Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Chế độ độc tài”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 79: Dòng 79:


[[Nhà nước cộng sản]] đầu tiên đã được thành lập bởi [[Vladimir Ilyich Lenin|Vladimir Lenin]] và các [[Bolshevik]] với sự thành lập của nước [[Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Liên bang Nga|Nga Xô-viết]] trong cuộc [[Cách mạng Nga (1917)|Cách mạng Nga]] năm 1917. Chính quyền này được mô tả là một [[Chuyên chính vô sản|chế độ độc tài của giai cấp vô sản]] trong đó quyền lực được thực thi bởi [[Xô viết|các xô-viết]].{{Sfn|Lee|2016|pp=34–36}} Những Bolshevik đã củng cố quyền lực vào năm 1922, thành lập [[Liên Xô]].{{Sfn|Lee|2016|pp=48–50}} Sau Lenin là [[Iosif Vissarionovich Stalin|Joseph Stalin]] lên nắm quyền vào năm 1924; ông đã củng cố toàn bộ quyền lực và áp đặt chế độ cai trị toàn trị vào năm 1929.{{Sfn|Lee|2016|p=55}}{{Sfn|Lee|2016|pp=59–60}} Cách mạng Nga đã truyền cảm hứng cho một [[Các cuộc cách mạng 1917–1923|làn sóng các phong trào cách mạng cánh tả]] ở châu Âu từ năm 1917 đến năm 1923, nhưng không cuộc cách mạng nào đạt được mức độ thành công tương đương.<ref>{{Chú thích sách|url=https://books.google.com/books?id=pnLI8ooHHPgC|title=Neutral Europe Between War and Revolution, 1917-23|last=MacDonald|first=Stephen C.|date=1988|publisher=University of Virginia Press|isbn=978-0-8139-1153-3|editor-last=Schmitt|editor-first=Hans A.|pages=238|language=en|chapter=Crisis, War, and Revolution in Europe, 1917–23}}</ref>
[[Nhà nước cộng sản]] đầu tiên đã được thành lập bởi [[Vladimir Ilyich Lenin|Vladimir Lenin]] và các [[Bolshevik]] với sự thành lập của nước [[Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Liên bang Nga|Nga Xô-viết]] trong cuộc [[Cách mạng Nga (1917)|Cách mạng Nga]] năm 1917. Chính quyền này được mô tả là một [[Chuyên chính vô sản|chế độ độc tài của giai cấp vô sản]] trong đó quyền lực được thực thi bởi [[Xô viết|các xô-viết]].{{Sfn|Lee|2016|pp=34–36}} Những Bolshevik đã củng cố quyền lực vào năm 1922, thành lập [[Liên Xô]].{{Sfn|Lee|2016|pp=48–50}} Sau Lenin là [[Iosif Vissarionovich Stalin|Joseph Stalin]] lên nắm quyền vào năm 1924; ông đã củng cố toàn bộ quyền lực và áp đặt chế độ cai trị toàn trị vào năm 1929.{{Sfn|Lee|2016|p=55}}{{Sfn|Lee|2016|pp=59–60}} Cách mạng Nga đã truyền cảm hứng cho một [[Các cuộc cách mạng 1917–1923|làn sóng các phong trào cách mạng cánh tả]] ở châu Âu từ năm 1917 đến năm 1923, nhưng không cuộc cách mạng nào đạt được mức độ thành công tương đương.<ref>{{Chú thích sách|url=https://books.google.com/books?id=pnLI8ooHHPgC|title=Neutral Europe Between War and Revolution, 1917-23|last=MacDonald|first=Stephen C.|date=1988|publisher=University of Virginia Press|isbn=978-0-8139-1153-3|editor-last=Schmitt|editor-first=Hans A.|pages=238|language=en|chapter=Crisis, War, and Revolution in Europe, 1917–23}}</ref>

Đồng thời, các phong trào dân tộc chủ nghĩa đã phát triển khắp châu Âu. Những phong trào này là một phản ứng đáp lại những gì họ coi là [[suy đồi]] và [[sụp đổ xã hội]] do các chuẩn mực xã hội và quan hệ chủng tộc thay đổi do [[chủ nghĩa tự do]] mang lại.<ref>{{Chú thích sách|url=https://link.springer.com/book/10.1007/978-3-030-22411-0|title=Reactionary Nationalists, Fascists and Dictatorships in the Twentieth Century|last=Fuentes Codera|first=Maximiliano|publisher=Springer|year=2019|isbn=978-3-030-22411-0|editor-last=Saz|editor-first=Ismael|pages=67–68|language=en|doi=10.1007/978-3-030-22411-0|editor-last2=Box|editor-first2=Zira|editor-last3=Morant|editor-first3=Toni|editor-last4=Sanz|editor-first4=Julián}}</ref> [[Chủ nghĩa phát xít]] đã phát triển ở châu Âu như một sự bác bỏ đối với chủ nghĩa tự do, [[chủ nghĩa xã hội]], và [[chủ nghĩa hiện đại]], và các đảng chính trị phát xít đầu tiên được thành lập vào những năm 1920.<ref>{{Chú thích sách|url=https://www.taylorfrancis.com/books/mono/10.4324/9780203320761/fascist-italy-nazi-germany-alexander-de-grand|title=Fascist Italy and Nazi Germany: The 'Fascist' Style of Rule|last=De Grand|first=Alexander J.|publisher=Routledge|year=1995|isbn=9780203320761|pages=11|doi=10.4324/9780203320761}}</ref> Nhà độc tài Ý [[Benito Mussolini]] lên nắm quyền vào năm 1922, và bắt đầu thực hiện cải cách vào năm 1925 để tạo ra chế độ độc tài phát xít đầu tiên.{{Sfn|Lee|2016|pp=114–115}} Những cải cách này kết hợp chủ nghĩa toàn trị, lòng trung thành với nhà nước, [[chủ nghĩa bành trướng]], [[chủ nghĩa nghiệp đoàn]], và [[Chủ nghĩa chống cộng|chủ nghĩa chống cộng sản]].{{Sfn|Lee|2016|pp=122–124}}


==Xem thêm==
==Xem thêm==

Phiên bản lúc 06:45, ngày 17 tháng 2 năm 2023

Một chế độ độc tài (tiếng Anh: dictatorship) là một hình thức chính phủ được đặc trưng bởi một nhà lãnh đạo, hoặc một nhóm các nhà lãnh đạo, nắm giữ các quyền lực của chính phủ với rất ít hoặc không có hạn chế đối với họ. Nhà lãnh đạo của một chế độ độc tài được gọi là một nhà độc tài. Chính trị trong một chế độ độc tài được kiểm soát bởi nhà độc tài và diễn ra thông qua một nhóm tinh hoa nội bộ bao gồm các cố vấn, tướng lĩnh, và các quan chức cấp cao khác. Nhà độc tài duy trì kiểm soát bằng cách tác động và nhân nhượng với nhóm nội bộ, đồng thời trấn áp bất kỳ phe đối lập nào, có thể bao gồm các đảng chính trị đối thủ, kháng chiến vũ trang, hoặc các thành viên không trung thành của nhóm nội bộ. Các chế độ độc tài có thể được hình thành bằng một cuộc đảo chính quân sự nhằm lật đổ chính phủ trước đó bằng vũ lực hoặc bằng một cuộc tự đảo chính trong đó các nhà lãnh đạo được dân bầu kéo dài vĩnh viễn quyền cai trị của họ. Các chế độ độc tài là chuyên chế hoặc toàn trị và có thể được phân loại là chế độ độc tài quân sự, chế độ độc tài độc đảng, chế độ độc tài cá nhân, hoặc chế độ quân chủ tuyệt đối.

Thuật ngữ độc tài bắt nguồn từ việc nó được sử dụng ở Cộng hoà La Mã. Các chế độ độc tài quân sự sớm nhất đã phát triển trong thời kỳ hậu cổ điển, đặc biệt là ở Nhật Bản thời Shogun. Các chế độ độc tài hiện đại phát triển lần đầu tiên vào thế kỷ thứ 19, bao gồm chủ nghĩa Bonaparte ở châu Âu và caudillo ở châu Mỹ Latinh. Thế kỷ thứ 20 chứng kiến sự trỗi dậy của các chế độ độc tài phát xítcộng sản ở châu Âu; chủ nghĩa phát xít đã bị triệt tiêu sau Thế chiến thứ hai vào năm 1945, trong khi chủ nghĩa cộng sản lan sang các châu lục khác, duy trì sự nổi bật cho đến khi Chiến tranh Lạnh kết thúc vào năm 1991. Thế kỷ thứ 20 cũng chứng kiến sự trỗi dậy của các chế độ độc tài cá nhân ở châu Phi và các chế độ độc tài quân sự ở châu Mỹ Latinh, cả hai đều trở nên nổi bật trong những năm 1960 và 1970. Một số chế độ độc tài vẫn tồn tại trong thế kỷ 21, đặc biệt là ở châu Phi và châu Á.

Các chế độ độc tài thường tổ chức các cuộc bầu cử để thiết lập tính chính danh của mình hoặc để tạo động lực cho các thành viên của đảng cầm quyền, nhưng các cuộc bầu cử này không mang tính cạnh tranh cho phe đối lập. Sự ổn định trong một chế độ độc tài được duy trì thông qua cưỡng chếtrấn áp chính trị, bao gồm việc hạn chế tiếp cận thông tin, theo dõi phe đối lập chính trị, và các hành vi bạo lực. Các chế độ độc tài không đàn áp được phe đối lập rất dễ sụp đổ thông qua một cuộc đảo chính hoặc một cuộc cách mạng.

Từ nguyên

Trong tiếng Anh, từ "dictator" xuất phát từ tiếng Latin cổ điển dictātor, danh từ tác thể của dictāre (so sánh dictate "định đoạt", hậu tố -or chỉ người, hậu tố -ship chỉ một hệ thống), thường diễn thể của dicere "nói".[1] Trong tiếng Latin, dictator là một quan chính vụ ở Cộng hoà La Mã tạm thời với quyền lực tuyệt đối để giải quyết những khủng hoảng của quốc gia.[2] Trong tiếng Việt, từ "độc tài" là một từ Hán-Việt, kết hợp giữa độc "một" và tài "cai trị, quyết định"; so sánh "quyền tài phán".

Cấu trúc

Người đứng đầu một chế độ độc tài được gọi là một nhà độc tài. Cấu trúc quyền lực của các chế độ độc tài khác nhau, và các định nghĩa khác nhau về chế độ độc tài xem xét các yếu tố khác nhau của cấu trúc này. Các nhà khoa học chính trị như Juan José LinzSamuel P. Huntington đã xác định các thuộc tính chủ chốt quyết định cấu trúc quyền lực của một chế độ độc tài, bao gồm một nhà lãnh đạo duy nhất hoặc một nhóm nhỏ các nhà lãnh đạo, việc thực thi quyền lực với ít hạn chế, đa nguyên chính trị hạn chế, và vận động quần chúng.[3]

Nhà độc tài thực thi quyền lực rộng rãi đối với chính phủ và xã hội, nhưng cần có những cá nhân khác để nhà độc tài có thể thực hiện sự cai trị của mình. Những cá nhân này tạo thành một nhóm nội bộ, lập nên một tầng lớp tinh hoa nắm giữ một mức độ quyền lực nhất định trong chế độ độc tài và nhận được các lợi ích khác nhau để đổi lấy sự hỗ trợ của họ. Họ có thể là sĩ quan quân đội, đảng viên, hoặc bạn bè và gia đình của nhà độc tài. Giới tinh hoa cũng là những mối đe dọa chính trị chính của một nhà độc tài, vì họ có thể tận dụng sức mạnh của mình để gây ảnh hưởng hoặc lật đổ chế độ độc tài.[4] Sự hỗ trợ của nhóm nội bộ là cần thiết để mệnh lệnh của nhà độc tài được thực hiện, biến giới tinh hoa trở thành người đóng vai trò là giới hạn quyền lực của nhà độc tài. Để ban hành chính sách, một nhà độc tài phải nhượng bộ và làm thoả mãn giới tinh hoa của chế độ hoặc tìm cách thay thế họ.[5] Các thành viên trong giới tinh hoa cũng phải cạnh tranh để nắm giữ nhiều quyền lực hơn người kia, nhưng lượng quyền lực mà giới tinh hoa nắm giữ cũng phụ thuộc vào tính đoàn kết của họ. Các bè phái hoặc chia rẽ trong giới tinh hoa sẽ làm giảm khả năng thương lượng của họ với nhà độc tài, dẫn đến việc nhà độc tài có nhiều quyền lực hơn mà không bị kiềm chế.[6] Một nhóm nội bộ thống nhất có khả năng lật đổ một nhà độc tài, và nhà độc tài phải nhượng bộ nhiều hơn với nhóm nội bộ để duy trì quyền lực.[7] Điều này đặc biệt đúng khi nhóm nội bộ bao gồm các sĩ quan quân đội có đủ nguồn lực để thực hiện một cuộc đảo chính quân sự.[8]

Phe đối lập với chế độ độc tài đại diện cho tất cả các phe phái không thuộc chế độ độc tài và bất kỳ ai không ủng hộ chế độ. Đối lập có tổ chức là mối đe dọa đối với sự ổn định của một chế độ độc tài, vì nó tìm cách làm suy yếu sự ủng hộ của công chúng dành cho nhà độc tài và kêu gọi thay đổi chế độ. Một nhà độc tài có thể xử lý phe đối lập bằng cách đàn áp họ bằng vũ lực, sửa đổi luật pháp để hạn chế quyền lực của họ, hoặc nhượng bộ với họ bằng những lợi ích hạn chế.[9] Phe đối lập có thể là một nhóm bên ngoài, hoặc cũng có thể bao gồm các thành viên hiện tại và trước đó thuộc nhóm nội bộ của nhà độc tài.[10]

Chủ nghĩa toàn trị là một biến thể của chế độ độc tài được đặc trưng bởi sự hiện diện của một đảng chính trị duy nhất và, cụ thể hơn, được đặc trưng bởi một nhà lãnh đạo uy quyền áp đặt sự nổi bật về cá nhân và chính trị. Quyền lực được thực thi thông qua một sự hợp tác kiên định giữa chính phủ và một hệ tư tưởng được phát triển ở mức độ cao. Một chính phủ toàn trị "toàn quyền kiểm soát các phương tiện truyền thông đại chúng và các tổ chức kinh tế và xã hội".[11] Nhà triết học chính trị Hannah Arendt mô tả chế độ toàn trị là một hình thức độc tài mới và cực đoan, bao gồm "các cá nhân bị cô lập [và] nguyên tử hóa" trong đó ý thức hệ đóng vai trò hàng đầu trong việc xác định cách thức tổ chức toàn bộ xã hội.[12] Nhà khoa học chính trị Juan José Linz xác định một phổ các hệ thống chính trị khác nhau với các nền dân chủchế độ toàn trị là hai thái cực đối lập được xen giữa bởi các chế độ chuyên chế với một loạt các hệ thống lai được phân loại khác nhau.[13][14] Ông mô tả các chế độ toàn trị là thực hiện kiểm soát chính trị và vận động chính trị hơn là chỉ đàn áp nó.[13]

Hình thành

Benito Mussolini trong cuộc Hành quân đến Rome đã đưa ông lên làm nhà độc tài ở Ý

Chế độ độc tài được hình thành khi một nhóm cụ thể nắm quyền; những thành viên của nhóm này ảnh hưởng đến cách thức nắm quyền và cách thức mà chế độ độc tài cuối cùng sẽ được cai trị như thế nào. Nhóm này có thể là quân sự hoặc chính trị, nó có thể được tổ chức hoặc vô tổ chức, và nó có thể đại diện không cân xứng cho một nhóm người nhất định.[15] Sau khi nắm quyền, nhóm này phải xác định xem các thành viên của mình sẽ nắm giữ những vị trí nào trong chính phủ mới và chính phủ này sẽ hoạt động như thế nào, đôi khi dẫn đến những bất đồng khiến cho nhóm bị chia rẽ. Các thành viên của nhóm thường sẽ thuộc giới tinh hoa trong nhóm nội bộ của nhà độc tài khi bắt đầu chế độ độc tài mới, mặc dù nhà độc tài có thể loại bỏ họ như một cách để giành thêm quyền lực.[16]

Trừ khi họ đã tiến hành một cuộc tự đảo chính, những người giành được quyền lực thường có ít kinh nghiệm trong việc cai trị và không có một kế hoạch chính sách chi tiết từ trước.[17] Nếu nhà độc tài không lên nắm quyền thông qua một đảng chính trị, thì một đảng có thể được thành lập như một cơ chế để khen thưởng những người ủng hộ và tập trung quyền lực vào tay các đồng minh chính trị thay vì các đồng minh quân sự. Các đảng được thành lập sau khi giành quyền lực thường gần như không có ảnh hưởng gì và chỉ tồn tại để phục vụ nhà độc tài.[18]

Hầu hết các chế độ độc tài được hình thành thông qua các biện pháp quân sự hoặc thông qua một đảng chính trị. Gần một nửa các chế độ độc tài bắt đầu bằng một cuộc đảo chính quân sự, mặc dù những chế độ khác đã sinh ra do sự can thiệp của nước ngoài, các quan chức dân cử chấm dứt những cuộc bầu cử cạnh tranh, các cuộc nổi dậy tiếp quản quốc gia, các cuộc nổi dậy quần chúng của công dân, hoặc các thủ đoạn hợp pháp của giới tinh hoa chuyên quyền (autocratic) để nắm quyền trong chính phủ của họ.[19] Từ năm 1946 đến năm 2010, 42% các chế độ độc tài sinh ra từ việc lật đổ một chế độ độc tài khác, và 26% sinh ra sau khi giành được độc lập từ một chính phủ nước ngoài. Nhiều chế độ khác đã phát triển sau một thời kỳ theo chủ nghĩa quân phiệt.[20]

Phân loại

Một hệ thống phân loại các chế độ độc tài, được nhà khoa học chính trị Barbara Geddes lần đầu tiên thực hiện vào năm 1999, tập trung vào nơi mà quyền lực tồn tại. Dưới hệ thống này, có ba loại chế độ độc tài. Các chế độ độc tài quân sự được kiểm soát bởi các sĩ quan quân đội, các chế độ độc tài độc đảng được kiểm soát bởi sự lãnh đạo của một đảng chính trị, và các chế độ độc tài cá nhân được kiểm soát bởi một cá nhân duy nhất. Trong một số trường hợp, chế độ quân chủ cũng được coi là chế độ độc tài nếu quốc vương nắm giữ một lượng quyền lực chính trị đáng kể. Chế độ độc tài lai là chế độ có sự kết hợp của các phân loại này.[21]

Quân sự

Binh lính chiếm Seoul, Hàn Quốc, một phần của cuộc đảo chính ngày 16 tháng 5 đưa Tướng Park Chung-hee lên nắm quyền

Chế độ độc tài quân sự là các chế độ trong đó các sĩ quan quân đội nắm giữ quyền lực, xác định ai sẽ lãnh đạo đất nước, và chi phối chính sách.[22][23] Chúng phổ biến nhất ở các quốc gia đang phát triển ở châu Phi, châu Á, và châu Mỹ Latinh. Chúng thường không ổn định, và thời hạn trung bình của một chế độ độc tài quân sự chỉ là năm năm, nhưng chúng thường được theo sau bởi các cuộc đảo chính quân sự và các chế độ độc tài quân sự khác. Dù phổ biến trong thế kỷ thứ 20, sự nổi bật của các chế độ độc tài quân sự đã suy giảm trong những năm 1970 và 1980.[24]

Chế độ độc tài quân sự thường được hình thành sau một cuộc đảo chính quân sự, trong đó các sĩ quan cao cấp sử dụng quân đội để lật đổ chính phủ. Ở các nền dân chủ, mối đe dọa đảo chính quân sự có liên quan đến giai đoạn ngay sau khi nền dân chủ được thành lập nhưng trước khi các cải cách quân sự quy mô lớn được thực thi. Ở chế độ đầu sỏ chính trị, nguy cơ của một cuộc đảo chính quân sự xuất phát từ sức mạnh của quân đội so với những nhượng bộ dành cho quân đội. Các yếu tố khác liên quan đến các cuộc đảo chính quân sự bao gồm tài nguyên thiên nhiên phong phú, hạn chế sử dụng quân đội trên phạm vi quốc tế, và sử dụng quân đội như một lực lượng áp bức trong nước.[25] Các cuộc đảo chính quân sự không nhất thiết dẫn đến các chế độ độc tài quân sự, vì quyền lực sau đó có thể được chuyển giao cho một cá nhân, hoặc quân đội có thể cho phép các cuộc bầu cử dân chủ diễn ra.[26]

Các chế độ độc tài quân sự thường có những đặc điểm chung do cùng đứng đầu là các nhà độc tài quân sự. Những nhà độc tài này có thể tự coi mình là không thiên vị trong việc giám sát một quốc gia do tư cách phi đảng phái của họ, và họ có thể coi mình là "những người bảo vệ đất nước". Việc vũ lực bạo lực thường xuất hiện trong huấn luyện quân sự biểu lộ ở việc chấp nhận bạo lực như một công cụ chính trị và khả năng tổ chức bạo lực trên quy mô lớn. Các nhà độc tài quân sự cũng có thể ít tin tưởng hoặc ít ngoại giao hơn và đánh giá thấp việc sử dụng thương lượng và thỏa hiệp trong chính trị.[27]

Độc đảng

Một cuộc họp tại Cung điện Quốc hội Kremlin ở Moscow, Liên Xô

Các chế độ độc tài độc đảng là những chính phủ trong đó một đảng chính trị duy nhất chi phối chính trị. Các chế độ độc tài độc đảng là các quốc gia độc đảng trong đó chỉ có đảng cầm quyền là hợp pháp và tất cả các đảng đối lập đều bị cấm. Các chế độ độc tài do một đảng chiếm ưu thế hoặc chế độ độc tài chuyên chế bầu cử là các chế độ độc tài độc đảng trong đó các đảng đối lập trên danh nghĩa là hợp pháp nhưng không thể tác động đến chính phủ một cách có ý nghĩa. Các chế độ độc tài độc đảng là phổ biến nhất trong Chiến tranh Lạnh, với các chế độ độc tài do một đảng chiếm ưu thế trở nên phổ biến hơn sau khi Liên Xô sụp đổ.[28] Các đảng cầm quyền trong chế độ độc tài độc đảng khác với các đảng chính trị được thành lập để phục vụ một nhà độc tài ở chỗ đảng cầm quyền trong chế độ độc tài độc đảng thâm nhập vào mọi tầng lớp xã hội.[29]

Các chế độ độc tài độc đảng ổn định hơn các hình thức cai trị độc đoán khác, vì chúng ít bị đe doạ bằng những cuộc nổi dậy hơn và có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn. Các đảng cầm quyền cho phép một chế độ độc tài tác động rộng rãi hơn đến dân chúng và tạo điều kiện thuận lợi cho sự đồng thuận chính trị giữa giới tinh hoa trong đảng. Từ năm 1950 đến năm 2016, các chế độ độc tài độc đảng chiếm 57% các chế độ độc tài trên thế giới,[30] và các chế độ độc tài độc đảng tiếp tục lan rộng nhanh hơn các hình thức độc tài khác trong nửa sau của thế kỷ thứ 20.[31] Do cơ cấu lãnh đạo của chúng, các chế độ độc tài độc đảng ít có nguy cơ phải đối mặt với xung đột dân sự, nổi dậy, hoặc khủng bố hơn các hình thức độc tài khác.[32][33] Việc sử dụng các đảng cầm quyền cũng mang lại nhiều tính chính danh hơn cho giới lãnh đạo và giới tinh hoa của nó so với các hình thức độc tài khác,[34] và tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển giao quyền lực một cách ôn hoà vào cuối thời kỳ cai trị của một nhà độc tài.[35]

Các chế độ độc tài độc đảng trở nên nổi bật ở châu Á và Đông Âu trong Chiến tranh Lạnh, khi mà các chính phủ cộng sản được thành lập ở một số quốc gia.[29] Chế độ độc đảng cũng phát triển ở một số quốc gia ở châu Phi trong quá trình phi thực dân hóa vào những năm 1960 và 1970, một số quá trình trong số đó đã tạo ra các chế độ chuyên chế.[36] Một đảng cầm quyền trong chế độ độc tài độc đảng có thể cai trị theo bất kỳ hệ tư tưởng nào hoặc có thể không có hệ tư tưởng nào định hướng. Các quốc gia độc đảng theo chủ nghĩa Marx đôi khi được phân biệt với các quốc gia độc đảng khác, nhưng chúng hoạt động giống như nhau.[37] Khi các chế độ độc tài độc đảng phát triển dần dần thông qua những cách thức hợp pháp, thì có thể dẫn đến xung đột giữa tổ chức đảng với bộ máy nhà nước và nền công vụ, khi đảng vừa cai trị và ngày càng bổ nhiệm các thành viên của mình vào các vị trí quyền lực. Các đảng nắm quyền thông qua bạo lực thường có thể thực hiện những thay đổi lớn hơn trong một khoảng thời gian ngắn hơn.[38]

Cá nhân

Người dân Bắc Triều Tiên cúi đầu trước tượng của hai nhà lãnh đạo Kim Nhật ThànhKim Jong-il năm 2012.

Các chế độ độc tài cá nhân là chế độ trong đó tất cả quyền lực nằm trong tay của một cá nhân duy nhất. Chúng khác với các hình thức độc tài khác ở chỗ nhà độc tài có khả năng tiếp cận nhiều hơn với các vị trí chính trị quan trọng và ngân khố của chính phủ, và chúng thường tuân theo quyết định của nhà độc tài hơn. Các nhà độc tài cá nhân có thể là thành viên của quân đội hoặc nhà lãnh đạo của một đảng chính trị, nhưng cả quân đội và đảng đều không thực thi quyền lực mà không có nhà độc tài. Trong các chế độ độc tài cá nhân, giới tinh hoa thường bao gồm những người bạn thân hoặc thành viên gia đình của nhà độc tài; họ thường tự chọn những cá nhân này để làm việc trong các chức vụ của họ.[39][40] Các chế độ độc tài này thường xuất hiện hoặc từ việc tranh giành quyền lực được tổ chức lỏng lẻo, tạo cơ hội cho nhà lãnh đạo củng cố quyền lực, hoặc từ các nhà lãnh đạo được bầu cử dân chủ ở các quốc gia có những thiết chế yếu kém, tạo cơ hội cho nhà lãnh đạo thay đổi hiến pháp. Các chế độ độc tài cá nhân phổ biến hơn ở châu Phi cận Sahara do có ít các thiết chế được thành lập hơn trong khu vực.[41]

Các nhà độc tài cá nhân thường ưa chuộng lòng trung thành hơn là năng lực trong chính phủ của họ và thường không tin tưởng giới trí thức. Giới tinh hoa trong các chế độ độc tài cá nhân thường không có sự nghiệp chính trị chuyên nghiệp và không đủ tiêu chuẩn cho các chức vụ mà họ được giao. Một nhà độc tài cá nhân sẽ quản lý những người được bổ nhiệm này bằng cách chia rẽ chính phủ để họ không thể cộng tác. Kết quả là các chế độ như vậy không có giới hạn và cân bằng nội bộ, và do đó không bị kiềm chế khi tiến hành trấn áp người dân của họ, thực hiện những thay đổi cực đoan trong chính sách đối ngoại, hoặc phát động chiến tranh với các quốc gia khác.[42] Do thiếu trách nhiệm giải trình và nhóm tinh hoa nhỏ hơn, các chế độ độc tài cá nhân dễ xuất hiện tham nhũng hơn các hình thức độc tài khác,[43] và chúng mang tính đàn áp hơn các hình thức độc tài khác.[44] Các chế độ độc tài cá nhân thường sụp đổ với cái chết của nhà độc tài. Chúng có nhiều khả năng kết thúc bằng bạo lực và ít có khả năng dân chủ hoá hơn các hình thức độc tài khác.[45]

Thay đổi trong sự tương quan quyền lực giữa nhà độc tài và nhóm nội bộ của họ gây ra những hệ quả nghiêm trọng đối với tính chất của những chế độ như vậy nói chung. Các chế độ độc tài cá nhân khác với các chế độ khác về thời gian tồn tại, cách thức sụp đổ, mức độ tham nhũng, và xu hướng xung đột. Tính trung bình, chúng tồn tại lâu gấp đôi các chế độ độc tài quân sự, nhưng không lâu bằng các chế độ độc tài độc đảng.[46] Các chế độ độc tài cá nhân cũng phát triển theo một cách riêng, vì chúng thường thiếu các thiết chế hoặc lãnh đạo có tài để duy trì nền kinh tế.[47]

Quân chủ

Quốc vương Ibn Saud của Ả Rập Xê Út cùng hai người con trai.

Một chế độ quân chủ tuyệt đối là một chế độ quân chủ trong đó quốc vương cai trị mà không có giới hạn pháp lý. Điều này làm cho nó khác với chế độ quân chủ lập hiếnchế độ quân chủ chiếu lệ.[48] Trong chế độ quân chủ tuyệt đối, quyền lực chỉ giới hạn trong tay gia đình hoàng gia, và tính chính danh được thành lập dựa trên các yếu tố lịch sử. Chế độ quân chủ có thể là chế độ triều đại, trong đó gia đình hoàng gia đóng vai trò là một thiết chế cai trị tương tự như một đảng chính trị ở một quốc gia độc đảng, hoặc chúng có thể là phi triều đại, trong đó quốc vương cai trị độc lập với gia đình hoàng gia với tư cách là một nhà độc tài cá nhân.[49] Các chế độ quân chủ cho phép áp dụng các quy tắc kế vị chặt chẽ nhằm tạo ra sự chuyển giao quyền lực một cách ôn hoà khi quốc vương chết, nhưng điều này cũng có thể dẫn đến tranh chấp về kế vị nếu nhiều thành viên hoàng gia đòi quyền kế vị.[50] Trong kỷ nguyên hiện đại, chế độ quân chủ chuyên chế phổ biến nhất ở Trung Đông.[51]

Lịch sử

Các chế độ độc tài thuở đầu

Nhà độc tài quân sự Antonio López de Santa Anna mặc quân phục Mexico.[52]

Chế độ độc tài có lịch sử gắn liền với khái niệm bạo chúa của người Hy Lạp cổ đại, và một số nhà lãnh đạo Hy Lạp cổ đại đã được mô tả là "bạo chúa" tương đương với các nhà độc tài hiện đại.[53][54] Khái niệm "nhà độc tài" lần đầu tiên được phát triển trong thời Cộng hoà La Mã. Một nhà độc tài La Mã là một quan chính vụ đặc biệt được quan chấp chính bổ nhiệm tạm thời trong thời kỳ khủng hoảng và được trao toàn bộ quyền hành pháp. Vai trò của nhà độc tài được tạo ra trong những trường hợp khi cần một nhà lãnh đạo duy nhất để chỉ huy và khôi phục sự ổn định.[55] Ít nhất 85 nhà độc tài như vậy đã được chọn trong suốt thời kỳ Cộng hoà La Mã, người cuối cùng đã được chọn để phát động Chiến tranh Punic lần thứ hai. Chế độ độc tài đã được hồi sinh 120 năm sau bởi Sulla sau khi ông đàn áp một phong trào dân túy, và 33 năm sau đó bởi Julius Caesar.[55] Caesar đã lật đổ truyền thống là các chế độ độc tài chỉ tồn tại tạm thời khi ông được phong làm dictator perpetuo, tức nhà độc tài suốt đời, dẫn đến việc thành lập Đế quốc La Mã.[56] Sự cai trị của một nhà độc tài không nhất thiết được coi là chế độ bạo chúa ở La Mã cổ đại, tuy nó đã được một số người mô tả là "chế độ bạo chúa tạm thời" hoặc "chế độ bạo chúa bầu cử".[53]

Châu Á chứng kiến một số chế độ độc tài quân sự trong thời kỳ hậu cổ điển. Hàn Quốc đã trải qua các chế độ độc tài quân sự dưới sự cai trị của Uyên Cái Tô Văn vào thế kỷ thứ 7,[57] và dưới sự cai trị của chế độ độc tài quân sự Cao Ly trong thế kỷ thứ 12 và 13.[58] Các shogun là những nhà độc tài quân sự de facto ở Nhật Bản bắt đầu từ năm 1185 và tiếp tục như vậy trong hơn sáu trăm năm.[59] Trong triều đại nhà Hậu Lê của Việt Nam từ thế kỷ thứ 16 đến thế kỷ thứ 18, quốc gia này nằm dưới sự cai trị quân sự de facto của hai gia đình quân sự đối địch nhau: chúa Trịnh ở phía bắc và chúa Nguyễn ở phía nam.[60] Ở châu Âu, Khối thịnh vượng chung Anh dưới thời Oliver Cromwell, được thành lập vào năm 1649 sau Nội chiến Anh lần thứ hai, đã được các đối thủ đương thời và một số học giả hiện đại mô tả là một chế độ độc tài quân sự.[61][62][63] Maximilien Robespierre cũng tương tự được mô tả như một nhà độc tài khi ông kểm soát Công hội Quốc dân (Convention nationale) ở Pháp và tiến hành Triều đại Khủng bố vào năm 1793 và 1794.[63][64][65]

Chế độ độc tài đã phát triển trở thành một hình thức chính phủ chính trong thế kỷ thứ 19, mặc dù khái niệm này không được rộng rãi coi là tiêu cực vào thời điểm đó; người ta hiểu rằng cả ý nghĩa bạo chúa và ý nghĩa lập hiến của chế độ độc tài là có tồn tại.[66] Ở châu Âu, người ta thường nghĩ về chủ nghĩa Bonapartechủ nghĩa Caesar, với chủ nghĩa thứ nhất mô tả chế độ độc tài quân sự của Napoléon và chủ nghĩa thứ hai mô tả chế độ đế quốc của Napoléon III giống như Julius Caesar.[67] Các cuộc chiến tranh giành độc lập của người Mỹ gốc Tây Ban Nha đã diễn ra vào đầu thế kỷ thứ 19, tạo ra nhiều chính phủ Mỹ Latinh mới. Nhiều chính phủ trong số này nằm dưới sự kiểm soát của các caudillo, tức những nhà độc tài cá nhân. Hầu hết các caudillo đều xuất thân từ quân đội, và sự cai trị của họ thường gắn liền với các nghi lễ lộng lẫy và hào nhoáng. Các caudillo thường bị ràng buộc bởi hiến pháp, nhưng chỉ trên danh nghĩa, và caudillo có quyền soạn thảo một hiến pháp mới theo ý muốn của mình. Nhiều caudillo đã được ghi nhớ vì sự tàn ác của họ, trong khi những người khác được vinh danh là anh hùng dân tộc.[68]

Chế độ độc tài giữa hai cuộc chiến và trong Thế Chiến II

Châu Âu

Các cuộc tuần hành ở Nuremberg tôn vinh chủ nghĩa phát xít và sự cai trị của Adolf HitlerĐức Quốc xã.[69]

Trong khoảng thời gian giữa Thế Chiến IThế Chiến II, một số chế độ độc tài đã được thiết lập ở châu Âu thông qua các cuộc đảo chính được thực hiện bởi các phong trào cực tảcực hữu.[70] Hậu quả của Chiến tranh thế giới thứ nhất đã dẫn đến một sự thay đổi lớn trong nền chính trị châu Âu, thành lập các chính phủ mới, tạo điều kiện thay đổi nội bộ trong các chính phủ cũ, và vẽ lại ranh giới giữa các quốc gia, tạo cơ hội cho các phong trào này nắm quyền.[71] Biến động xã hội do Thế Chiến I gây ra và nền hòa bình không ổn định mà nó tạo ra đã càng góp phần tạo nên sự bất ổn có lợi cho các phong trào cực đoan và củng cố sự ủng hộ cho mục tiêu của những phong trào này. Các chế độ độc tài cực tả và cực hữu đã sử dụng những phương pháp giống nhau để duy trì quyền lực, bao gồm sùng bái cá nhân, trại tập trung, lao động cưỡng bức, giết người hàng loạt, và diệt chủng.[72]

Nhà nước cộng sản đầu tiên đã được thành lập bởi Vladimir Lenin và các Bolshevik với sự thành lập của nước Nga Xô-viết trong cuộc Cách mạng Nga năm 1917. Chính quyền này được mô tả là một chế độ độc tài của giai cấp vô sản trong đó quyền lực được thực thi bởi các xô-viết.[73] Những Bolshevik đã củng cố quyền lực vào năm 1922, thành lập Liên Xô.[74] Sau Lenin là Joseph Stalin lên nắm quyền vào năm 1924; ông đã củng cố toàn bộ quyền lực và áp đặt chế độ cai trị toàn trị vào năm 1929.[75][76] Cách mạng Nga đã truyền cảm hứng cho một làn sóng các phong trào cách mạng cánh tả ở châu Âu từ năm 1917 đến năm 1923, nhưng không cuộc cách mạng nào đạt được mức độ thành công tương đương.[77]

Đồng thời, các phong trào dân tộc chủ nghĩa đã phát triển khắp châu Âu. Những phong trào này là một phản ứng đáp lại những gì họ coi là suy đồisụp đổ xã hội do các chuẩn mực xã hội và quan hệ chủng tộc thay đổi do chủ nghĩa tự do mang lại.[78] Chủ nghĩa phát xít đã phát triển ở châu Âu như một sự bác bỏ đối với chủ nghĩa tự do, chủ nghĩa xã hội, và chủ nghĩa hiện đại, và các đảng chính trị phát xít đầu tiên được thành lập vào những năm 1920.[79] Nhà độc tài Ý Benito Mussolini lên nắm quyền vào năm 1922, và bắt đầu thực hiện cải cách vào năm 1925 để tạo ra chế độ độc tài phát xít đầu tiên.[80] Những cải cách này kết hợp chủ nghĩa toàn trị, lòng trung thành với nhà nước, chủ nghĩa bành trướng, chủ nghĩa nghiệp đoàn, và chủ nghĩa chống cộng sản.[81]

Xem thêm

Tham khảo

  1. ^ “Oxford English Dictionary, (the definitive record of the English language)”.
  2. ^ Britannica, Các biên tập viên của Encyclopaedia. “Dictatorship | Definition, Characteristics, Countries, & Facts | Britannica”. www.britannica.com (bằng tiếng Anh). Encyclopaedia Britannica. Truy cập ngày 10 tháng 2 năm 2023. The term dictatorship comes from the Latin title dictator, which in the Roman Republic designated a temporary magistrate who was granted extraordinary powers in order to deal with state crises. [Thuật ngữ chế độ độc tài bắt nguồn từ danh hiệu dictator trong tiếng Latin, trong nền Cộng hoà La mã có nghĩa là một thẩm phán tạm thời được ban những quyền lực lớn bất thường để giải quyết những khủng hoảng của nhà nước.]
  3. ^ Ezrow & Frantz 2011, tr. 2.
  4. ^ Ezrow & Frantz 2011, tr. 82–83.
  5. ^ Ezrow & Frantz 2011, tr. 113–117.
  6. ^ Geddes, Wright & Frantz 2018, tr. 65–66.
  7. ^ Geddes, Wright & Frantz 2018, tr. 76–79.
  8. ^ Geddes, Wright & Frantz 2018, tr. 97–99.
  9. ^ Ezrow & Frantz 2011, tr. 56–57.
  10. ^ Geddes, Wright & Frantz 2018, tr. 178.
  11. ^ McLaughlin, Neil (2010). “Review: Totalitarianism, Social Science, and the Margins”. The Canadian Journal of Sociology. 35 (3): 463–69. doi:10.29173/cjs8876. JSTOR canajsocicahican.35.3.463.
  12. ^ Ezrow & Frantz 2011, tr. 3.
  13. ^ a b Juan José Linz (2000). Totalitarian and Authoritarian Regimes. Lynne Rienner Publisher. tr. 143. ISBN 978-1-55587-890-0. OCLC 1172052725.
  14. ^ Jonathan Michie biên tập (3 tháng 2 năm 2014). Reader's Guide to the Social Sciences. Routledge. tr. 95. ISBN 978-1-135-93226-8.
  15. ^ Geddes, Wright & Frantz 2018, tr. 3–5.
  16. ^ Geddes, Wright & Frantz 2018, tr. 11–12.
  17. ^ Geddes, Wright & Frantz 2018, tr. 37.
  18. ^ Geddes, Wright & Frantz 2018, tr. 115–116.
  19. ^ Geddes, Wright & Frantz 2018, tr. 27.
  20. ^ Geddes, Wright & Frantz 2018, tr. 26.
  21. ^ Ezrow & Frantz 2011, tr. 20–22.
  22. ^ Ezrow & Frantz 2011, tr. 20.
  23. ^ Friedrich, Carl (1950). “Military Government and Dictatorship”. The Annals of the American Academy of Political and Social Science. 267: 1–7. doi:10.1177/000271625026700102. OCLC 5723774494.
  24. ^ Danopoulos, Constantine P. (2019). “Military Dictatorships in Retreat: Problems and Perspectives”. Trong Danopoulos, Constantine P. (biên tập). The Decline of Military Regimes: The Civilian Influence. Routledge. tr. 1–24. ISBN 9780367291174.
  25. ^ Acemoglu, Daron; Ticchi, Davide; Vindigni, Andrea (2010). “A Theory of Military Dictatorships”. American Economic Journal: Macroeconomics (bằng tiếng Anh). 2 (1): 1–42. doi:10.1257/mac.2.1.1. ISSN 1945-7707.
  26. ^ Ezrow & Frantz 2011, tr. 34–38.
  27. ^ Kim, Nam Kyu (2021). “Illiberalism of Military Regimes”. Trong Sajó, András; Uitz, Renáta; Holmes, Stephen (biên tập). Routledge Handbook of Illiberalism. Routledge. tr. 571–581. ISBN 9780367260569.
  28. ^ Magaloni, Beatriz; Kricheli, Ruth (2010). “Political Order and One-Party Rule”. Annual Review of Political Science. 13: 123–143. doi:10.1146/annurev.polisci.031908.220529.
  29. ^ a b Ezrow & Frantz 2011, tr. 39–42.
  30. ^ Magaloni, Beatriz; Kricheli, Ruth (2010). “Political Order and One-Party Rule”. Annual Review of Political Science. 13: 123–143. doi:10.1146/annurev.polisci.031908.220529.
  31. ^ Magaloni, Beatriz; Kricheli, Ruth (1 tháng 5 năm 2010). “Political Order and One-Party Rule”. Annual Review of Political Science (bằng tiếng Anh). 13 (1): 123–143. doi:10.1146/annurev.polisci.031908.220529. ISSN 1094-2939.
  32. ^ Fjelde, Hanne (2010). “Generals, Dictators, and Kings: Authoritarian Regimes and Civil Conflict, 1973—2004”. Conflict Management and Peace Science (bằng tiếng Anh). 27 (3): 195–218. doi:10.1177/0738894210366507. ISSN 0738-8942.
  33. ^ Aksoy, Deniz; Carter, David B.; Wright, Joseph (1 tháng 7 năm 2012). “Terrorism In Dictatorships”. The Journal of Politics. 74 (3): 810–826. doi:10.1017/S0022381612000400. ISSN 0022-3816.
  34. ^ Pinto, António Costa (2002). “Elites, Single Parties and Political Decision-making in Fascist-era Dictatorships”. Contemporary European History (bằng tiếng Anh). 11 (3): 429–454. doi:10.1017/S0960777302003053. ISSN 1469-2171.
  35. ^ Ezrow & Frantz 2011, tr. 200.
  36. ^ Darkwa, Samuel Kofi (2022). “One-Party Rule and Military Dictatorship in Africa”. Trong Kumah-Abiwu, Felix; Abidde, Sabella Ogbobode (biên tập). Jerry John Rawlings: Leadership and Legacy: A Pan-African Perspective (bằng tiếng Anh). Cham: Springer International Publishing. tr. 37–38. doi:10.1007/978-3-031-14667-1. ISBN 978-3-031-14666-4.
  37. ^ Lidén, Gustav (2014). “Theories of dictatorships: sub-types and explanations”. Studies of Transition States and Societies (bằng tiếng Anh). 6 (1): 50–67. ISSN 1736-8758.
  38. ^ Pinto, António Costa (2002). “Elites, Single Parties and Political Decision-making in Fascist-era Dictatorships”. Contemporary European History (bằng tiếng Anh). 11 (3): 429–454. doi:10.1017/S0960777302003053. ISSN 1469-2171.
  39. ^ Ezrow & Frantz 2011, tr. 215–216.
  40. ^ Peceny, Mark (2003). “Peaceful Parties and Puzzling Personalists”. The American Political Science Review. 97 (2): 339–42. doi:10.1017/s0003055403000716. OCLC 208155326.
  41. ^ Ezrow & Frantz 2011, tr. 42–45.
  42. ^ Van den Bosch, Jeroen J. J. (19 tháng 4 năm 2021). Personalist Rule in Africa and Other World Regions (bằng tiếng Anh). Routledge. tr. 10–11. ISBN 978-1-000-37707-1.
  43. ^ Ezrow & Frantz 2011, tr. 134–135.
  44. ^ Frantz, Erica; Kendall-Taylor, Andrea; Wright, Joseph; Xu, Xu (27 tháng 8 năm 2019). “Personalization of Power and Repression in Dictatorships”. The Journal of Politics. 82: 372–377. doi:10.1086/706049. ISSN 0022-3816.
  45. ^ Ezrow & Frantz 2011, tr. 61–67.
  46. ^ Geddes, Barbara (2004). Authoritarian Breakdown: Empirical Test of a Game Theoretic Argument (Bản báo cáo). tr. 18–19.
  47. ^ Van den Bosch, Jeroen J. J., Personalist Rule in Africa and Other World Regions, (London-New York: Routledge, 2021): 13-16
  48. ^ Ezrow & Frantz 2011, tr. 240–241.
  49. ^ Ezrow & Frantz 2011, tr. 259.
  50. ^ Ezrow & Frantz 2011, tr. 254.
  51. ^ Ezrow & Frantz 2011, tr. 46–48.
  52. ^ Fowler, Will (2 tháng 4 năm 2015). “Santa Anna and His Legacy”. Oxford Research Encyclopedia of Latin American History (bằng tiếng Anh). doi:10.1093/acrefore/9780199366439.013.18. ISBN 978-0-19-936643-9. Truy cập ngày 26 tháng 7 năm 2022.
  53. ^ a b Kalyvas, Andreas (2007). “The Tyranny of Dictatorship: When the Greek Tyrant Met the Roman Dictator”. Political Theory (bằng tiếng Anh). 35 (4): 412–442. doi:10.1177/0090591707302208. ISSN 0090-5917.
  54. ^ Papanikos, Gregory Τ. (2022). “The Five Ancient Criteria of Democracy: The Apotheosis of Equality”. Athens Journal of Humanities & Arts. 9 (2): 105–120. doi:10.30958/ajha.9-2-1.
  55. ^ a b Wilson, Mark (2021). Dictator: The Evolution of the Roman Dictatorship. University of Michigan Press. tr. 3–4. ISBN 9780472129201.
  56. ^ Zeev, Miriam Pucci Ben (1996). “When was the title «Dictator perpetuus» given to Caesar ?”. L'Antiquité Classique. 65: 251–253. doi:10.3406/antiq.1996.1259. ISSN 0770-2817. JSTOR 41658953.
  57. ^ Lee, Ki-Baik (1984). A New History of Korea (bằng tiếng Anh). Wagner, Edward W.; Shultz, Edward J. biên dịch. Cambridge, Massachusetts: Harvard University Press. tr. 48. ISBN 9780674615762.
  58. ^ Lee, Ki-Baik (1984). “Rule by the Military”. A New History of Korea (bằng tiếng Anh). Wagner, Edward W.; Shultz, Edward J. biên dịch. Cambridge, Massachusetts: Harvard University Press. tr. 139–154. ISBN 9780674615762.
  59. ^ Shinoda, Minoru (2 tháng 3 năm 1960). The Founding of the Kamakura Shogunate 1180–1185. With Selected Translations from the Azuma Kagami (bằng tiếng Anh). Columbia University Press. tr. 3–4. doi:10.7312/shin93498. ISBN 978-0-231-89400-5.
  60. ^ McLeod, Mark W.; Nguyen, Thi Dieu (2001). Culture and Customs of Vietnam (bằng tiếng Anh). Greenwood Publishing Group. tr. 18. ISBN 978-0-313-30485-9.
  61. ^ Woolrych, Austin (1990). “The Cromwellian Protectorate: A Military Dictatorship?”. History. 75 (244): 207–231. doi:10.1111/j.1468-229X.1990.tb01515.x. ISSN 0018-2648. JSTOR 24420972.
  62. ^ Goodlad, Graham (2007). Oliver Cromwell. tr. 22. ISBN 9786612040436. It would forever attach the label–however unjustified–of 'military dictator' to Cromwell's reputation.
  63. ^ a b Bychowski, Gustav; Bychowski, Gustaw (1943). “Dictators and Their Followers: A Theory of Dictatorship”. Bulletin of the Polish Institute of Arts and Sciences in America. 1 (3): 455–457. ISSN 0376-2327. JSTOR 24725069.
  64. ^ Marik, Soma (20 tháng 4 năm 2009), Ness, Immanuel (biên tập), “Robespierre, Maximilien de (1758-1794)”, The International Encyclopedia of Revolution and Protest (bằng tiếng Anh), Oxford, UK: John Wiley & Sons, Ltd, tr. 1–5, doi:10.1002/9781405198073.wbierp1264, ISBN 978-1-4051-9807-3, truy cập ngày 26 tháng 7 năm 2022
  65. ^ Kim, Minchul (3 tháng 10 năm 2015). “The many Robespierres from 1794 to the present”. History of European Ideas. 41 (7): 992–996. doi:10.1080/01916599.2015.1029729. ISSN 0191-6599.
  66. ^ Prieto, Moisés (2021). “Introduction”. Dictatorship in the Nineteenth Century: Conceptualisations, Experiences, Transfers (ấn bản 1). Routledge. doi:10.4324/9781003024927. ISBN 9780367457174.
  67. ^ Richter, Melvin (2005). “A Family of Political Concepts: Tyranny, Despotism, Bonapartism, Caesarism, Dictatorship, 1750-1917”. European Journal of Political Theory (bằng tiếng Anh). 4 (3): 221–248. doi:10.1177/1474885105052703. ISSN 1474-8851.
  68. ^ Chapman, Charles E. (1932). “The Age of the Caudillos: A Chapter in Hispanic American History”. The Hispanic American Historical Review. 12 (3): 281–300. doi:10.2307/2506672. ISSN 0018-2168. JSTOR 2506672.
  69. ^ Orlow, Dietrich (2009), “Europe Will be a Fascist Europe: July 1934–May 1936”, The Lure of Fascism in Western Europe: German Nazis, Dutch and French Fascists, 1933–1939 (bằng tiếng Anh), Palgrave Macmillan US, tr. 62, doi:10.1057/9780230617926_4, ISBN 978-0-230-61792-6, truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2022
  70. ^ Lee 2016, tr. 1.
  71. ^ Lee 2016, tr. 5.
  72. ^ Besier, Gerhard; Stokłosa, Katarzyna (3 tháng 1 năm 2014). European Dictatorships: A Comparative History of the Twentieth Century (bằng tiếng Anh). Cambridge Scholars Publishing. tr. 1–4. ISBN 978-1-4438-5521-1.
  73. ^ Lee 2016, tr. 34–36.
  74. ^ Lee 2016, tr. 48–50.
  75. ^ Lee 2016, tr. 55.
  76. ^ Lee 2016, tr. 59–60.
  77. ^ MacDonald, Stephen C. (1988). “Crisis, War, and Revolution in Europe, 1917–23”. Trong Schmitt, Hans A. (biên tập). Neutral Europe Between War and Revolution, 1917-23 (bằng tiếng Anh). University of Virginia Press. tr. 238. ISBN 978-0-8139-1153-3.
  78. ^ Fuentes Codera, Maximiliano (2019). Saz, Ismael; Box, Zira; Morant, Toni; Sanz, Julián (biên tập). Reactionary Nationalists, Fascists and Dictatorships in the Twentieth Century (bằng tiếng Anh). Springer. tr. 67–68. doi:10.1007/978-3-030-22411-0. ISBN 978-3-030-22411-0.
  79. ^ De Grand, Alexander J. (1995). Fascist Italy and Nazi Germany: The 'Fascist' Style of Rule. Routledge. tr. 11. doi:10.4324/9780203320761. ISBN 9780203320761.
  80. ^ Lee 2016, tr. 114–115.
  81. ^ Lee 2016, tr. 122–124.

Thư mục

Đọc thêm

Liên kết ngoài