Bước tới nội dung

Liên hoan phim quốc tế Moskva

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
(Đổi hướng từ Liên hoan phim Quốc tế Moskva)
Liên hoan phim quốc tế Moskva
Nhà hát Rossiya Cinema là nơi duy nhất tổ chức Liên hoan phim quốc tế Moskva.
Địa điểmMoskva, Nga
Thành lập1935
Cổng thông tin Điện ảnh

Liên hoan phim quốc tế Moskva là một liên hoan phim lâu đời thứ nhì thế giới, sau Liên hoan phim Venezia. Liên hoan phim này được tổ chức lần đầu ở Moskva năm 1935.[1] Từ năm 1959 tới năm 1995, liên hoan phim này được tổ chức mỗi 2 năm một lần (các năm lẻ) vào tháng 7, xen kẽ với Liên hoan phim quốc tế Karlovy Vary, sau đó được tổ chức hàng năm. Để phản ứng trước cuộc xâm lược Ukraine của Nga năm 2022 , FIAPF (Fédération Internationale des Associations de Producteurs de Films, được dịch là Liên đoàn Quốc tế các Hiệp hội Nhà sản xuất Phim) đã tạm dừng việc công nhận Liên đoàn các nhà sản xuất liên hoan phim cho đến khi có thông báo mới.[2]

Giải thưởng hàng đầu của Liên hoan phim quốc tế Moskva là tượng nhỏ thánh George cưỡi trên lưng con rồng, tiêu biểu cho huy hiệu của thành phố Moskva. Phim của đạo diễn nổi tiếng người Ý Federico Fellini đã được chiếu suất ra mắt tại Liên hoan phim này và đã đoạt giải thưởng lớn.[3][4]

Từ năm 2000, Nikita Mikhalkov làm chủ tịch Liên hoan phim này. Gần đây, liên hoan phim này đã lập ra Giải Stanislavsky để thưởng cho các nam/nữ diễn viên xuất sắc tới dự liên hoan, như Jack NicholsonMeryl Streep.[5][6][7]

The Rossiya Cinema Theatre has always hosted the Moscow International Film Festival.
Pushkinskaya Square, Pushkin Monument and Rossiya Cinema Theatre in 1984

Lịch sử hình thành

[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 1997, người ta thông báo rằng liên hoan phim sẽ được tổ chức mỗi năm một lần thay vì hai năm một lần. Do vấn đề tài chính, lễ hội không được tổ chức vào năm 1998. Từ năm 1999 đến 2019, Nikita Mikhalkov trở thành chủ tịch của Lễ hội. Năm 2015, lễ hội bắt đầu được tổ chức thường niên. Từ năm 2006, chương trình phim tài liệu "Tư tưởng tự do" đã xuất hiện trong khuôn khổ Liên hoan. Năm 2011, có thông báo rằng cuộc thi phim tài liệu tại MIFF đã được tiếp tục.[8][9]

Để phản ứng với cuộc xâm lược Ukraine của Nga vào năm 2022, FIAPF (Liên đoàn các hiệp hội sản xuất phim quốc tế) đã tạm dừng việc công nhận Liên hoan phim quốc tế Moscow và Liên hoan phim quốc tế Thông điệp gửi con người (tổ chức tại St Petersburg) cho đến khi có thông báo mới.[2]

Người chiến thắng

[sửa | sửa mã nguồn]

Grand Prix (1959–1967)

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Phim Đạo Diễn Quốc Gia Ghi Chú
1959 Destiny of a Man Sergei Bondarchuk  Liên Xô [10]
1961 The Naked Island Kaneto Shindō  Nhật Bản
Clear Skies Grigori Chukhrai  Liên Xô
1963 Federico Fellini  Ý
1965 War and Peace Sergei Bondarchuk  Liên Xô
Twenty Hours Zoltán Fábri  Hungary
1967 The Journalist Sergei Gerasimov  Liên Xô
Father István Szabó  Hungary

Golden Prize (1969–1987)

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Phim Đạo Diễn Quốc Gia Ghi Chú
1969 Lucía Humberto Solás  Cuba
We'll Live Till Monday Stanislav Rostoskij  Liên Xô
Serafino Pietro Germi  Ý
1971 Confessions of a Police Captain Damiano Damiani  Ý
Live Today, Die Tomorrow! Kaneto Shindō  Nhật Bản
The White Bird Marked with Black Yuri Ilyenko  Liên Xô
1973 That Sweet Word: Liberty! Vytautas Žalakevičius  Liên Xô
Affection Ludmil Staikov  Bulgaria
1975 The Promised Land Andrzej Wajda  Ba Lan
Dersu Uzala Akira Kurosawa  Liên Xô
We All Loved Each Other So Much Ettore Scola  Ý
1977 The Fifth Seal Zoltán Fábri  Hungary
El puente Juan Antonio Bardem
Mimino Georgi Daneliya  Liên Xô
1979 Christ Stopped at Eboli Francesco Rosi  Ý
Siete días de enero Juan Antonio Bardem Tây Ban Nha
Camera Buff Krzysztof Kieślowski  Ba Lan
1981 O homen que virou suco João Batista de Andrade  Brasil
Teheran 43 Aleksandr Alov & Vladimir Naumov  Liên Xô
Cánh đồng hoang Nguyễn Hồng Sến Việt Nam
1983 Alsino e il condor Miguel Littín  Nicaragua
Amok Souhel Ben Barka  Maroc
Vassa Gleb Panfilov  Liên Xô
1985 A Soldier's Story Norman Jewison  Hoa Kỳ
The Descent of the Nine Christos Shiopacahas  Hy Lạp
Come and See Elem Klimov  Liên Xô
1987 Intervista Federico Fellini  Ý

Golden St. George (1989–2003)

[sửa | sửa mã nguồn]

Golden George (since 2004)

[sửa | sửa mã nguồn]

Các phim đoạt giải thưởng lớn

Năm Phim Đạo diễn Nước
1989 Ladri di saponette Maurizio Nichetti  Ý
1991 Pegiy pyos, Begushchiy kraem morya Karen Gevorkyan  Liên Xô
1993 Moi Ivan, toi Abraham Yolande Zauberman  Nga
1995 không trao giải    
1997 Marvin's Room Jerry Zacks  Hoa Kỳ
1999 Ikitai Kaneto Shindō  Nhật Bản
2000 Zycie jako smiertelna choroba przenoszona droga plciowa Krzysztof Zanussi  Ba Lan
2001 The Believer Henry Bean  Hoa Kỳ
2002 Resurrezione Paolo e Vittorio Taviani  Ý
2003 La luz prodigiosa Miguel Hermoso Tây Ban Nha
2004 Svoi Dmitri Meskhiyev  Nga
2005 Kosmos kak predchuvstvie Aleksei Uchitel  Nga
2006 Om Sara Karim Othman  Thụy Điển
2007 Puteschestwije s Domaschnimi Schiwotnymi Wera Storoschewa  Nga
2008 Be hamin sadegi Reza Mir Karimi  Iran

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Liz-Anne Bawden. The Oxford Companion to Film. Oxford University Press, 1976. Page 131.
  2. ^ a b Haring, Bruce (19 tháng 3 năm 2022). “Moscow Film Festival Has Accreditation Paused By Int'l Federation Of Film Producers”.
  3. ^ [1] Lưu trữ 2013-06-03 tại Wayback Machine Moscow International Film Festival (undated) History
  4. ^ [2] Lưu trữ 2013-04-24 tại Wayback Machine Moscow International Film Festival (ngày 31 tháng 5 năm 2012) NAMES OF 34th MIFF JURY MEMBERS ARE REVEALED
  5. ^ [3] Lưu trữ 2014-03-01 tại Wayback Machine The Moscow News (19/06/2008) Cinema - Prizes and Praises
  6. ^ [4] Lưu trữ 2013-06-24 tại Archive.today Russkiy Mir Foundation (JUL 4, 2011) HELEN MIRREN RECEIVES STANISLAVSKY PRIZE AT MOSCOW FILM FESTIVAL
  7. ^ [5] Lưu trữ 2013-06-24 tại Archive.today The Voice of Russia (ngày 31 tháng 5 năm 2013) Moscow International Film Festival announces line-up
  8. ^ Корнацкий, Николай (11 tháng 3 năm 2015). “Московский кинофестиваль станет короче”. Известия.
  9. ^ “History :: Moscow International Film Festival”. Moscow Film Festival.
  10. ^ “1959”. Moscow International Film Festival. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 6 năm 2018.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]