Ổi (thực vật)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
(Đổi hướng từ Psidium guayava)

Ổi
Hoa ổi
Quả ổi (Psidium guajava) với ruột trắng
Phân loại khoa học edit
Giới: Plantae
nhánh: Tracheophyta
nhánh: Angiospermae
nhánh: Eudicots
nhánh: Rosids
Bộ: Myrtales
Họ: Myrtaceae
Chi: Psidium
Loài:
P. guajava
Danh pháp hai phần
Psidium guajava
L. [2]
Các đồng nghĩa[3]

Ổi (Psidium guajava) là một loài thực vật cây bụi thường xanh, nhỏ có nguồn gốc từ Caribe, Trung MỹNam Mỹ.[4] Cây thường dễ dàng được côn trùng thụ phấn. Khi được trồng, cây được thụ phấn chủ yếu nhờ loài ong mật phương Tây (Apis mellifera). Đây là loài ổi phổ biến nhất, quen thuộc nhất và được ăn nhiều nhất. Hầu hết các giống ổi trồng trên thế giới được nhân giống, lai tạo ra từ loài này.

Mô tả[sửa | sửa mã nguồn]

Lá ổi
Quả ổi và mặt cắt
Quả ổi ruột đỏ

Cây ổi thuộc dạng cây bụi hoặc cây gỗ nhỏ có rễ nông, cao khoảng 10 m, phân nhánh từ gốc và thường tạo ra các chồi.[5] Đường kính thân tối đa 30 cm.[6] Vỏ nhẵn, màu từ xanh đến nâu đỏ, bong ra thành từng mảng mỏng. Cành non có 4 góc và có lông tơ.[7] Lá mọc đối nhau.[6][8] Cuống lá dài 3–10 mm. Phiến lá hình elip đến thuôn dài, kích thước 5–15 x 3–7 cm. Mặt trên nhẵn, mặt dưới có lông mịn, gân nổi rõ ở mặt dưới.[8][9]

Hoa đơn độc hoặc mọc thành chùm từ 2 đến 3 hoa ở nách lá, đường kính khoảng 3 cm. Khoảng bốn đến sáu thùy đài, dài 1–1,5 cm, không đều. Cánh hoa từ 4 đến 5,[8] màu trắng, dài 1–2 cm. Nhị hoa nhiều,[7] dài 1–2 cm; bầu nhụy 4–5 ngăn; kiểu dáng dài 1,5–2 cm, có đầu nhụy.[5][6]

Quả dạng quả mọng, hình cầu, hình trứng hoặc hình quả lê, dài 4–12 cm, phía trên có các thùy đài không rụng. Vỏ ngoài có màu từ xanh đến vàng. Thịt quả giữa có màu trắng, vàng, hồng hoặc đỏ tùy theo giống. Vị từ chua đến ngọt, thơm. Hạt nhiều, màu vàng, có xương, hình thận, dài 3–5 mm, nằm trong cùi màu hồng hoặc trắng.[5] Số lượng hạt thường dao động từ 112 đến 535.[9]

Sinh thái[sửa | sửa mã nguồn]

Ổi có nguồn gốc từ vùng nhiệt đới, nhưng cây có thể ra quả ở khu vực cận nhiệt đới. Do khả năng thích ứng này, cây sinh sống được ở nhiều nơi trên thế giới và đôi khi được xem là cây dại xâm lấn.[10] Sinh cảnh xâm lấn của ổi gồm có rừng và bìa rừng, đồng cỏ và bãi cỏ cũng như môi trường sống ven sông.[8][11]

Trong điều kiện tốt, ổi có thể ra hoa trong vòng 2 năm đầu.[12] Cây đạt năng suất tối đa sau 5–8 năm, tùy thuộc vào điều kiện sinh trưởng và khoảng cách. Ổi sống được khoảng 40 năm, nhưng cây có thể ra quả nhiều trong 15–25 năm.[5][13]

Ổi phát triển mạnh ở cả vùng khí hậu ẩm và khô ở độ cao 0–1500 m[10] (hoặc lên tới 2100 m ở một số vùng).[5] Ổi đạt năng suất tối ưu ở những vùng có nhiệt độ trung bình từ 23–28°C và lượng mưa hàng năm đều 1000–2000 mm.[10][12] Cây ổi không chịu được rét. Khi nhiệt độ xuống khoảng −2 °C, cả cây lớn cũng chết. Ngược lại, ổi chịu được nhiệt cao ở sa mạc nếu đủ nước. Khi nhiệt độ khoảng dưới 18–20 °C, cây sẽ cho quả bé, phát triển chậm chất lượng kém.[6]

Lịch sử và phân bố[sửa | sửa mã nguồn]

Chồi lá ổi

Nguồn gốc[sửa | sửa mã nguồn]

Phạm vi phân bố bản địa của ổi không chắc chắn. Nhiều nhà thực vật học cho rằng loài này có nguồn gốc từ vùng nhiệt đới châu Mỹ, có thể từ miền nam Mexico đến Nam Mỹ, nhưng sự phân bố của loài đã được mở rộng đáng kể thông qua trồng trọt và hiện nay đã phổ biến khắp vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới. Hiện nay, loài này được du nhập ở vùng nhiệt đới Cựu Thế giới và Tây Ấn.[11] Một số tác giả cho rằng ổi có nguồn gốc từ châu Á, có lẽ do Linnaeus vào năm 1753 đã mô tả loài này dựa trên các bộ sưu tập Cựu Thế giới. Tuy nhiên, loài được Fernandez de Oviedo trình báo dưới cái tên guayabo vào năm 1535 vì chúng phân bố rộng rãi ở Tây Ấn, cả được trồng và trong tự nhiên. Đây chỉ là một vài thập kỷ sau khi phát hiện ra Tân Thế giới và do đó rất khó có khả năng loài này đã được du nhập và có thể lan rộng khắp Tây Ấn trong một khoảng thời gian ngắn như vậy. Loài này có lẽ đã được đưa vào Tây Ấn do sự di cư của người cổ đại từ miền bắc Nam Mỹ.[5]

Du nhập[sửa | sửa mã nguồn]

Ổi phân bố khắp vùng nhiệt đới là kết quả khi con người đưa vào sử dụng rộng rãi có chủ đích như một loại cây ăn quả thương mại. Cây ổi đã được du nhập rộng rãi đến mức chúng có thể có mặt ở hầu hết các quốc gia có khả năng trồng trọt. Người Tây Ban Nha đã đưa ổi về phía đông qua Thái Bình Dương và người Bồ Đào Nha đã đưa ổi về phía tây tới Châu Phi và Ấn Độ. Hiện nay, ổi được phân bố và du nhập tốt khắp vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới. Do dễ trồng, giá trị dinh dưỡng cao của quả và sự phổ biến của các sản phẩm chế biến, ổi rất quan trọng trong thương mại quốc tế cũng như thị trường địa phương của hơn 60 quốc gia nhiệt đới và cận nhiệt đới. Sản xuất lớn nhất là các nước ở Trung và Nam Mỹ (Brazil, Mexico), Ấn Độ và Thái Lan (100.000 tấn vào năm 1981–82). Sản lượng ngày càng tăng ở Caribe, Hawaii, Florida (Mỹ) và Nam Phi.[5]

Năm 1961, một chương trình nghiên cứu và cải tiến ổi đã được chính phủ Colombia phát động. Năm 1968, ước tính có khoảng 10 triệu cây ổi hoang (xung quanh Santander, Boyacá, Antioquia, Palmira, Buga, CaliCartago), nặng 88 lbs (40 kg) mỗi năm và chỉ có 10% số quả ổi được sử dụng trong chế biến. Tỉnh Bogotà chiếm 40% sản lượng và sản phẩm bảo quản được xuất khẩu sang các thị trường Venezuela và Panama.[9]

Tại Brasil, ngành trồng ổi hiện đại dựa trên hạt giống chọn lọc của Úc được trồng trong vườn thực vật của Công ty Đường sắt São Paulo tại Tatu. Các đồn điền được nông dân gốc Nhật Bản phát triển tại Itaquara và đây đã trở thành khu vực sản xuất ổi hàng đầu ở Brazil. Ổi là một trong những loại trái cây hàng đầu của México, nơi tổng sản lượng đạt 192.850 tấn trên diện tích 14.750 ha, hàng năm. Những năm gần đây có chương trình nghiên cứu nhằm đánh giá và chọn lọc các giống tốt để nhân giống sinh dưỡng và trồng trọt quy mô lớn.[9]

Tại Florida, Hoa Kỳ, ổi được du nhập vào năm 1765[7] và trồng thương mại đầu tiên vào khoảng năm 1912 tại Palma Sola. Số khác xuất hiện tại Punta GordaOpalocka. Một vườn ổi rộng 16 ha được Miami Fruit Industries trồng tại thị trấn Indian vào năm 1946. Đã có hơn hai tá nhà sản xuất thạch ổi trên khắp tiểu bang. Một doanh nghiệp tại Sarasota chế biến 250 giạ ổi mỗi ngày và một nhà chế biến ở quận Pinellas vận hành một nhà máy công suất 150 giạ vào năm 1946. Luôn có thị trường ổn định cho các sản phẩm ổi ở Florida và nhu cầu đã tăng lên trong những năm gần đây cùng với làn sóng tràn vào của người Caribe và người Mỹ Latinh.[9]

Ở nhiều nơi trên thế giới, ổi mọc hoang và tạo thành những bụi cây rộng lớn. Cây tràn lan mạnh mẽ trên các đồng cỏ, cánh đồng và lề đường ở Malaysia. đảo Hawaii, New Caledonia, Fiji, quần đảo Virgin thuộc Hoa Kỳ, Puerto Rico, Cuba và miền nam Florida đến mức bị xếp vào loại cây dại độc hại cần bị diệt trừ. Tuy nhiên, ổi hoang vẫn chiếm phần lớn nguồn cung cấp thương mại. Năm 1972, Hawaii chế biến để sử dụng trong nước và xuất khẩu hơn 2.500 tấn ổi, hơn 90% là từ cây ổi hoang. Thời kỳ nhu cầu cao trong Thế chiến thứ hai, vụ ổi dại ở Cuba được cho đạt 10.000 tấn và hơn 6.500 tấn sản phẩm ổi đã được xuất khẩu.[9] Cây ổi phân bố rộng rãi trên tất cả các hòn đảo chính của Hawaii, trên nhiều điều kiện đất đai khác nhau và có thể hình thành những bụi rậm dày đặc tại đây.[14]

Xâm lấn[sửa | sửa mã nguồn]

Một số tác giả xem ổi là loài có tính xâm lấn cao.[11][15] Ở New Zealand, chúng được xem là một loài cây dại tiềm ẩn vấn đề.[16] Đây là một trong những loài du nhập đầu tiên vào quần đảo Galápagos được công nhận vì hành vi xâm lấn của loài. Tại Galápagos, cây chỉ hiện diện trên các hòn đảo có người ở và là một trong số các loài gây ra thiệt hại môi trường nghiêm trọng ở đó.[17]

Ở một số quần đảo Thái Bình Dương, cũng như ở các nước Trung Mỹ như Costa Rica, ổi là một loại cây dại quan trọng trên đồng cỏ, nơi khó diệt trừ và dẫn đến suy thoái đất.[18] Trên đảo Chuuk ở Thái Bình Dương, liệt kê chúng trong số các loài được biết là xâm lấn ở nơi khác và được trồng, phổ biến hoặc mọc hoang trên đảo.[19] Ổi cũng là một loại cây dại trong môi trường sống nông nghiệp ở Puerto Rico (Cơ quan quản lý đường cao tốc liên bang, 2001) và là loài xâm lấn ở Bermuda. Ổi có khả năng tái sinh ở những khu vực bị xáo trộn tại vùng rừng Budongo, Uganda.[20] Thật vậy, nhiều tác giả liên kết sự phát tán của ổi với các sự kiện xáo trộn, ví dụ như ở các vùng đất trống bị bão tàn phá hoặc hoạt động khai thác gỗ.[5]

Ổi đã được du nhập rộng rãi đến mức có mặt ở hầu hết các quốc gia có khả năng trồng. Do đó, điều rủi ro là một trong những loài thực vật trồng canh tác thoát ra môi trường hoang dã. Do việc sản xuất ổi ở nhiều quốc gia diễn ra tại trang trại nhỏ và vườn nhà nên điều này khó có khả năng kiểm soát được; do đó giám sát để phát hiện sớm các dấu hiệu xâm lấn sẽ rất thận trọng.[5] Tại Bahamas, ổi được xếp là Thực vật xâm lấn loại 2. Tại Florida, Hoa Kỳ, ổi phân tán thành vùng võng, ở đồi thông và dưới tán cây bách;[7] xuất hiện trong danh sách Thực vật ngoại lai gây hại năm 1999, chúng được mô tả là loài xâm lấn loại 1 đang làm thay đổi quần thể thực vật. Ở Nam Phi, ổi xâm lấn sinh cảnh trảng cỏ và ven đường; được tuyên bố là loài xâm lấn loại 2 theo Đạo luật Bảo tồn Tài nguyên Nông nghiệp năm 1983.[21]

Chim và thú ăn quả ổi và phát tán hạt,[11] ví dụ chuột và lợn hoang. Theo Trung tâm Nông Lâm Thế giới (2002), tác nhân phát tán chính của ổi là dơi. Ổi được trồng rộng rãi trong vườn cây, như một loài nông lâm kết hợp. Từ đó, ổi có thể thoát khỏi vùng canh tác và xâm chiếm các địa điểm bị xáo trộn trong môi trường bán tự nhiên và tự nhiên. Loài này phân bố khắp vùng nhiệt đới là kết quả của sự du nhập rộng rãi có chủ ý như một loại cây ăn quả thương mại. Sự xâm lấn này đã ảnh hưởng đến đất canh tác và cây trồng khác.[5]

Hoá thực vật và y học[sửa | sửa mã nguồn]

Lá ổi chứa flavonol morin, morin-3-O-lyxoside, morin-3-O-arabinoside, quercetinquercetin-3-O-arabinoside.[22] Quả ổi chứa hàm lượng carbohydrat (13,2%), chất béo (0,53%), protein (0,88%) đều thấp và hàm lượng nước cao (84,9%). Giá trị thực phẩm trên 100 g là: calo 36–50 kcal, độ ẩm 77–86 g, chất xơ thô 2,8–5,5 g, tro 0,43–0,7 g, calci 9,1–17 mg, phosphor 17,8–30 mg, sắt 0,30–0,70 mg, vitamin A 200–400 I.U., thiamin 0,046 mg, riboflavin 0,03–0,04 mg, niacin 0,6–1,068 mg, acid ascorbic 100 mg, vitamin B3 40 I.U.[23]

Ổi đã được sử dụng trong y học cổ truyền tại nhiều nền văn hóa trên khắp Trung Mỹ, Caribe, châu Phi và châu Á.[23] Một số chất chuyển hóa có hiệu suất tốt và một số đã được chứng minh là có các hoạt tính sinh học hữu ích gồm: phenolic, flavonoid, carotenoid, terpenoidtriterpen. Chất chiết xuất và chất chuyển hóa của ổi, đặc biệt là từ lá và quả có tác dụng dược lý hữu ích. Một cuộc khảo sát tài liệu cho biết ổi có đặc tính chống co thắt và kháng khuẩn trong hỗ trợ điều trị tiêu chảykiết lỵ, là một tác nhân hạ đường huyết.[23] Nhiều nghiên cứu dược lý đã chứng minh khả năng của loại cây này có tác dụng chống oxy hóa, bảo vệ gan, chống dị ứng, kháng khuẩn, kháng nguyên, chống sốt rét, gây độc tế bào, chống co thắt, tăng huyết áp, chống ho, trị tiểu đường, chống viêm và chống nhiễm trùng. Đề xuất một loạt các ứng dụng lâm sàng để điều trị bệnh viêm ruột do virus rota ở trẻ sơ sinh, tiêu chảy và tiểu đường.[23]

Công dụng[sửa | sửa mã nguồn]

Ổi là trái cây thường xuyên được ăn, có thể ăn tươi hoặc chế biến thành mứt đông hay đồ hộp.[5] Tuỳ theo từng giống ổi mà quả ổi chín có thể có vị ngọt hay chua. Lá ổi còn được dùng để gói nem chua.[24]

Quá trình chế biến trái cây tạo ra các sản phẩm phụ có thể làm thức ăn cho vật nuôi. Lá cũng có thể được sử dụng làm thức ăn gia súc.[25]

Gỗ ổi từ Hawaii thường được sử dụng để hun khói thịt. Gỗ có khả năng chống côn trùng và nấm tấn công. Mật độ của gỗ sấy khô khoảng 670 kg/m3 (1.130 lb/cu yd) và được cho là thích hợp để lợp giàn mái ở Nigeria.[26]

Giống ổi trồng[sửa | sửa mã nguồn]

Cây ổi nhân giống trồng trọt, 14 tháng

Một giống ổi tốt phải đạt tiêu chuẩn nhiều trái, trái to, thịt dày, ruột ít, hạt ít, ngọt và thơm. Nhiều giống ổi trồng khác nhau có thịt màu trắng, hồng hoặc đỏ; một số giống trồng có vỏ màu đỏ (thay vì xanh lá hoặc vàng). Các phương pháp giâm, ghépchiết cành được sử dụng phổ biến để nhân giống trồng thương mại.[27]

Một số giống ổi trồng phổ biến:

  • Ổi xá lỵ nghệ: Cây sinh trưởng mạnh, tỉ lệ đậu quả và năng suất cao, quả hình quả lê ổn định, thịt quả màu trắng dòn, hương thơm và vị ngon. Vỏ quả hơi sần và lõi quả có hạt cứng (tỉ lệ thịt quả < 77%).[28]
  • Ổi ruột hồng da láng: cây sinh trưởng mạnh, tỉ lệ đậu quả khá cao và năng suất cao, quả hình quả lê ổn định, vỏ quả láng, thịt quả màu hồng đỏ, khá dòn, hương thơm và vị khá ngon. Lõi quả có hạt cứng (tỉ lệ thịt quả < 69%), vị quả đôi khi có vị chát.[28]
  • Ổi Đài Loan: cây sinh trưởng khá mạnh, tỉ lệ đậu quả khá cao và năng suất cao, quả hình cầu ổn định, vỏ quả láng, thịt quả màu trắng, giòn, hương thơm và vị rất ngon. Lõi quả có hạt cứng và số hạt/quả trung bình (tỉ lệ thịt quả < 74%).[28]
  • Ổi không hạt Thái Lan: cây sinh trưởng mạnh, quả thuôn dài khá ổn định, vỏ quả khá láng, thịt quả màu trắng kem, chắc, giòn, hương thơm trung bình, vị chua ngọt và không hạt (tỉ lệ thịt quả cao >90%). Tỉ lệ đậu quả biến động. Nếu chăm sóc tốt, năng suất có thể đạt khá cao (Năm 1: 10–12kg, năm 2: 20–25kg và năm 3: 35–40kg/cây/năm).[28]
  • Ổi không hạt Mã Lai: cây sinh trưởng mạnh, thịt quả màu trắng, giòn, vị ngọt hơi chua và không hạt (tỉ lệ thịt quả cao >90%). Tỉ lệ đậu quả không cao và năng suất trung bình, quả hình cầu hợi dẹp và lệch tâm, vỏ quả sần, quả khá thơm.[28]
  • Ổi ruby ruột đỏ (còn gọi là ổi trân châu): cây dễ trồng, ít sâu bệnh, cho thu hoạch nhanh, vỏ quả xanh bóng, quả có ruột đỏ, giòn, rất ít hạt thậm chí không có hạt.[29][30]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Canteiro, C.; Lucas, E. (2019). Psidium guajava. Sách đỏ IUCN về các loài bị đe dọa. 2019: e.T49485755A49485759. doi:10.2305/IUCN.UK.2019-1.RLTS.T49485755A49485759.en. Truy cập ngày 19 tháng 11 năm 2021.
  2. ^ Carl Linnaeus, 1753. Psidium guajava. Species Plantarum 1: 470.
  3. ^ “Psidium guajava L. | Plants of the World Online | Kew Science”. Plants of the World Online (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 16 tháng 1 năm 2024.
  4. ^ Psidium guajava. Germplasm Resources Information Network (GRIN). Cục Nghiên cứu Nông nghiệp (ARS), Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ (USDA). Truy cập ngày 6 tháng 2 năm 2009.
  5. ^ a b c d e f g h i j k Rojas-Sandoval, J; Acevedo-Rodríguez, P (7 tháng 1 năm 2022). “Psidium guajava (guava)”. CABI Digital Library (bằng tiếng Anh). doi:10.1079/cabicompendium.45141.
  6. ^ a b c d “Cây Ổi”. rttc.hcmuaf.edu.vn. Trung tâm Nghiên cứu và chuyển giao Khoa học Công nghệ - Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh. Truy cập ngày 16 tháng 1 năm 2024.
  7. ^ a b c d Langeland, Kenneth A.; Burks, K. Craddock (1998). Identification & Biology of Non-native Plants in Florida's Natural Areas (PDF) (bằng tiếng Anh). Gainesville, Florida, Hoa Kỳ: Đại học Florida. tr. 110–111. ISBN 9780916287702.
  8. ^ a b c d Weber, Ewald (13 tháng 4 năm 2017). Invasive Plant Species of the World, 2nd Edition: A Reference Guide to Environmental Weeds (bằng tiếng Anh) (ấn bản 2). Wallingford, UK: CABI. tr. 380. ISBN 978-1-78064-386-1.Quản lý CS1: ngày tháng và năm (liên kết)
  9. ^ a b c d e f Morton, Julia (1987). “Guava (Psidium guajava L.)”. Fruits of warm climates (bằng tiếng Anh). Miami, Florida: Đại học Purdue. tr. 356–363.
  10. ^ a b c Paull, Robert E.; Duarte, Odilio (2012). Tropical Fruits: Crop Production Science in Horticulture 24 (bằng tiếng Anh). Anh: CABI. tr. 91–122. ISBN 978-1-84593-934-2.Quản lý CS1: ngày tháng và năm (liên kết)
  11. ^ a b c d Cronk, Quentin C. B.; Fuller, Janice L. (1995). Plant Invaders: The Threat to Natural Ecosystems (bằng tiếng Anh). Anh: Routledge. tr. 187. ISBN 978-1-134-20358-1.
  12. ^ a b Janick, Jules; Paull, Robert E. (2008). The Encyclopedia of Fruit and Nuts (bằng tiếng Anh). Anh: CABI. tr. 541–547. ISBN 978-0-85199-638-7.
  13. ^ Litz, Richard E.; Pliego-Alfaro, Fernando; Hormaza, Jose Ignacio (29 tháng 1 năm 2020). Biotechnology of Fruit and Nut Crops (bằng tiếng Anh) (ấn bản 2). UK: CABI. tr. 330–341. doi:10.1079/9780851996622.0000. ISBN 978-1-78064-827-9.Quản lý CS1: ngày tháng và năm (liên kết)
  14. ^ Smith, CW (1998). “Pest Plants of Hawaiian Native Ecosystems”. botany.hawaii.edu (bằng tiếng Anh). Hawaii, Hoa Kỳ: Department of Botany - Đại học Hawaii. Truy cập ngày 20 tháng 1 năm 2024.
  15. ^ Elevitch, Craig R. (2004). The Overstory Book: Cultivating Connections with Trees (bằng tiếng Anh). 2004: PAR. tr. 386. ISBN 978-0-9702544-3-6.Quản lý CS1: địa điểm (liên kết)
  16. ^ Owen, SJ (1996). “Ecological weeds on conservation land in New Zealand”. hear.org. Department of Conservation, Wellington, New Zealand: DOC Science Publications. Truy cập ngày 20 tháng 1 năm 2024.
  17. ^ Urquía, Diego; Gutierrez, Bernardo; Pozo, Gabriela; Pozo, Maria Jose; Torres, Maria de Lourdes (tháng 11 năm 2021). “Origin and dispersion pathways of guava in the Galapagos Islands inferred through genetics and historical records”. Ecology and Evolution (bằng tiếng Anh). 11 (21): 15111–15131. doi:10.1002/ece3.8193. ISSN 2045-7758. PMC 8571588. PMID 34765164.
  18. ^ Somarriba (1995). “Guayaba (Psidium guajava) in pastures: establishment of live fences and rehabilitation of degraded pastures”. Agroforestería en las Américas. 2 (6): 27–29 – qua CABI Direct.
  19. ^ Space, James C; Waterhouse, Barbara; Denslow, Julie S.; Nelson, Duane; Mazawa, Thomas R. (2000). Invasive plant species in Chuuk, Federated States of Micronesia (PDF). Honolulu, Hawai'i, USA: U.S.D.A. Forest Service, Pacific Southwest Research Station, Institute of Pacific Islands Forestry. tr. 29.
  20. ^ Sheil, D. (tháng 3 năm 1994). “Naturalized and invasive plant species in the evergreen forests of the East Usambara Mountains, Tanzania”. African Journal of Ecology (bằng tiếng Anh). 32 (1): 66–71. doi:10.1111/j.1365-2028.1994.tb00556.x. ISSN 0141-6707.
  21. ^ Henderson, Lesley (2001). Invasive Alien Plants in South Africa (PDF). Plant Protection Research Institute Handbook No. 12 (bằng tiếng Anh). Cape Town, Nam Phi: Paarl Printers. tr. 266. ISBN 978-0-620-96146-2.
  22. ^ Rattanachaikunsopon, Pongsak; Phumkhachorn, Parichat (tháng 9 năm 2007). “Bacteriostatic effect of flavonoids isolated from leaves of Psidium guajava on fish pathogens”. Fitoterapia. 78 (6): 434–436. doi:10.1016/j.fitote.2007.03.015. ISSN 0367-326X. PMID 17553634.
  23. ^ a b c d Gutiérrez, Rosa Martha Pérez; Mitchell, Sylvia; Solis, Rosario Vargas (17 tháng 4 năm 2008). “Psidium guajava: A review of its traditional uses, phytochemistry and pharmacology”. Journal of Ethnopharmacology. 117 (1): 1–27. doi:10.1016/j.jep.2008.01.025. ISSN 0378-8741. PMID 18353572.
  24. ^ Bình An (26 tháng 2 năm 2014). “Ngon vượt trội nem chua lá ổi Hoài Nhơn”. thanhnien.vn. Báo Thanh niên. Truy cập ngày 17 tháng 1 năm 2024.
  25. ^ Heuzé V.; Tran G.; Bastianelli D.; Lebas F. (2017). “Guava (Psidium guajava)”. Feedipedia.org. Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2017. a programme by INRA, CIRAD, AFZ and FAO
  26. ^ E. Lucas; A. Olorunnisola; N. Adewole. “Preliminary Evaluation of Guava (Psidium guajava L.) Tree Branches for Truss Fabrication in Nigeria” (PDF). Truy cập ngày 25 tháng 3 năm 2022.
  27. ^ Thu Huyên (3 tháng 7 năm 2018). “Quy trình sản xuất ổi an toàn theo hướng nông nghiệp sạch”. Sở Khoa học & Công nghệ tỉnh Vĩnh Phúc. Truy cập ngày 20 tháng 1 năm 2024.
  28. ^ a b c d e Nguyễn Tiến Huyền (2013). Giáo trình mô đun trồng và chăm sóc ổi. Hà Nội: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam. tr. 12–13.
  29. ^ Tấn Đạt (25 tháng 9 năm 2023). “Kiếm thêm hàng chục triệu đồng mỗi tháng nhờ trồng ổi Ruby”. Báo Thanh niên. Truy cập ngày 21 tháng 1 năm 2024.
  30. ^ KIM HỒNG (13 tháng 5 năm 2020). “Người tiên phong trồng ổi ruby sạch”. Báo Bà Rịa - Vũng Tàu điện tử. Truy cập ngày 21 tháng 1 năm 2024.

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]