Thành viên:Billcipher123/Bảng trình chiếu triết gia
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Triết học cổ điển Đức
-
Image 1Immanuel Kant (tiếng Đức: [ɪˈmaːnu̯eːl ˈkant, -nu̯ɛl -]; phiên âm tiếng Việt: Imanuen Cantơ; 22 tháng 4 năm 1724 – 12 tháng 2 năm 1804) là một triết gia người Đức có ảnh hưởng lớn đến Kỷ nguyên Khai sáng. Ông được cho là một trong những nhà triết học có ảnh hưởng nhất từ trước đến nay. Trong học thuyết của mình về chủ nghĩa duy tâm siêu việt, ông cho rằng không gian, thời gian và nhân quả đơn thuần là những thứ cảm nhận được; "Những vật tự thể" có tồn tại, nhưng bản chất của chúng lại không thể biết được. Theo quan điểm của ông, tâm trí tạo hình và cấu tạo nên kinh nghiệm, trong đó toàn bộ kinh nghiệm của con người đều chia sẻ các đặc điểm cấu trúc nhất định. Một trong những tác phẩm nổi bật nhất của ông, Phê phán Lý tính Thuần túy (1781; tái bản lần 2 năm 1787), ông đề ra một giả thuyết tương đồng với Cách mạng Copernic trong đó nói rằng các sự vật trên thế giới có thể bị kích thích thông qua một tiên nghiệm ('trước đó'), và rằng do đó trực giác độc lập với thực tế khách quan.
-
Image 2Johann Gottlieb Fichte (phát âm tiếng Đức: [ˈjoːhan ˈɡɔtliːp ˈfɪçtə]; phiên âm tiếng Việt: Giôhan Gôtlíp Phíchtơ; 19 tháng 5 năm 1762 – 27 tháng 1 năm 1814) là một triết gia người Đức. Ông là một trong những nhân vật sáng lập của phong trào triết học được biết dưới tên chủ nghĩa duy tâm Đức, vốn phát triển trừ những bài viết về triết lý và đạo đức của Immanuel Kant. Fichte thường được xem là một nhân vật người mà triết học của ông đã bắc cây cầu giữa các tư tưởng của Kant với nhà duy tâm Đức Georg Wilhelm Friedrich Hegel. Gần đây, nhiều nhà triết học và học giả bắt đầu đánh giá như một nhà triết học quan trọng tự thân do những tầm nhìn độc đáo của ông vào bản chất của sự tự nhận thức hay tự ý thức. Giống Descartes và Kant đi trước, ông được thúc đẩy bởi vấn đề tính chủ quan và nhận thức. Fichte cũng viết các tác phẩm về triết học chính trị và được coi là một trong những người hình thành nên chủ nghĩa dân tộc Đức. (Đọc thêm...)
-
Image 3Friedrich Wilhelm Joseph Schelling (tiếng Đức: [ˈfʁiːdʁɪç ˈvɪlhɛlm ˈjoːzɛf ˈʃɛlɪŋ]; phiên âm tiếng Việt: Sêlinh; sinh ngày 27 tháng 1 năm 1775 – mất ngày 20 tháng 8 năm 1854) là nhà triết học tiêu biểu của trào lưu triết cổ điển Đức. (Đọc thêm...)
-
Image 4Georg Wilhelm Friedrich Hegel (tiếng Đức: [ˈɡeɔɐ̯k ˈvɪlhɛlm ˈfʁiːdʁɪç ˈheːɡəl]; phiên âm tiếng Việt: Hêghen hoặc Hêgen; 27 tháng 8 năm 1770 – 14 tháng 11 năm 1831) là một nhà triết học người Đức. Ông được coi là một trong những triết gia quan trọng nhất của chủ nghĩa duy tâm Đức và là một trong những nhân vật thiết lập nền móng triết học phương Tây đương đại. Ảnh hưởng của ông bao trùm tất cả các bình diện của triết học đương đại, từ nhận thức luận, logic học, siêu hình học đến mỹ học, triết học lịch sử, triết học tôn giáo, triết học chính trị và lịch sử triết học.
-
Image 5Arthur Schopenhauer (tiếng Đức: [ˈaɐtʊɐ ˈʃoːpm̩haʊɐ] ⓘ; phiên âm tiếng Việt: Sôpenhaoơ; 22 tháng 2 năm 1788 – 21 tháng 9 năm 1860) là một nhà triết học duy tâm người Đức, nổi tiếng với trước tác Thế giới như là ý chí và biểu tượng xuất bản năm 1818. Trong danh tác này, Schopenhauer lý luận rằng thế giới hiện tượng (phenomenal) thực chất là sản phẩm của ý chí vật-tự-nó (noumenon). Xây dựng trên nền tảng triết học duy tâm siêu nghiệm của Immanuel Kant (1724–1804), ông đã phát triển một hệ thống luân lý và siêu hình vô thần bác bỏ những ý tưởng thời thượng lúc bấy giờ của trào lưu duy tâm Đức. Schopenhauer là một trong những trí thức phương Tây thế hệ đầu chia sẻ nhiều tư tưởng chung với triết học Ấn Độ, chẳng hạn như sự khổ tu, sự chối bỏ bản thân, và ý niệm cho rằng thế giới là sự phô chiếu ảo ảnh. Một số học giả coi các công trình triết học của ông là ví dụ điển hình của chủ nghĩa bi quan triết học.
-
Image 6Friedrich Wilhelm Nietzsche (tiếng Đức: [ˈfʁiːdʁɪç ˈvɪlhɛlm ˈniːtʃə] ⓘ hay [ˈniːtsʃə];; phiên âm tiếng Việt: Nitsơ; 15 tháng 10 năm 1844 – 25 tháng 8 năm 1900) là một nhà triết học người Đức. Ông bắt đầu sự nghiệp như là một nhà ngữ văn học và viết nhiều bài phê bình về tôn giáo, đạo đức, các vấn đề văn hóa đương thời, và triết học. Các tác phẩm của Nietzsche nổi bật với phong cách viết của ông, thường mang tính ẩn dụ (aphorism) và nhiều nghịch lý hơn là mức độ thông thường của các bài luận triết học. Nietzsche không được đánh giá cao bởi những người đương thời trong suốt cuộc đời của ông, nhưng đầu thế kỉ 20, ông đã được giới trí thức ở Đức, Pháp và Anh công nhận. Ông bắt đầu bị mang tiếng xấu khi Đảng Quốc xã của Đức chọn ông là một tiền bối, mặc dù Nietzsche có hẳn quan điểm cực tả chống chủ nghĩa bài Do Thái và chủ nghĩa dân tộc Đức. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, triết gia Walter Kaufmann bắt đầu một cố gắng bền bỉ nhằm khôi phục lại danh tiếng của Nietzsche trong các nước nói tiếng Anh, và vào nửa sau của thế kỉ 20 Nietzsche đã được xem là một nhân vật quan trọng có ảnh hưởng lớn trong triết học hiện đại. Trực tiếp và gián tiếp (thông qua Martin Heidegger), Nietzsche đã ảnh hưởng đến thuyết hiện sinh (existentialism), chủ nghĩa hậu hiện đại (postmodernism), phân tâm học (psychoanalysis) và nhiều tư tưởng theo sau đó. (Đọc thêm...)
Thể loại ẩn: