vai diễn Ghi chú Tham khảo
2016 Bẫy tình yêu (Cheese in the Trap) 치즈인더트랩 tvN Hong-Seol 16 tập [19]
2016–17 Yêu tinh (Goblin) 도깨비 Ji Eun-tak 16 tập + 3 tập đặc biệt [20]
2020 Quân vương bất diệt (The King: Eternal Monarch) 더 킹: 영원의 군주 SBS & Netflix Jung Tae-Eul/Luna 16 tập [21]
2021 -2022 Các tế bào của Yumi (Yumi's Cells) 유미의 세포들 tvN Kim Yumi 14 tập (mùa 1)

14 tập (mùa 2)

[22]
2022 Ba chị em 작은 아씨들 tvN & Netflix Oh In-ju 12 tập -

Hoạt động khác[sửa | sửa mã nguồn]

Vai trò đại sứ[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 2019, Kim Go Eun được chính thức công bố là đại sứ thương hiệu Chanel tại Hàn Quốc và cũng là diễn viên duy nhất được nhãn hàng chọn vào vị trí này. Sau đó, cô được chọn trở thành một trong bảy gương mặt cho chiến dịch quảng cáo đồng hồ mới "J12 Turns 20" của Chanel vào năm 2020.

Năm 2019, Kim Go Eun đã được bổ nhiệm làm nữ đại sứ danh dự cho hoạt động Tái Chế Tài Nguyên của Bộ Môi trường Hàn Quốc được tổ chức tại Trung tâm Báo chí Hàn Quốc vào ngày 30 tháng 8 năm 2019. Kim Go Eun luôn tích cực quan tâm đến các hoạt động đóng góp xã hội và bảo vệ môi trường như quyên góp cho nạn nhân cháy rừng ở khu vực Gangwon và loại bỏ rác thải nhựa trên biển với “NO Plastic Challenge".

Hoạt động thiện nguyện[sửa | sửa mã nguồn]

Vào cuối tháng 2 năm 2020, tổ chức phi chính phủ Good Neighbors của Hàn Quốc công bố rằng Kim Go Eun đã quyên góp 100 triệu Won (khoảng 2,173 tỷ VND) để cung cấp 40.000 chiếc khẩu trang cho các gia đình có thu nhập thấp ở Hàn Quốc giữa đại dịch Covid-19.

Giải thưởng và đề cử[sửa | sửa mã nguồn]

Năm Giải thưởng Hạng mục Đề cử Kết quả
2012 8th Jecheon International Music & Film Festival[23][24] Moët Rising Star Award
A Muse
Đoạt giải
21st Buil Film Awards[25] Best New Actress Đoạt giải
32nd Korean Association of Film Critics Awards[26][27] Đoạt giải
49th Grand Bell Awards[28][29] Best Actress Đề cử
Best New Actress Đoạt giải
33rd Blue Dragon Film Awards[30][31] Đoạt giải
2nd Beautiful Artist Awards[32]
(Shin Young-kyun Arts and Culture Foundation)
New Artist Award Đoạt giải
13th Busan Film Critics Awards Best New Actress Đoạt giải
2013 4th KOFRA Film Awards[33] Đoạt giải
49th Baeksang Arts Awards Best New Actress (Film) Đề cử
12th New York Asian Film Festival[34][35] Star Asia Rising Star Award Đoạt giải
2015 19th Bucheon International Fantastic Film Festival[36] Fantasia Award
Coin Locker Girl
Đoạt giải
24th Buil Film Awards Best Actress Đề cử
2016 52nd Baeksang Arts Awards Best New Actress (Television)
Cheese in the Trap
Đoạt giải
Most Popular Actress (Television) Đề cử
5th APAN Star Awards Best New Actress Đề cử
Style Icon Awards Amazing Rising Star
Kim Go-eun
Đoạt giải
2017 53rd Baeksang Arts Awards Best Actress Yêu tinh Đề cử
2018 Asia Artist Award Best Actress
Kim Go-eun
Đề cử
13th Anual Soompi Awards Actress of the Year Đề cử
2019 Asia Artist Award Best Actress Đề cử
2020 Asia Artist Award
Kim Go-eun
Đề cử
25th Chunsa Film Art Awards
Tune in for love
Đề cử
APAN Awards Female Popularity Award
Kim Go-eun
Đề cử
2022 1st Blue Dragon Series Awards Best Actress Các tế bào của Yumi Đoạt giải

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ “[공식입장] BH엔터 측 "김고은과 최근 전속계약". OSEN (bằng tiếng Hàn). 17 tháng 7 năm 2017. Truy cập ngày 17 tháng 7 năm 2017.
  2. ^ “【中字】金高银(Kim Go Eun 김고은) [中字]Elastine 2017年代言人~金高银”. Youtube (bằng tiếng Trung). ngày 29 tháng 7 năm 2017. Truy cập ngày 6 tháng 3 năm 2024.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  3. ^ Lee, Claire (2 tháng 5 năm 2012). “Jung Ji-woo talks on his new film, new muse”. The Korea Herald. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 5 năm 2012. Truy cập ngày 18 tháng 11 năm 2012.
  4. ^ “Unknown Starlet Gets Big Break as Korean Lolita”. The Chosun Ilbo. 21 tháng 4 năm 2012. Truy cập ngày 18 tháng 11 năm 2012.
  5. ^ “Stars from Korea National University of Arts”. Hancinema. 17 tháng 5 năm 2012. Truy cập ngày 18 tháng 11 năm 2012.
  6. ^ A Muse Kim Go-eun takes off the veil”. Hancinema. 25 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 18 tháng 11 năm 2012.
  7. ^ “영아 Yeonga”. IndieForum. ngày 14 tháng 5 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 12 năm 2016. Truy cập ngày 18 tháng 11 năm 2012.
  8. ^ “영아 Yeonga”. Daegu Independent Short Film Festival. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 18 tháng 11 năm 2012.
  9. ^ “뉴스 김고은 <네버다이 버터플라이> 깜짝 출연, <은교> 이전 모습 눈길”. Max Movie (bằng tiếng Hàn). 16 tháng 10 năm 2013.
  10. ^ Lee, Claire (21 tháng 2 năm 2014). “Kim Go-eun to come back in vicious revenge tale”. The Korea Herald. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2014.
  11. ^ Conran, Pierce (14 tháng 5 năm 2014). “KIM Hye-soo and KIM Go-eun Team Up for COIN LOCKER GIRL”. Korean Film Biz Zone. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2014.
  12. ^ Jang, Seong-ran (20 tháng 8 năm 2015). “Going deep in Memories. Korea JoongAng Daily. Truy cập ngày 26 tháng 8 năm 2014.
  13. ^ Lim, Jeong-yeo (7 tháng 9 năm 2015). “Lee Sun-kyun and Kim Go-eun on The Advocate: A Missing Body. K-pop Herald. Truy cập ngày 12 tháng 9 năm 2015.
  14. ^ “YOUN Yuh-jung and KIM Go-eun Play Family”. Korean Film Biz Zone. 27 tháng 1 năm 2015. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2017.
  15. ^ “KIM Go-eun and PARK Jung-min Head to BYEONSAN for LEE Joon-ik”. Korean Film Biz Zone. 21 tháng 8 năm 2017.
  16. ^ “KIM Go-eun and JUNG Hae-in Queue Up YOO YEOL'S MUSIC ALBUM”. Korean Film Biz Zone. 4 tháng 10 năm 2018.
  17. ^ “갤럭시폰으로 촬영한 김고은 주연 8K 영화 '언택트' 개봉”. Yonhap News (bằng tiếng Hàn). 16 tháng 10 năm 2020.
  18. ^ “Kim Go-eun cast in the 'Hero' film”. Korea JoongAng Daily. 13 tháng 6 năm 2019.
  19. ^ Ko, Ji-seon (28 tháng 7 năm 2015). “Kim Go-eun to star in Cheese in the Trap. K-pop Herald. Truy cập ngày 29 tháng 7 năm 2015.
  20. ^ “Kim Go-eun nabs lead role in 'Goblin' drama”. Korea JoongAng Daily. 27 tháng 5 năm 2016. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2017.
  21. ^ “Kim Go-eun cast in new drama series by star screenwriter”. K-pop Herald. 20 tháng 5 năm 2019. Truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2019.
  22. ^ Choi Bo-ran (31 tháng 12 năm 2020). “김고은, 웹툰 원작 '유미의 세포들' 여주인공 캐스팅 확정(공식)”. sports.donga (bằng tiếng Hàn). Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2020.
  23. ^ Suk, Monica (ngày 12 tháng 8 năm 2012). “JIMFF: Rising stars pop champagne with fizz and sparkle”. 10Asia. Truy cập ngày 18 tháng 11 năm 2012.
  24. ^ Suk, Monica (ngày 13 tháng 8 năm 2012). Eungyo actress Kim Go-eun wins rising star award from Moet & Chandon”. 10Asia. Truy cập ngày 18 tháng 11 năm 2012.
  25. ^ 김고은, '그물에 잡힌 가녀린 각선미' (부일영화상). TV Report (bằng tiếng Triều Tiên). ngày 5 tháng 10 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 2 năm 2013. Truy cập ngày 4 tháng 12 năm 2012.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  26. ^ Jang, Sung-ran (ngày 19 tháng 10 năm 2012). “PIETA Wins a Triple Crown”. Korean Film Biz Zone. Truy cập ngày 18 tháng 11 năm 2012.
  27. ^ '영평 신인상' 김고은 "믿음으로 지켜봐준 부모님께 감사하다". TV Report (bằng tiếng Triều Tiên). ngày 7 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 4 tháng 12 năm 2012.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  28. ^ Lee, Claire (ngày 30 tháng 10 năm 2012). Gwanghae sweeps Daejong Film Awards”. The Korea Herald. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 18 tháng 11 năm 2012.
  29. ^ 김고은 대종상 신인여우상 "박해일 김무열에 감사하다". Newsen (bằng tiếng Triều Tiên). ngày 30 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 4 tháng 12 năm 2012.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  30. ^ Ji, Yong-jin (ngày 4 tháng 12 năm 2012). “PIETA Wins Best Picture at Blue Dragon Awards”. Korean Film Biz Zone. Truy cập ngày 4 tháng 12 năm 2012.
  31. ^ 제33회 청룡영화상: 신인여우상 김고은 "초심 잃지 않겠다". Blue Dragon Film Awards (bằng tiếng Triều Tiên). ngày 30 tháng 11 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 1 tháng 12 năm 2012.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  32. ^ Ji, Yong-jin (ngày 28 tháng 11 năm 2012). “KIM Ki-duk Scores Another Brilliant Achievement”. Korean Film op Zone. Truy cập ngày 1 tháng 12 năm 2012.
  33. ^ Ji, Yong-jin (ngày 1 tháng 2 năm 2013). “PIETA Regarded as the Best Film in 2012 by Reporters”. Korean Film Biz Zone. Truy cập ngày 4 tháng 2 năm 2013.
  34. ^ Conran, Pierce (ngày 12 tháng 6 năm 2013). “KIM Ko-eun Honored by NYAFF This Summer”. Korean Film Biz Zone. Truy cập ngày 14 tháng 6 năm 2013.
  35. ^ “Actress Kim Go-eun Feted as Rising New Star in New York”. The Chosun Ilbo. ngày 2 tháng 7 năm 2013. Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2013.
  36. ^ Conran, Pierce (ngày 10 tháng 7 năm 2015). “LEE Min-ho and MOON Chae-won to Receive BiFan Awards”. Korean Film Biz Zone. Truy cập ngày 10 tháng 7 năm 2015.

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]