Lăng (họ)
Giao diện
Bài này không có nguồn tham khảo nào. |
Lăng (chữ Hán: 凌 hoặc 淩, pinyin: Ling) là một họ người có nguồn gốc bắt nguồn từ Trung Quốc và là họ cổ lâu đời. Trong Bách gia tính, họ này được xếp thứ 159.
Nguồn gốc
[sửa | sửa mã nguồn]Có 4 thuyết giải thích cho nguồn gốc của họ Lăng:
- Bắt nguồn từ Cơ Phong: con trai thứ 9 của Chu Văn Vương là Cơ Phong được phong là vị vua đầu tiên ở nước Vệ – một chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc. Con cháu của Cơ Phong nhiều đời làm quan trong triều Chu, trong đó có một nhánh nắm giữ chức quan Lăng nhân, có trách nhiệm trông coi phòng băng, trải qua nhiều đời sau đó lấy chữ Lăng làm họ. Khi mới xuất hiện, họ này viết có bộ thủ bên trái là 2 nét (凌), về sau, có thêm biến thể với bộ thủ 3 nét (淩).
- Bắt nguồn từ tên đất : theo đó từ thời viễn cổ có vua Phục Hy sinh tại đất Lăng (淩). Vì khu vực đó có nước lạnh đến đóng thành băng nên lấy đó đặt làm tên đất. Thời Tiên Tần đổi tên đất đó là Tứ Thủy, sau đặt quận Tứ Thủy. Từ cuối thời Đông Hán đến thời Tam Quốc chiến loạn liên miên. Nhiều người lánh nạn về đây,lấy luôn tên cũ của đất này là Lăng làm họ (淩氏), sau giản hóa đi thành 凌氏, thờ Phục Hy làm làm thủy tổ, không can hệ với họ Lăng xuất phát từ Cơ Phong của nhà Tây Chu.
- Bắt nguồn từ tên chức quan: thời Đông Hán và Tào Ngụy có đặt chức Lăng giang tướng quân (凌江将军), trật ngũ phẩm. Sau này một số hậu duệ lấy chức vị của tổ tiên về đặt làm họ, gọi là Lăng Giang thị. Về sau phân ra thành họ Giang (江), họ Lăng (凌).
- Bắt nguồn từ tộc Tiên Ti : vào thời kỳ Nam Bắc triều, bộ lạc Khâu Mục Lăng thị thuộc Thác Bạt bộ của tộc Tiên Ti. Về sau, họ Thác Bạt chiếm được miền bắc Trung Quốc và thành lập nhà Bắc Ngụy. Hoàng đế thứ 7 của triều Bắc Ngụy là Hiếu Văn đế Thác Bạt Hoằng thực hiện chính sách Hán hóa, đổi họ Thác Bạt (拓拔) của mình sang họ Nguyên (元), lại buộc các họ Tiên Ti khác cũng phải thay đổi theo, cho giống văn hóa Hán. Về phần Khâu Mục Lăng thị, phần lớn đều đổi sang họ Mục (穆), một bộ phận nhỏ khác đổi thành họ Lăng (凌). Tạo thành một nhánh họ Lăng trong xã hội Trung Quốc.
Ở Việt Nam, người mang họ Lăng đều có nguồn gốc từ Trung Quốc, nhưng đã cư trú ở Việt Nam khoảng 300 - 400 năm, nên đã hoàn toàn hòa nhập vào văn hóa người Việt Nam và tự coi mình là người Việt.
Phân bổ
[sửa | sửa mã nguồn]Họ Lăng ở Trung Quốc được phân bố chủ yếu ở các tỉnh Hà Bắc, Hồ Bắc, An Huy, Sơn Tây, Cam Túc, Tân Cương... Ở miền Bắc Việt Nam, họ Lăng chủ yếu sinh sống tại các tỉnh trung du như Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Bắc Giang và Thanh Hóa và các tỉnh biên giới giáp với Trung Quốc
Một số người họ Lăng nổi bật
[sửa | sửa mã nguồn]- Lăng Thống là tướng nhà Đông Ngô trong lịch sử Trung Quốc.
- Lăng Sách (凌策,957 – 1018) người Kinh Huyện, Tuyên Châu (nay thuộc An Huy), Tiến sĩ, quan lại triều Bắc Tống. Ông đỗ Tiến sĩ năm Ung Hi thứ 2 (985) đời Tống Thái Tông. Đến thời Chân Tông trải nhậm nhiều chức vụ như: Giang Nam chuyển vận sứ; Tả gián nghị đại phu, Tập Hiền điện học sĩ, Tri Ích Châu; Tri thông tiến ngân đài ti kiêm Môn hạ phong bác sự, Cấp sự trung, Quyền ngự sử trung thừa. Sau lại dời sang làm Công bộ thị lang.
- Lăng Mông Sơ (凌濛初,1580-1644) người Chiết Giang, nhà văn, nhà tiểu thuyết, nhà khắc in thời Minh.
- Quốc mẫu Tây Thiên Lăng Thị Tiêu:
- Lăng Vân (chính khách) là chính khách nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Ông là Bộ trưởng đầu tiên của Bộ An ninh Quốc gia từ tháng 6 năm 1983 đến tháng 9 năm 1985.
- Lăng Tháo cha của Lăng Thống
- Lăng Chấn một trong 72 Địa Sát Tinh của 108 anh hùng Lương Sơn Bạc.