Wikipedia:Bài viết chọn lọc/2010/05

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014
2015 2016 2017 2018 2019 2020 2021 2022 2023 2024
Bài viết chọn lọc
tháng 5 năm 2010
Tháng
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12

Tinh vân Con Cua

Tinh vân Con Cua. Ảnh của kính viễn vọng không gian Hubble.

Tinh vân Con Cua là một tàn tích siêu tân tinh và tinh vân gió sao xung trong chòm sao Kim Ngưu. Tinh vân này được John Bevis quan sát năm 1731; nó tương ứng với siêu tân tinh sáng chói được các nhà thiên văn Trung Hoa và Ả Rập ghi nhận năm 1054. Với năng lượng tia Xtia gamma trên 30 KeV, tinh vân Con Cua nói chung là nguồn sáng bền vững mạnh nhất trên bầu trời, với thông lượng đã đo đạc trải rộng tới trên 1012 eV. Nằm ở khoảng cách khoảng 6.500 năm ánh sáng từ Trái Đất, tinh vân này có đường kính 11 năm ánh sáng và giãn nở với tốc độ khoảng 1.500 kilômét mỗi giây. Tại trung tâm của tinh vân này là sao xung Con Cua, một sao neutron quay, phát xạ các xung của bức xạ với bước sóng từ tia gamma tới sóng radio và với tốc độ quay khoảng 30,2 lần mỗi giây. Tinh vân này là thiên thể đầu tiên được nhận dạng bằng vụ nổ siêu tân tinh lịch sử. Tinh vân này đóng vai trò như là một nguồn bức xạ để nghiên cứu các thiên thể che khuất nó. Trong thập niên 1950 và 1960, vành nhật hoa của Mặt Trời đã được xạ ảnh từ các quan sát sóng radio của tinh vân Con Cua vượt ngang qua nó, và trong năm 2003, độ dày của khí quyển của vệ tinh Sao ThổTitan đã được đo đạc khi nó chặn các tia X từ tinh vân này. [ Đọc tiếp ]

Cận Tinh

Cận Tinh là một sao lùn đỏ nằm cách Hệ Mặt Trời xấp xỉ 4,2 năm ánh sáng trong chòm sao Bán Nhân Mã. Nó được Robert Innes, giám đốc đài quan sát Union ở Nam Phi, khám phá vào năm 1915. Ngôi sao này là ngôi sao gần nhất với Mặt Trời. Khoảng cách từ nó đến các ngôi sao gần nhất thứ hai và thứ ba so với Mặt Trời, tạo nên hệ sao đôi Alpha Centauri là 0,21 năm ánh sáng.

Do là ngôi sao gần nhất, đường kính góc của nó có thể đo được trực tiếp, với đường kính góc bằng 1/7 của Mặt Trời. Khối lượng của Cận Tinh bằng khoảng 1/8 khối lượng Mặt Trời, và mật độ trung bình bằng 40 lần của Mặt Trời. Mặc dù nó có độ sáng trung bình rất thấp, Cận Tinh là một sao lóe sáng thỉnh thoảng bừng sáng lên do hoạt động từ trường. Từ trường của ngôi sao được tạo ra do sự đối lưu trong ngôi sao, và kết quả là hoạt động lóe sáng tạo ra tổng lượng bức xạ tia X bằng với bức xạ do Mặt Trời tạo ra. Hỗn hợp nhiên liệu tại nhân của Cận Tinh tham gia vào chuyển động đối lưu và tốc độ sản sinh năng lượng thấp có nghĩa là ngôi sao sẽ nằm trong dải chính trong khoảng bốn nghìn tỉ năm, hay bằng 300 lần tuổi của vũ trụ hiện nay.

Việc tìm kiếm các vật thể quay quanh Cận Tinh vẫn chưa thành công, với sự tập trung vào các hành tinh lùn và hành tinh khí khổng lồ. Các phép đo chính xác về vận tốc xuyên tâm cũng giới hạn sự có mặt các hành tinh siêu Trái Đất trong vùng sống được của ngôi sao. Việc xác định các vật thể nhỏ hơn sẽ đòi hỏi những thiết bị mới, như nhiệm vụ giao thoa kế không gian. Do Cận Tinh là một ngôi sao lùn đỏ và lóe sáng, liệu có hành tinh quay quanh nó có thể có sự sống hay không vẫn là câu hỏi đang được tranh luận. Cũng là ngôi sao gần nhất, đã có những đề xuất nó là một trong những đích đến của các chuyến du hành giữa các ngôi sao. [ Đọc tiếp ]

A.C. Milan

A.C. Milan là một câu lạc bộ bóng đá của thành phố Milano, Ý được thành lập ngày 16 tháng 12 năm 1899. Tại mùa giải 2009-2010, đội bóng đang thi đấu tại Serie A, hạng đấu cao nhất của Giải vô địch bóng đá quốc gia Ý và có hệ số UEFA, chỉ số dựa trên thành tích trong 5 mùa giải cấp châu lục gần nhất của câu lạc bộ, đứng thứ 5 ở châu Âu. Ở cấp độ quốc tế, Milan cùng Boca Juniors của Argentina hiện đang giữ kỷ lục về số danh hiệu quốc tế với 18 danh hiệu, trong đó có 4 Cúp Liên lục địa/Cúp thế giới các câu lạc bộ, 5 Siêu cúp châu Âu, 7 Cúp C1/UEFA Champions League và 2 Cúp các đội đoạt cúp.

Nếu như ở đấu trường châu Âu, Milan là câu lạc bộ Ý có nhiều danh hiệu nhất thì tại giải vô địch bóng đá quốc gia Ý, câu lạc bộ có thành tích xếp thứ hai, sau Juventus, với 17 danh hiệu vô địch quốc gia, 5 Cúp quốc gia và 5 Siêu cúp quốc gia. Trong lịch sử của mình, A.C. Milan đã từng hai lần phải xuống chơi tại Serie B trong các năm 1980 và 1982, trong đó lần đầu tiên là do án phạt của Liên đoàn bóng đá quốc gia Ý vì Milan có dính líu tới vụ bê bối dàn xếp tỉ số Totonero. Vào đầu thập niên 2000 đội bóng còn dính líu tới một vụ bê bối bóng đá khác có tên Calciopoli. Trong lịch sử giải Serie A, Milan là câu lạc bộ duy nhất từng vô địch mà không để thua bất cứ trận đấu nào trong suốt mùa giải (mùa 1991-1992). Đây cũng là câu lạc bộ duy nhất từng có cầu thủ chiếm chọn cả ba vị trí đầu tiên của cuộc bình chọn Quả bóng vàng châu Âu, đó là vào hai năm 1988 khi bộ ba người Hà Lan của Milan là Marco van Basten, Ruud GullitFrank Rijkaard lần lượt xếp thứ nhất, nhì và ba trong cuộc bình chọn và 1989 với các cầu thủ Marco van Basten, Franco Baresi và Frank Rijkaard. Trong một cuộc thăm dò của tạp chí World Soccer thực hiện vào năm 2007, đội hình A.C. Milan với bộ ba "Hà Lan bay" Gullit-Rijkaard-Van Basten dưới thời huấn luyện viên Arrigo Sacchi được bầu chọn là đội hình cấp câu lạc bộ mạnh nhất trong lịch sử và tính chung chỉ thua đội hình các đội tuyển quốc gia Brassil năm 1970, Hà Lan năm 1974 và Hungary giai đoạn 1953-1954. [ Đọc tiếp ]

Mặt Trời

Mặt Trờingôi sao ở trung tâm Hệ Mặt Trời, chiếm khoảng 99,86% khối lượng của Hệ Mặt Trời. Trái Đất và các thiên thể khác như các hành tinh, tiểu hành tinh, thiên thạch, sao chổi, và bụi quay quanh Mặt Trời. Khoảng cách trung bình giữa Mặt Trời và Trái Đất xấp xỉ 149,6 triệu kilômét (1 đơn vị thiên văn AU) nên ánh sáng Mặt Trời cần 8 phút 19 giây mới đến được Trái Đất. Trong một năm, khoảng cách này thay đổi từ 147,1 triệu kilômét ở điểm cận nhật (khoảng ngày 3 tháng 1), tới xa nhất là 152,1 triệu kilômét ở điểm viễn nhật (khoảng ngày 4 tháng 7). Năng lượng Mặt Trời ở dạng ánh sáng hỗ trợ cho hầu hết sự sống trên Trái Đất thông qua quá trình quang hợp, và điều khiển khí hậu cũng như thời tiết trên Trái Đất. Thành phần của Mặt Trời gồm hydro (khoảng 74% khối lượng, hay 92% thể tích), heli (khoảng 24% khối lượng, 7% thể tích), và một lượng nhỏ các nguyên tố khác, gồm sắt, nickel, oxy, silic, lưu huỳnh, magiê, carbon, neon, canxi, và crom. Mặt Trời có hạng quang phổ G2V. G2 có nghĩa nó có nhiệt độ bề mặt xấp xỉ 5.778 K (5.505 °C) khiến nó có màu trắng, và thường có màu vàng khi nhìn từ bề mặt Trái Đất bởi sự tán xạ khí quyển. Chính sự tán xạ này của ánh sáng ở giới hạn cuối màu xanh của quang phổ khiến bầu trời có màu xanh. Quang phổ Mặt Trời có chứa các đường ion hoá và kim loại trung tính cũng như các đường hydro rất yếu. V (số 5 La Mã) trong lớp quang phổ thể hiện rằng Mặt Trời, như hầu hết các ngôi sao khác, là một ngôi sao thuộc dãy chính. Điều này có nghĩa nó tạo ra năng lượng bằng tổng hợp hạt nhân của hạt nhân hydro thành heli. Có hơn 100 triệu ngôi sao lớp G2 trong Ngân Hà của chúng ta. Từng bị coi là một ngôi sao nhỏ và khá tầm thường nhưng thực tế theo hiểu biết hiện tại, Mặt Trời sáng hơn 85% các ngôi sao trong Ngân Hà với đa số là các sao lùn đỏ. [ Đọc tiếp ]

Giới thiệu thuyết tương đối rộng

Thuyết tương đối rộng là một lý thuyết về hấp dẫn do Albert Einstein phát triển từ năm 1907 đến năm 1915. Theo thuyết tương đối rộng, chúng ta quan sát thấy sự hút giữa các khối lượng với nhau là do kết quả của sự uốn cong không gian và thời gian do chúng gây ra. Cho đến đầu thế kỷ 20, định luật vạn vật hấp dẫn của Newton đã được công nhận hơn hai trăm năm do những miêu tả phù hợp về lực hấp dẫn giữa các khối lượng với nhau. Trong mô hình của Newton, hấp dẫn là kết quả của lực hút giữa các vật thể với nhau. Mặc dù chính Newton đã băn khoăn về bản chất bí ẩn của lực này, nhưng mô hình của ông đã rất thành công trong việc miêu tả chuyển động của các vật thể. Các thí nghiệm và quan sát đã cho thấy lý thuyết hấp dẫn của Einstein có kể đến một vài hiệu ứng mà chưa được giải thích thỏa đáng bởi định luật của Newton, như dị thường nhỏ trong quỹ đạo của sao Thủy và các hành tinh khác. Thuyết tương đối tổng quát cũng tiên đoán những hiệu ứng mới của hấp dẫn, như sóng hấp dẫn, thấu kính hấp dẫn và hiệu ứng của hấp dẫn tác động lên thời gian còn được gọi là sự giãn thời gian do hấp dẫn. Rất nhiều tiên đoán này đã được xác nhận bởi các thí nghiệm, trong khi nhiều chủ đề khác vẫn còn đang được tiếp tục nghiên cứu. Ví dụ, mặc dù đã có những chứng cớ gián tiếp về sóng hấp dẫn, chứng cứ trực tiếp về sự tồn tại của chúng vẫn còn đang được thu thập bởi một số nhóm các nhà khoa học về thực nghiệm trên thế giới như các dự án LIGO và GEO 600. [ Đọc tiếp ]