Tomas Tranströmer

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Tomas Tranströmer
Tranströmer năm 2008
Tranströmer năm 2008
SinhTomas Gösta Tranströmer
15 tháng 4 năm 1931
Stockholm, Thụy Điển
Mất26 tháng 3 năm 2015
Nghề nghiệpNhà thơ
Quốc tịchNgười Thụy Điển
Giai đoạn sáng tácThế kỷ 20, thế kỷ 21
Tác phẩm nổi bậtWindows and Stones (1966), The Great Enigma (2004)
Giải thưởng nổi bật Giải Nobel Văn học
2011
Phối ngẫuMonika Bladh

Tomas Tranströmer (15 tháng 4 năm 1931 tại Stockholm, Thụy Điển - 26 tháng 3 năm 2015) là một nhà thơ, nhà văn và dịch giả người Thụy Điển, thơ của ông đã được dịch ra hơn 60 thứ tiếng.[1]. Ông đã đoạt Giải văn học của Hội đồng Bắc Âu năm 1990, Giải văn học quốc tế Neustadt năm 1990 và được trao giải Nobel Văn học năm 2011 vì "Tomas Tranströmer được vinh danh vì lối kể chuyện súc tích của ông đã mang chúng ta đến gần hơn với những suy nghĩ thực tại"[2].

Thời trẻ[sửa | sửa mã nguồn]

Tomas Transtromer sinh ngày 15 tháng 4 năm 1931 tại Stockholm (Thụy Điển) và được mẹ nuôi dưỡng do cha mẹ cậu ly hôn, mẹ ông là một giáo viên.[2][3]. Ông đã học trung học của ông tại trường Latin Södra ở Stockholm, nơi ông bắt đầu làm thơ. Ngoài việc lựa chọn tạp chí ấn phẩm, bộ sưu tập đầu tiên của bài thơ, 17dikter được xuất bản vào năm 1954. Ông tiếp tục học tại Đại học Stockholm, tốt nghiệp ngành tâm lý học vào năm 1956 với nghiên cứu bổ sung lịch sử, tôn giáo, và văn học[2]. Trong các năm 1960 và 1966, Tranströmer chia thời gian của mình giữa làm việc như một nhà tâm lý học tại trung tâm Roxtuna cho người chưa thành niên phạm tội và viết thơ. Lúc lên 13 tuổi, Tomas Tranströmer đã làm quen với việc sáng tác thơ và đến năm 23 tuổi, Tomas Tranströmer xuất bản tuyển tập thơ đầu tiên có tựa đề Những vần thơ tuổi 17.

Năm 1990, Tomas Tranströmer trải qua cơn đột quỵ nặng nhưng sau đó vẫn không từ bỏ niềm đam mê sáng tác. Ông từng nhận được nhiều giải thưởng uy tín nhất của làng văn chương thế giới như: Giải Bonnier (của Estonia) lĩnh vực thơ, Giải quốc tế Neustadt (Mỹ) dành cho văn học, Petrarca-Preis (Đức), Vòng hoa vàng tại Đại hội thi ca quốc tế Struga Poetry Evenings (Romania), Swedish Award trong Diễn đàn Thi ca Quốc tế, giải Thành tựu trọn đời của giải Thơ ca Griffin (Canada)…

Ngoài sáng tác văn chương, trước khi bị đột quỵ, Tomas Tranströmer còn được biết đến là nhà tâm lý học làm việc trong những trại giam dành cho trẻ vị thành niên và là bác sĩ tâm lý của những phạm nhân tàn tật, nghiện ma túy. Những đóng góp của ông dành cho xã hội là điều vô giá, xuất phát từ chính tâm hồn nhạy cảm và lòng trắc ẩn của tác giả tài năng này.

Trước khi nhận giải Nobel Văn học 2011, Tranströmer đã được đề cử Nobel liên tục từ năm 2008.

Tác phẩm[sửa | sửa mã nguồn]

Các tập thơ[sửa | sửa mã nguồn]

  • 17 dikter (Những vần thơ tuổi 17, 1954)
  • Hemligheter på vägen (Những bí mật trên đường, 1958)
  • Den halvfärdiga himlen (Bầu trời một nửa đã xong, 1962)
  • Klanger och spår (Tương đồng và dấu ấn, 1966)
  • Mörkerseende (Nhìn vào bóng tối, 1970)
  • Stigar (Đường dẫn, 1973)
  • Östersjöar (Biển Baltic, 1974), trường ca
  • Sanningsbarriären (Rào cản của chân lý, 1978)
  • Det vilda torget (1983)
  • För levande och döda (Cho người sống và cho kẻ chết, 1989)
  • Sorgegondolen (Vòng hoa vàng, 1996), còn có tên là Du thuyền tang lễ
  • Fängelse (Nhà tù, 2001)
  • Den stora gåtan (Bí mật vĩ đại, 2004)

Khác[sửa | sửa mã nguồn]

  • Minnena ser mig (1993), hồi ký
  • Air Mail: Brev 1964-1990 (2001), thư từ
  • Galleriet: Reflected in Vecka nr.II (2007), lí luận

Một số bài thơ[sửa | sửa mã nguồn]

Tháng tư và im lặng
Mùa xuân hoang vu.
Một rãnh nước màu nhung sẫm
Bò sát bên cạnh ta
không hình phản ánh.
 
Chỉ một thứ duy nhất lấp lánh
là những bông hoa màu vàng.
 
Chiếc bóng mang
ta đi như chiếc vĩ cầm
trong chiếc hộp màu sẫm tối.
 
Điều duy nhất mà ta muốn nói
lóe lên ngoài tầm đạt tới
như đồ bạc ánh lên
ở người cho vay nặng lãi.
Cung Đô trưởng
Khi chàng trở về từ nơi hò hẹn
tuyết xoáy giữa không trung.
Mùa đông đã đến
trong khi họ nằm cùng
Đêm tỏa hào quang ngời sáng.
Chàng dường như chạy với vẻ hân hoan
Đường khắp thành phố chỉ toàn đi xuống.
Chàng mỉm cười với người qua đường
tất cả mỉm cười sau cổ áo mở tung.
Tự do là thế!
Tất cả dấu hỏi hát về sự tồn tại của Chúa Trời.
Chàng nghĩ vậy.
Tiếng nhạc vang lên
và bước đi trong tuyết xoáy
bằng những bước thong dong.
Cuộc dạo chơi dưới cung Đô trưởng.
La bàn run rẩy hướng về Đô trưởng.
Một giờ hướng về phía bắc bởi niềm đau.
Thật dễ dàng biết bao!
Tất cả mỉm cười từ sau cổ áo.
Espresso
Cà phê đen trên quán cà phê vỉa hè
với bàn ghế, như côn trùng, rực rõ.
 
Những giọt cà phê đen quý giá
chất đầy một sức mạnh Có và Không.
 
Được bưng ra từ nơi tối như bưng
nó nhìn mặt trời mà không chớp mắt.
 
Giữa ánh sáng ban ngày – tươi mát một chấm đen
chảy tuột nhanh vào kẻ thực khách tái nhợt.
 
Giống như những giọt đen sâu sắc
đôi khi chúng tìm bắt những linh hồn.
 
Tạo nên một cú đẩy hữu ích: Đi anh!
Nguồn cảm hứng – trong những đôi mắt mở rộng.
Hai người
Họ tắt đèn, và chao đèn màu trắng chập chờn
thêm một khoảnh khắc trước khi hòa tan
như viên thuốc trong ly. Sau bật dậy.
Tường khách sạn hướng về phía trời đêm.
 
Cơn say tình đã dịu đi, và họ ngủ
nhưng những ý nghĩ kín thầm tìm đến với nhau
giống như khi hai màu sắc hòa thành một màu
trên giấy ướt, trong bức tranh cậu học trò vừa vẽ.
 
Tối và yên lặng. Nhưng thành phố dường như tiếp cận
trong đêm. Cửa sổ tối. Xích lại những ngôi nhà
Chúng như đứng sát bên nhau, và đợi chờ
đám đông với những gương mặt vô cùng hờ hững.
Sau cái chết
Từng có một cú sốc
Như sao chổi bỏ lại cái đuôi dài, nhạt và lung linh
Bao phủ lấy ta. Làm mờ màn ảnh máy thu hình.
Thành những giọt sương lạnh đậu trên dây điện thoại.
 
Còn có thể trượt tuyết dưới mặt trời mùa đông
giữa cánh rừng còn vương nhiều chiếc lá.
Như những trang xé từ trong danh bạ
mà băng giá đã làm mờ nhạt tuổi tên.
 
Thật tuyệt khi còn nghe tiếng đập con tim
Nhưng thường xuyên bóng thực hơn thể xác.
Samurai ảo mờ nâng kiếm thép
Sau giáp bào lấp lóa vảy rồng đen.
Những vách đá đại bàng
Sau lớp kính lồng
loài bò sát lạ lùng
nằm im không cử động.
 
Người phụ nữ giặt áo quần
rồi phơi trong lặng yên.
Cái chết vô cùng tĩnh lặng.
 
Tâm trí tôi chơi vơi
ở nơi sâu tận cùng đang bơi
nhẹ nhàng như ngôi sao chổi.
Vermeer[4]
Thế giới không có mái che. Tiếng động từ bên kia bức tường
quán nhậu bắt đầu bằng tiếng cười ồn, tiếng rít của răng
tiếng chuông đồng hồ và tin về cái chết
mà khi nghe thấy ai ai cũng đều run
bần bật.
 
Một tiếng nổ vang và tiếng bước chân của những người cứu hộ muộn màng
những con tàu lớn đậu trên sông
tiền chui vào túi không phải của những người cần
những đòi hỏi chất đống lên đòi hỏi
hoa màu đỏ linh cảm mồ hôi của chiến tranh.
 
Từ quán, xuyên qua bức tường đi thẳng vào phòng
vào cái khoảnh khắc sẽ kéo dài bằng cả trăm năm.
Những bức tranh có tên “Giờ học nhạc”
hoặc “Cô gái ngồi đọc thư bên cửa sổ mặc áo màu xanh” –
cô mang thai tám tháng, hai con tim đập trong người mình.
Bức tường phía sau cô treo tấm bản đồ Terra Incognita – miền đất lạ.
 
Hơi thở bình yên… Một tấm vải lạ lẫm màu xanh
được đính vào chiếc ghế từ phía sau lưng.
Những chiếc đinh vàng bay vun vút rồi bỗng lặng ngừng
giữa không khí như là bất động mà chưa từng là gì khác.
 
Đôi tai nghe ra tiếng động của chiều cao và chiều sâu cùng lúc.
Đấy là áp lực từ phía bên kia của bức tường.
Nó phơi bày mỗi sự việc ra giữa không trung
và làm cho vững chắc thêm từng nét bút.
 
Thật đau đớn phải đi qua những bức tường
bạn chịu tổn thương nhưng điều này cần thiết lắm
Thế giới là một. Nhưng có những bức tường…
Những bức tường là một phần của bạn
tất cả mọi người đều thế – dù bạn có đoán mò đoán mẫm –
ngoại trừ trẻ con. Đối với trẻ con không có những bức tường.
 
Bầu trời thoáng đãng dựa vào bức tường.
Hướng vào khoảng không như là cầu nguyện.
Và quay mặt hướng về phía chúng ta – khoảng không
và thì thầm:
“Tôi không phải là trống không, tôi là mở rộng”.
Bản dịch của Hồ Thượng Tuy
April och Tystnad
Våren lig ger öde.
Det sammetsmörka diket
krälar vid min sida
utan spegelbilder.
 
Det enda som lyser
är gula blommor.
 
Jag bärs i min skugga
som en fiol
i sin svarta låda.
 
Det enda jag vill säga
glimmar utom räckhåll
som silvret
hos pantlånaren.
C-dur
När han kom ner på gatan efter kärleksmötet
virvlade snö i luften.
Vintern hade kommit
medan de låg hos varann.
Natten lyste vit.
Han gick fort av glädje.
Hela staden sluttade.
Förbipasserande leenden -
alla log bakom uppfällda kragar.
Det var fritt!
Och alla frågetecken började sjunga om Guds tillvaro.
Så tyckte han.
En musik gjorde sig lös
och gick i yrande snö
med långa steg.
Allting var på vandring mot ton C.
En darrande kompass riktad mot C.
En timme ovanför plågorna.
Det var lätt!
Alla log bakom uppfällda kragar.
Espresso
Det svarta kaffet på uteserveringen
med stolar och bord granna som insekter.
 
Det är dyrbara uppfångade droppar
fyllda med samma styrka som Ja och Nej.
 
Det bärs fram ur dunkla kaféer
och ser in i solen utan att blinka.
 
I dagsljuset en punkt av välgörande svart
som snabbt flyter ut i en blek gäst.
 
Det liknar dropparna av svart djupsinne
som ibland fångas upp av själen.
 
som ger en välgörande stöt: Gå!
Inspiration att öppna ögonen.
Paret
De släcker lampan och dess vita kupa skimrar
ett ögonblick innan den löses upp
som en tablett i ett glas mörker. Sedan lyftas.
Hotellets väggar skjuter upp i himmelsmörkret.
 
Kärlekens rörelser har mojnat och de sover
men deras hemligaste tankar möts
som när två färger möts och flyter in i varann
på det våta papperet i en skolpojksmålning.
 
Det är mörkt och tyst. Men staden har ryckt närmare
i natt. Med släckta fönster. Husen kom.
De står i hopträngd väntan mycket nära,
en folkmassa med uttryckslösa ansikten.
Efter någons död
Det var en gång en chock
som lämnade efter sig en lång, blek, skimrande kometsvans.
Den hyser oss. Den gör TV—bilderna suddiga.
Den avsätter sig som kalla droppar på luftledningarna.
 
Man kan fortfarande hasa fram på skidor i vintersolen
mellan dungar där fjolårslöven hänger kvar.
De liknar blad rivna ur gamla telefonkataloger—
abonnenternas namn uppslukade av kölden.
 
Det är fortfarande skönt att känna sitt hjärta bulta.
Men ofta känns skuggan verkligare än kroppen.
Samurajen ser obetydlig ut
bredvid sin rustning av svarta drakfjäll.
Örnklippan
Bakom terrariets glas
reptilerna
underligt orörliga.
 
En kvinna hänger tvätt
i tystnaden.
Döden är vindstilla.
 
I markens djup
glider min själ
tyst som en komet.
Vermeer
Ingen skyddad värld... Strax bakom väggen börjar larmet
börjar värdshuset
med skratt och kvirr, tandrader tårar klockornas dån
och den sinnesrubbade svågern, dödsbringaren som alla måste
darra för.
 
Den stora explosionen och räddningens försenade tramp
båtarna som kråmar sig på redden, pengarna som kryper ner i
fickan på fel man
krav som staplas på krav
gapande röda blomkalkar som svettas föraningar om krig.
 
Därifrån och tvärs genom väggen in i den klara ateljén
in i sekunden som får leva i århundraden.
Tavlor som kallar sig ”Musiklektionen”
eller ”Kvinna i blått som läser ett brev” –
hon är i åttonde månaden, två hjärtan sparkar i henne.
På väggen bakom hänger en skrynklig karta över Terra Incognita.
 
Andas lugnt... En okänd blå materia är fastnaglad vid stolarna.
Guldnitarna flög in med oerhörd hastighet
och tvärstannade
som om de aldrig varit annat än stillhet.
 
Det susar i öronen av antingen djup eller höjd.
Det är trycket från andra sidan väggen.
Det får varje faktum att sväva
och gör penseln stadig.
 
Det gör ont att gå genom väggar, man blir sjuk av det
men det är nödvändigt.
Världen är en. Men väggar...
Och väggen är en del av dig själv –
man vet det eller vet det inte men det är så för alla
utom för små barn. För dem ingen vägg.
 
Den klara himlen har ställt sig på lut mot väggen.
Det är som en bön till det tomma.
Och det tomma vänder sitt ansikte till oss
och viskar
”Jag är inte tom, jag är öppen”.
Madrigal

Tôi được thừa kế một khu rừng tối mà tôi ít khi đến nơi đây. Nhưng sẽ đến một ngày, khi người chết sẽ thế chỗ cho người sống. Thì khi đó rừng của tôi sẽ chuyển động. Và chúng ta vẫn hãy còn hy vọng. Những tội ác nghiêm trọng nhất vẫn không được vạch trần bất chấp những nỗ lực của công an. Trong cuộc sống của mỗi chúng ta thì cũng thế, luôn có một tình yêu lớn không hề được tiết lộ. Tôi được thừa kế một khu rừng tối nhưng hiện tại tôi dạo chơi trong một khu rừng khác có ánh sáng ngập tràn. Mọi sinh linh đang vẫy vùng, run rẩy và hát lên. Đó là một mùa xuân và không khí tràn ngập mùi hương. Tôi từng tốt nghiệp trường Đại học lãng quên và đôi bàn tay của tôi trống không như chiếc áo trên chiếc dây phơi quần áo.

Madrigal

Jag ärvde en mörk skog dit jag sällan går. Men det kommer en dag när de döda och levande byter plats. Då sätter sig skogen i rörelse. Vi är inte utan hopp. De svåraste brotten förblir ouppklarade trots insats av många poliser. På samma sätt finns någonstans i våra liv en stor uoppklarad kärlek. Jag ärvde en mörk skog men idag går jag i en annan skog, den ljusa. Allt levande som sjunger slingrar viftar og kryper! Det är vår och luften är mycket stark. Jag har examen från glömskans universitet och är lika tomhänt som skjortan på tvättstrecket.

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Bosman, Julie (ngày 6 tháng 10 năm 2011). “Swedish Poet Wins Nobel Prize for Literature”. The New York Times. Truy cập ngày 6 tháng 10 năm 2011.
  2. ^ a b c “The Nobel Prize in Literature 2011 – Press Release”. Nobelprize.org. Truy cập ngày 6 tháng 10 năm 2011. Lỗi chú thích: Thẻ <ref> không hợp lệ: tên “ap nobel” được định rõ nhiều lần, mỗi lần có nội dung khác
  3. ^ Lea, Richard; Flood, Alison (ngày 6 tháng 10 năm 2011). “Nobel prize for literature goes to Tomas Tranströmer”. The Guardian. Truy cập ngày 6 tháng 10 năm 2011.
  4. ^ Johannes Vermeer hay Jan Vermeer (1632 – 1675) là họa sĩ người Hà Lan thời Baroque, nổi tiếng với các tác phẩm về đời sống hiện thực. Hiện nay Vermeer được coi là một trong những họa sĩ vĩ đại nhất trong Thế kỷ vàng của nghệ thuật Hà Lan.

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]