Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Yukawa Hideki”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n sửa lỗi chính tả using AWB
Dòng 23: Dòng 23:
Yukawa sinh tại [[Tokyo]], [[Nhật Bản]]. Năm 1929, sau khi nhận bằng tốt nghiệp trường [[Đại học Đế quốc Kyoto]], ông trở thành giảng viên đại học trong 4 năm. Sau khi tốt nghiệp, Yakawa trở nên đam mê với vật lý lý thuyết, đặc biệt là lý thuyết về [[hạt sơ cấp]]. Năm 1932, ông kết hôn với Sumi (スミ, Sumi?) và có hai người con, Harumi và Takaaki. Năm 1933, ở tuổi 26, ông trở thành phó giáo sư tại [[Đại học Osaka]].
Yukawa sinh tại [[Tokyo]], [[Nhật Bản]]. Năm 1929, sau khi nhận bằng tốt nghiệp trường [[Đại học Đế quốc Kyoto]], ông trở thành giảng viên đại học trong 4 năm. Sau khi tốt nghiệp, Yakawa trở nên đam mê với vật lý lý thuyết, đặc biệt là lý thuyết về [[hạt sơ cấp]]. Năm 1932, ông kết hôn với Sumi (スミ, Sumi?) và có hai người con, Harumi và Takaaki. Năm 1933, ở tuổi 26, ông trở thành phó giáo sư tại [[Đại học Osaka]].


Năm 1935, ông cho xuất bản lý thuyết về hạt [[meson]], trong đó giải thích về sự tương tác giữa các hạt [[proton]] và [[neutron]], đây là một phát hiện có tầm ảnh hưởng to lớn về hạt sơ cấp. Năm 1940, Yukawa trở thành giáo sư tại [[Đại học Kyoto]]. Năm 1940 ông dành [[Giải thưởng đế quốc học viện Nhật Bản]]. Năm 1943, ông nhận huân chương danh dự văn hóa của chính phủ Nhật. Năm 1949, ông trở thành giáo sư tại [[Đại học Columbia]], cùng năm đó thì ông dành được [[giải Nobel vật lý]] sau khám phá của [[Cecil Powell]] dựa trên những dự đoán về [[pion]] của Yukawa năm 1947. Yukawa cũng là người dự đoán về [[sự bắt điện tử]].
Năm 1935, ông cho xuất bản lý thuyết về hạt [[meson]], trong đó giải thích về sự tương tác giữa các hạt [[proton]] và [[neutron]], đây là một phát hiện có tầm ảnh hưởng to lớn về hạt sơ cấp. Năm 1940, Yukawa trở thành giáo sư tại [[Đại học Kyoto]]. Năm 1940 ông dành [[Giải thưởng đế quốc học viện Nhật Bản]]. Năm 1943, ông nhận huân chương danh dự văn hóa của chính phủ Nhật. Năm 1949, ông trở thành giáo sư tại [[Đại học Columbia]], cùng năm đó thì ông giành được [[giải Nobel vật lý]] sau khám phá của [[Cecil Powell]] dựa trên những dự đoán về [[pion]] của Yukawa năm 1947. Yukawa cũng là người dự đoán về [[sự bắt điện tử]].


Yakawa trở thành chủ tịch đầu tiên của [[Viện vật lý lý thuyết Yakawa]] năm 1953. Ông cũng từng nhận được bằng tiến sĩ ''[[honoris causa]]'' của [[Đại học Paris]] và ông là thành viên danh dự của [[Hội Hoàng gia Edinburgh]], [[Học viện Khoa học Ấn Độ]], [[Học viện Triết học và Khoa học quốc tế]] và [[Pontificia Academia Scientiarum]].
Yakawa trở thành chủ tịch đầu tiên của [[Viện vật lý lý thuyết Yakawa]] năm 1953. Ông cũng từng nhận được bằng tiến sĩ ''[[honoris causa]]'' của [[Đại học Paris]] và ông là thành viên danh dự của [[Hội Hoàng gia Edinburgh]], [[Học viện Khoa học Ấn Độ]], [[Học viện Triết học và Khoa học quốc tế]] và [[Pontificia Academia Scientiarum]].
Dòng 40: Dòng 40:


{{thời gian sống|1907|1981}}
{{thời gian sống|1907|1981}}

[[Thể loại:Nhà vật lý Nhật]]
[[Thể loại:Nhà vật lý Nhật]]
[[Thể loại:Người đoạt giải Nobel Vật lý]]
[[Thể loại:Người đoạt giải Nobel Vật lý]]

Phiên bản lúc 18:58, ngày 5 tháng 8 năm 2013

Yukawa Hideki
湯川 秀樹
Yukawa Hideki
Sinh(1907-01-23)23 tháng 1, 1907
Tokyo, Nhật Bản
Mất8 tháng 9, 1981(1981-09-08) (74 tuổi)
Tokyo, Nhật Bản
Quốc tịch{{{alias}}} Nhật Bản
Trường lớpĐại học Đế quốc Kyoto
Giải thưởng Giải Nobel vật lý (1949)
Sự nghiệp khoa học
NgànhVật lý lý thuyết
Nơi công tácĐại học Kyoto
Viện vật lý lý thuyết Yakawa
Đại học Columbia

Yukawa Hideki (湯川 秀樹 Yukawa Hideki?, Thang Xuyên Tú Thụ) (23 tháng 1 năm 1907 - 8 tháng 9 năm 1981) là một nhà vật lý lý thuyết người Nhật Bản và là người Nhật đầu tiên được trao giải Nobel.

Tiểu sử

Yukawa sinh tại Tokyo, Nhật Bản. Năm 1929, sau khi nhận bằng tốt nghiệp trường Đại học Đế quốc Kyoto, ông trở thành giảng viên đại học trong 4 năm. Sau khi tốt nghiệp, Yakawa trở nên đam mê với vật lý lý thuyết, đặc biệt là lý thuyết về hạt sơ cấp. Năm 1932, ông kết hôn với Sumi (スミ, Sumi?) và có hai người con, Harumi và Takaaki. Năm 1933, ở tuổi 26, ông trở thành phó giáo sư tại Đại học Osaka.

Năm 1935, ông cho xuất bản lý thuyết về hạt meson, trong đó giải thích về sự tương tác giữa các hạt protonneutron, đây là một phát hiện có tầm ảnh hưởng to lớn về hạt sơ cấp. Năm 1940, Yukawa trở thành giáo sư tại Đại học Kyoto. Năm 1940 ông dành Giải thưởng đế quốc học viện Nhật Bản. Năm 1943, ông nhận huân chương danh dự văn hóa của chính phủ Nhật. Năm 1949, ông trở thành giáo sư tại Đại học Columbia, cùng năm đó thì ông giành được giải Nobel vật lý sau khám phá của Cecil Powell dựa trên những dự đoán về pion của Yukawa năm 1947. Yukawa cũng là người dự đoán về sự bắt điện tử.

Yakawa trở thành chủ tịch đầu tiên của Viện vật lý lý thuyết Yakawa năm 1953. Ông cũng từng nhận được bằng tiến sĩ honoris causa của Đại học Paris và ông là thành viên danh dự của Hội Hoàng gia Edinburgh, Học viện Khoa học Ấn Độ, Học viện Triết học và Khoa học quốc tếPontificia Academia Scientiarum.

Ông là người biên tập cuốn Progress of Theoretical Physics và cho xuất bản các bài báo Introduction to Quantum Mechanics (1946) và Introduction to the Theory of Elementary Particles (1948).

Năm 1955, Yakawa cùng 10 nhà khoa học hàng đầu khác đã cùng nhau ký vào Bản tuyên ngôn Russell-Einstein, kêu gọi sự giải trừ vũ khí hạt nhân.

Liên kết ngoài