USS Grampus (SS-207)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Tàu ngầm USS Grampus (SS-207) đang chạy thử máy ngoài khơi Groton, Connecticut, ngày 26 tháng 3 năm 1941
Lịch sử
Hoa Kỳ
Tên gọi USS Grampus (SS-207)
Đặt tên theo cá heo Risso [1]
Xưởng đóng tàu Electric Boat Company, Groton, Connecticut [2]
Đặt lườn 14 tháng 2, 1940 [2]
Hạ thủy 23 tháng 12, 1940 [2]
Người đỡ đầu bà Clark H. Woodward
Nhập biên chế 23 tháng 5, 1941 [2]
Xóa đăng bạ 21 tháng 6, 1943 [2]
Danh hiệu và phong tặng 3 × Ngôi sao Chiến trận [1][3]
Số phận Mất tích, có thể bị tàu khu trục Nhật Bản đánh chìm trong eo biển Blackett, 5 tháng 3, 1943 [4]
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu Lớp Tambor[4]
Kiểu tàu tàu ngầm Diesel-điện [4]
Trọng tải choán nước
  • 1.475 tấn Anh (1.499 t) (mặt nước)[5]
  • 2.370 tấn Anh (2.410 t) (lặn)[5]
Chiều dài 307 ft 2 in (93,62 m) [5]
Sườn ngang 27 ft 3 in (8,31 m) [5]
Mớn nước 14 ft 8 in (4,47 m) tối đa [5]
Động cơ đẩy
Tốc độ
  • 20,4 hải lý trên giờ (38 km/h) (mặt nước) [5]
  • 8,75 hải lý trên giờ (16,21 km/h) (lặn) [5]
Tầm xa 11.000 hải lý (20.000 km) trên mặt nước ở tốc độ 10 hải lý trên giờ (19 km/h)[5]
Tầm hoạt động
  • 48 giờ lặn ở tốc độ 2 hải lý trên giờ (3,7 km/h)[5]
  • tuần tra 75 ngày [7]
Độ sâu thử nghiệm
  • 250–300 ft (80–90 m)
  • độ sâu bị ép vỡ khoảng 500 ft (150 m)[5]
Thủy thủ đoàn tối đa 6 sĩ quan, 54 thủy thủ[5]
Vũ khí

USS Grampus (SS-207) là một tàu ngầm lớp Tambor[Ghi chú 1] được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ năm của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này, theo tên loài cá heo Risso.[1] Nó đã phục vụ trong suốt Thế Chiến II, thực hiện được sáu chuyến tuần tra và đánh chìm một tàu chở dầu tải trọng 8.636 tấn.[8] Con tàu mất tích trong chuyến tuần tra cuối cùng tại khu vực quần đảo Solomon, có thể bị tàu khu trục Nhật Bản đánh chìm trong eo biển Blackett vào ngày 5 tháng 3, 1943. Grampus được tặng thưởng ba Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.

Thiết kế và chế tạo[sửa | sửa mã nguồn]

Lớp Tambor có nhiều đặc tính được cải tiến so với tàu ngầm lớp Sargo dẫn trước. Hình dạng thân tàu được làm suôn thẳng hơn để đạt tốc độ nhanh hơn, và thùng lặn khẩn cấp được trang bị lại giúp con tàu lặn xuống nhanh hơn. Hệ thống động lực toàn diesel-điện được áp dụng, và giải quyết được sự cố chập mạch trước đây. Nó trang bị động cơ General Motors-Winton dẫn động máy phát điện, và động cơ điện kết nối với trục chân vịt qua hộp số giảm tốc.[9]

Lần đầu tiên đối với tàu ngầm Hoa Kỳ, lớp Tambor có đến mười ống phóng ngư lôi gồm sáu trước mũi và bốn phía đuôi. Hiệu quả tác chiến được cải thiện nhờ bố trí lại người vận hành sonarmáy tính dữ liệu ngư lôi vào một tháp chỉ huy lớn hơn, cho phép trao đổi trực tiếp với hạm trưởng, cùng một kính tiềm vọng kiểu mới có đầu nhỏ hơn giúp khó bị phát hiện.[10][11] Thoạt tiên được chỉ được trang bị pháo 3 in (76 mm)/50 caliber, boong tàu được gia cố sẵn đủ để lắp đặt pháo cỡ 5 in (130 mm)/51 caliber khi tình huống tác chiến đòi hỏi.[12]

Grampus được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng Electric Boat CompanyGroton, Connecticut vào ngày 14 tháng 2, 1940. Nó được hạ thủy vào ngày 23 tháng 12, 1940, được đỡ đầu bởi bà Clark H. Woodward, và được cho nhập biên chế cùng Hải quân Hoa Kỳ tại New London, Connecticut vào ngày 23 tháng 5, 1941 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Thiếu tá Hải quân Edward S. Hutchinson.[1][3][13]

Lịch sử hoạt động[sửa | sửa mã nguồn]

1941[sửa | sửa mã nguồn]

Phần thưởng[sửa | sửa mã nguồn]

Grampus được tặng thưởng ba Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.[1][3] Nó được ghi công đã đánh chìm một tàu chở dầu tải trọng 8.636 tấn.[8]

Bản mẫu:Ribbon devices/alt
Bản mẫu:Ribbon devices/alt
Bronze star
Bronze star
Bronze star
Bản mẫu:Ribbon devices/alt
Bản mẫu:Ribbon devices/alt
Dãi băng Hoạt động Tác chiến
Huân chương Chiến dịch Hoa Kỳ Huân chương Chiến dịch Châu Á-Thái Bình Dương
với 2 Ngôi sao Chiến trận
Huân chương Chiến thắng Thế Chiến II

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

Ghi chú[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Một số tài liệu xem nó thuộc lớp phụ Gar.

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b c d e Naval Historical Center. Grampus V (SS-207). Dictionary of American Naval Fighting Ships. Navy Department, Naval History and Heritage Command.
  2. ^ a b c d e Friedman 1995, tr. 285–304
  3. ^ a b c Yarnall, Paul R. “Grampus (SS-207)”. NavSource.org. Truy cập ngày 28 tháng 2 năm 2024.
  4. ^ a b c d e f g h Bauer & Roberts 1991, tr. 270
  5. ^ a b c d e f g h i j k l m n Friedman 1995, tr. 305-311
  6. ^ Friedman 1995, tr. 261
  7. ^ a b Alden 1979, tr. 74
  8. ^ a b The Joint Army-Navy Assessment Committee. “Japanese Naval and Merchant Shipping Losses During World War II by All Causes”. Truy cập ngày 3 tháng 10 năm 2022.
  9. ^ Friedman 1995, tr. 263, 360-361
  10. ^ Friedman 1995, tr. 196-197
  11. ^ “Tambor class, U.S. Submarine”. The Pacific War Online Encyclopedia. Truy cập ngày 21 tháng 2 năm 2024.
  12. ^ Friedman 1995, tr. 214-218
  13. ^ Helgason, Guðmundur. “Grampus (i) (SS-207)”. uboat.net. Truy cập ngày 28 tháng 2 năm 2024.

Thư mục[sửa | sửa mã nguồn]

Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]