Wole Soyinka

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Wole Soyinka
Wole Soyinka năm 2018
Wole Soyinka năm 2018
SinhAkinwande Oluwole Babatunde Soyinka[1]
13 tháng 7, 1934 (89 tuổi)
Abeokuta, Nigeria Protectorate (now Ogun State, Nigeria)
Nghề nghiệpNhà thơ, nhà văn, nhà viết kịch
Quốc tịchNigeria
Giai đoạn sáng tác1957–Hiện tại
Thể loạiThơ, truyện, kịch
Chủ đềVăn học so sánh
Giải thưởng nổi bậtGiải Nobel Văn học
1986

Wole Soyinka (tên thật là Akinwande Oluwole Soyinka; sinh ngày 13 tháng 7 năm 1934) là nhà văn, nhà thơ, nhà viết kịch người Nigeria, ông đã đoạt giải Nobel Văn học năm 1986.

Tiểu sử[sửa | sửa mã nguồn]

Wole Soyinka sinh ở Abeokuta, Nigeria, là con thứ hai trong số sáu người con của một thanh tra giáo dục, lúc đó là thuộc địa của Anh. Ngay từ nhỏ, những phong tục, vũ điệu, truyền thuyết của bộ tộc đã để lại dấu ấn sâu sắc trong tâm trí ông. Từ năm 1952, ông học văn học Anh, lịch sử, tiếng Hy Lạp tại trường Cao đẳng Ibadan, rồi tiếp tục học Anh văn tại Đại học Leeds. Năm 1958, Soyinka học sân khấu, làm diễn viên và viết kịch cho Nhà hát Hoàng gia London - các vở lớn đầu tiên là The Swamp Dwellers (Cư dân đầm lầy), The Lion and the Jewel (Sư tử và hạt ngọc). Năm 1960, ông được trao học bổng Rockefeller; sau đó ông quay trở về Nigeria học nghệ thuật kịch châu Phi và giảng dạy tiếng Anh tại các trường đại học Ibadan, Lagos và Ife; đồng thời viết kịch, làm đạo diễn, diễn viên. Từ năm 1960-1964, ông cùng một số người sáng lập tạp chí danh tiếng Black Orpheus (Thiên thần đen). Năm 1965, ông xuất bản tiểu thuyết đầu tay không có cốt truyện, nội dung là cuộc trò chuyện giữa năm trí thức trẻ Nigeria vừa tốt nghiệp đại học ở nước ngoài có mong muốn phục vụ đất nước nhưng lại bị cản trở bởi quan điểm và tệ tham nhũng.

Những năm 1967-1969, ông phải ngồi tù vì viết một bài báo kêu gọi chấm dứt nội chiến ở Nigeria. Trong thời gian này, ông viết tập Poems from Prison (Thơ trong tù, 1969) - tái bản bổ sung năm 1972 với tên gọi A Shuttle in the Crypt (Một chuyến đi trong hầm nhà thờ) - và tiểu thuyết The Man Died: Prison Notes (Người đã chết, 1972). Năm 1973, ông nhận bằng tiến sĩ của Đại học Leeds và trở thành giáo sư văn học vào năm 1975.

Năm 1986, Wole Soyinka là nhà văn châu Phi đầu tiên nhận giải Nobel vì có những đóng góp quan trọng cho nền sân khấu châu Phi. Ông đã dành tặng bài diễn từ đọc tại lễ trao giải Nobel của mình cho vị lãnh tụ Nam Phi luôn đấu tranh chống chủ nghĩa phân biệt chủng tộc Nelson Mandela.

Năm 1993, chế độ độc tài quân sự lên nắm quyền, ông ra nước ngoài sinh sống. Trong tập truyện ký Open Sore of Continent: A Personal Narrative of the Nigeria Crisis (Vết thương mở của lục địa: chứng kiến riêng tư về cuộc khủng hoảng ở Nigeria) viết năm 1996, ông đã ghi lại quá trình giành độc lập của Nigeria từ năm 1960 đến năm 1993. Năm 1997, sau các bài viết nói về cuộc phục hưng đất nước Nigeria, ông đã bị buộc tội phản quốc. Tháng 6 năm 1998, khi chính phủ mới lên thay, ông được hủy bỏ tội danh này. Năm 1999, Wole Soyinka xuất bản The Burden of Memory, the Muse of Forgiveness (Gánh nặng của trí nhớ, nàng thơ của lòng khoan thứ), kể về những tội ác đối với người châu Phi và về sự khó khăn của việc hòa giải. Tập thơ về những năm tháng lưu vong của ông, Samarkand and Other Markets I Have Known (Samarkand và các thị trường khác mà tôi biết), được xuất bản năm 2002.

Wole Soyinka là một trong những người xây dựng nền sân khấu dân tộc Nigeria độc lập và sáng lập đoàn kịch 1960 Masks (Mặt nạ 1960). Ông cũng là người không tán thành khuynh hướng négritude ("phận da đen", đề cao các giá trị văn hóa da đen) của nhóm Senghor. Trong các vở kịch của mình ông thường kết hợp rất khéo léo các chi tiết phương Tây với những yếu tố dân gian và tôn giáo. Ông biết tạo nên những đánh giá chính xác, phù hợp với tình trạng xã hội và quan niệm đạo đức của nhân vật, qua đó bày tỏ sự thất vọng của mình về sự lãnh đạo độc đoán và xã hội Nigeria nói chung.

Tác phẩm[sửa | sửa mã nguồn]

  • The Swamp Dwellers (Cư dân đầm lầy, 1958), hài kịch
  • The Lion and the Jewel (Sư tử và hạt ngọc, 1959), hài kịch
  • The Invention (Phát minh, 1959), kịch
  • The Trials of Brother Jero (Các vụ xét xử anh Jero, 1960), hài kịch
  • A Dance of the Forests (Vũ khúc của rừng, 1960), kịch
  • The Strong Breed (Giống nòi khỏe mạnh, 1963), kịch
  • The Road (Con đường, 1965), kịch
  • The Interpreters (Thông dịch viên, 1965), tiểu thuyết
  • Kongi's harvest (Mùa gặt ở Kongi, 1967), kịch
  • Idanre (1967), thơ
  • Poems from Prison (Thơ trong tù, 1969), thơ
  • Madmen and Specialist (Những người điên và các chuyên gia, 1970), tiểu thuyết
  • A Shuttle in the Crypt (Một chuyến đi trong hầm nhà thờ, 1972), tên gọi khác của Poems from Prison, thơ
  • The Man Died: Prison Notes (Người đã chết, 1972), tiểu thuyết
  • Season of Anomy (Mùa Anomy, 1973), tiểu thuyết
  • Jero's Metamorphosis (Sự hóa thân của Jero, 1974), kịch
  • Bacchae (1974), kịch
  • Death anh the King's Horseman (Cái chết và kị sĩ của nhà vua, 1975), kịch
  • Myth, Literature and the African World (Thần thoại, văn chương và thế giới châu Phi, 1976), phê bình văn học
  • Opera Wonyosi (Vở opera Wonyosi, 1977) kịch
  • Aké: The Years of Childhood (Aké: Những năm thơ ấu, 1981), tự truyện
  • Isara: A Voyage around Essay (1989), tự truyện
  • A Play of Giants (Trò chơi của những người khổng lồ, 1984), kịch
  • Mandela's Earth and other poems (Trái Đất của Mandela và các bài thơ khác, 1988), thơ
  • The Credo of Being and Nothingness (Tín điều của tồn tại và hư vô, 1991), tập tiểu luận
  • From Zia, with Love (Từ Zia, với lòng yêu mến, 1992), kịch
  • Open Sore of Continent: A Personal Narrative of the Nigeria Crisis (Vết thương mở của lục địa: một chứng kiến riêng tư về cuộc khủng hoảng ở Nigeria, 1996), tập truyện kí
  • The Burden of Memory, the Muse of Forgiveness (Gánh nặng của trí nhớ, nàng thơ của lòng khoan thứ, 1999), thơ
  • King Baabu (2001), kịch
  • Samarkand and Other Markets I Have Known (Samarkand và các thị trường khác mà tôi biết, 2002), thơ
  • You Must Set Forth at Dawn (2006), tự truyện
  • New Imperialism (2009), tập tiểu luận
  • Alapata Apata (2011), kịch
  • Of Africa (2012), tập tiểu luận

Một số bài thơ[sửa | sửa mã nguồn]

Abiku
Wanderer child. It is the same child who dies and
returns again and again to plague the mother.
-Yoruba belief
 
In vain your bangles cast
Charmed circles at my feet;
I am Abiku, calling for the first
And the repeated time.
 
Must I weep for goats and cowries
For palm oil and the sprinkled ash?
Yams do not sprout in amulets
To earth Abiku's limbs.
 
So when the snail is burnt in his shell
Whet the heated fragments, brand me
Deeply on the breast. You must know him
When Abiku calls again.
 
I am the squirrel teeth, cracked
The riddle of the palm. Remember
This, and dig me deeper still into
The god's swollen foot.
 
Once and the repeated time, ageless
Though I puke. And when you pour
Libations, each finger points me near
The way I came, where
 
The ground is wet with mourning
White dew suckles flesh-birds
Evening befriends the spider, trapping
Flies in wind-froth;
 
Night, and Abiku sucks the oil
From lamps. Mother! I'll be the
Supplicant snake coiled on the doorstep
Yours the killing cry.
 
The ripes fruit was saddest;
Where I crept, the warmth was cloying.
In the silence of webs, Abiku moans, shaping
Mounds from the yolk.
 
I think it rains
I think it rains
That tongues may loosen from the parch
Uncleave roof-tops of the mouth, hang
Heavy with knowledge
 
I saw it raise
The sudden cloud, from ashes. Settling
They joined in a ring of grey; within,
The circling spirit
 
Oh it must rain
These closures on the mind, binding us
In strange despairs, teaching
Purity of sadness
 
And how it beats
Skeined transparencies on wings
Of out desires, searing dark longings
In cruel baptisms
 
Rain-reeds, practised in
The grace of yielding, yet unbending
From afar, this your conjugation with my earth
Bares crouching rocks.
Abiku
Đứa con giang hồ. Đây là đứa trẻ đang chết
nhưng liên tục sống lại để hành hạ người mẹ.
-Tín ngưỡng của người Yoruba.
 
Lời nguyện cầu âm thầm vô ích
Đấy là tràng hạt quyến rũ dưới bàn chân
Ta là Abiku, lên tiếng gọi đầu tiên
Để xin được đầu thai vào kiếp khác.
 
Ta đâu có cần những bầy gia súc
Hay tro rắc với dầu cọ mà chi
Bùa hộ mệnh không có trong củ từ
Dùng để chôn Abiku vào đất.
 
Hãy đem nướng một con ốc trên bếp
Rồi hãy cầm cái vỏ con ốc kia
Ép thật sâu vào ngực Abiku
Để khi gọi sẽ dễ dàng nhận biết.
 
Ta là răng con sóc, và vết nứt
Là bí ẩn bàn tay. Hãy nhớ xem
Đào thật sâu vào chân sưng của thần
Để nhận ra kẻ lưu đày muôn kiếp.
 
Một lần, và khi thời gian lặp lại
Dù buồn nôn ta vẫn phải hồi sinh
Lễ dâng rượu chỉ cho ta con đường
Và nơi chốn để ta về lối ấy.
 
Đất đẫm ướt vì nước mắt tang thương
Để chim gặp nạn dưới làn sương trắng
Buổi tối kết bạn với từng con nhện
Để ruồi bay trong gió bọt đau buồn.
 
Abiku hút dầu từ ngọn đèn
Đêm cho cuộc sống, bình minh – cái chết
Con rắn trên ngưỡng hao gầy khóc thét
Cho sự sinh ra rồi chết của mình.
 
Khi cây đến hạn thì trái nảy sinh
Và trái chín lại rụng về với đất
Mẹ ban cho Abiku sự chết
Là sự vĩnh hằng của mẹ đầu tiên.
 
Tôi nghĩ rằng trời mưa
Tôi nghĩ rằng trời mưa
Để lưỡi nặng nề vì kiến thức
Có thể dứt ra được
Khỏi vòm miệng đã khô.
 
Tôi thấy rất bất ngờ
Các đám mây từ tro bụi
Kết thành vòng tròn xám, mà trong đó
Một linh hồn cuộn tròn vo.
 
Trời đã phải đổ cơn mưa
Để đóng vào tâm trí và giam giữ
Chúng mình trong cơn tuyệt vọng vô cùng lạ
Cám dỗ ta bằng sự buồn chán, ê chề.
 
Và cơn mưa đã có đánh bằng
Con dao trong suốt giấu trên đôi cánh
Và lễ báp têm cho dù tàn nhẫn
Vẫn cho ta những khao khát kín thầm.
 
Ôi những cơn mưa như cây
Đã dạn dày với bao nhiêu ân sủng
Cùng với mặt đất của tôi, khi người đến
Từ đằng xa, chỉ có đá mà thôi.
Bản dịch của Nguyễn Viết Thắng

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Tyler Wasson; Gert H. Brieger (ngày 1 tháng 1 năm 1987). Nobel Prize Winners: An H.W. Wilson Biographical Dictionary, Volume 1. The University of Michigan. tr. 993. ISBN 9780824207564. Truy cập ngày 4 tháng 12 năm 2014.

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]