Môi trường và xu hướng tính dục

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Yếu tố môi trường ảnh hưởng đến quá trình hình thành thiên hướng tình dục đã được nghiên cứu. Tuy nhiên, không có nguyên nhân đơn lẻ nào trong quá trình hình thành thiên hướng tình dục từng được chứng minh. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng cả hai yếu tố sinh học và yếu tố môi trường đều có những ảnh hưởng phức tạp đối với việc hình thành đồng tính, song tính.[1][2] Viện Nhi khoa Hoa KỳHiệp hội Tâm lý Hoa Kỳ đều khẳng định rằng có nhiều nguyên nhân hình thành nên thiên hướng tình dục.[3][4] Vài nhà khoa học xếp yếu tố hoócmôn bào thai là một dạng yếu tố môi trường.[3][5][6]

Định hướng tính dục bên cạnh bản sắc định hướng tính dục của bản thân[sửa | sửa mã nguồn]

Trung tâm cai nghiện và sức khỏe tâm thần Mỹ cho rằng, "Đối với một số người, khuynh hướng tình dục là liên tục và cố định trong suốt cuộc đời của họ. Đối với những người khác, khuynh hướng tình dục có thể mềm dẻo và thay đổi theo thời gian."[7] Tuy vậy Hiệp hội Tâm lý học Hoa Kỳ, lại cho rằng "Tìm kiếm định hướng tình dục của bản thân - chứ không phải định hướng tính dục - thường xuyên thay đổi thông qua liệu pháp tâm lý, các nhóm hỗ trợ, và các sự kiện trong cuộc sống".[8] Thông thường, xu hướng tình dục và bản sắc khuynh hướng tình dục là không phân biệt, điều này có thể tác động đến việc đánh giá chính xác khuynh hướng tình dục và định hướng tình dục có thể thay đổi hay không; định hướng tình dục có thể thay đổi trong suốt cuộc đời của một cá nhân, và có thể hoặc có thể không phù hợp với giới tính sinh học, hành vi tình dục hoặc khuynh hướng tình dục thực sự.[9][10][11] Học giả Lisa Diamond, khi xem xét nghiên cứu về xác định tình dục đồng tính nữ và lưỡng tính, nói rằng nghiên cứu cho thấy "thay đổi và tính mềm dẻo trong tình dục đồng giới mâu thuẫn với mô hình thông thường của khuynh hướng tình dục như một đặc điểm cố định và thống nhất được định hình từ giai đoạn đầu phát triển".[12]

Không phù hợp giới tính thời thơ ấu[sửa | sửa mã nguồn]

Các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra rằng không phù hợp giới tính thời thơ ấu (childhood gender nonconformity) là yếu tố tiên đoán tốt nhất đồng tính luyến ái ở người lớn.[13][14][15][16] Daryl Bem đề xuất rằng vài trẻ em thích các hoạt động tiêu biểu của giới tính đối lập. Các trẻ phù hợp giới tính cảm thấy khác với những trẻ có giới tính đối lập với mình trong khi những trẻ không phù hợp giới tính lại cảm thấy khác với những trẻ cùng giới tính với mình. Do đó trẻ có thể cảm thấy bị kích thích sinh lý khi gần người mà trẻ cho là "khác" với mình. Những kích thích sinh lý này sau đó sẽ chuyển thành ham muốn tình dục. Các nhà nghiên cứu cho rằng sự không phù hợp giới tính từ nhỏ có thể là do kiểu gen, hoócmôn giai đoạn bào thai, cá tính, cách chăm sóc của cha mẹ và các yếu tố môi trường khác.

Peter Bearman chỉ ra rằng trẻ trai sinh đôi cùng với một trẻ gái có khả năng bị hấp dẫn cùng giới gấp hai lần trừ khi trẻ có thêm một người anh. Ông ta nói sự phát hiện này đã ủng hộ giả thuyết rằng hòa nhập theo giới tính (gender socialization) kém thời thơ ấu và thiếu niên sẽ hình thành sự ưa thích tình cảm đồng giới. Ông đề xuất rằng cha mẹ của những cặp sinh đôi nam nữ thường đối xử trung tính với chúng, song một người anh trai nếu có sẽ giúp hình thành cơ chế hòa nhập theo giới tính để người em trai bắt chước theo.[13] Tuy nhiên, Bearman và Bruckner không tìm thấy bằng chứng trực tiếp về việc xã hội ảnh hưởng đến khuynh hướng lựa chọn giới tính tình dục.[17] Trong thực tế, không có bằng chứng nào cho thấy liên kết xã hội hoá giới tính của cha mẹ ảnh hưởng đến khuynh hướng tình dục của con cái của họ[17] trong khi một số nghiên cứu trên các trẻ sinh đôi đã cho thấy gần như tất cả các sự giống nhau trong gia đình được quan sát cho thấy khuynh hướng tình dục là do gen, không phải môi trường gia đình.[17][18] Tỷ lệ thanh thiếu niên báo cáo có hấp dẫn với người đồng tính là cao hơn so với tỷ lệ báo cáo có kinh nghiệm tình dục đồng tính thực sự. Ngoài việc hấp dẫn giới tính, cơ hội quan hệ tình dục cũng cần thiết. Do cơ hội quan hệ tình dục phụ thuộc nhiều vào cấu trúc xã hội, ảnh hưởng xã hội được cho rằng đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến việc cụ thể hóa hành vi tình dục hơn là hấp dẫn đồng tính đơn thuần.[13]

Ảnh hưởng từ gia đình[sửa | sửa mã nguồn]

Các nhà nghiên cứu có bằng chứng cho thấy người đồng tính nam có người cha ít yêu thương và ít quan tâm hơn đồng thời thân thiết với mẹ hơn là người nam không đồng tính.[19] Họ cho rằng từ điều này có thể kết luận rằng yếu tố gia đình thời thơ ấu là nhân tố quan trọng của đồng tính luyến ái[20] hoặc cha mẹ cố tình đối xử với con như vậy để sửa một đặc tính về mặt giới tính nào đó của con.[21][22] Michael Ruse cho rằng cả hai khả năng trên là đúng trong nhiều trường hợp khác nhau.[23]

Theo một nghiên cứu đối với 275 người nam trong quân đội Đài Loan, Shu và Lung kết luận rằng "sự ít bảo bọc của người cha và sự quan tâm của người mẹ là nhân tố chính hình thành sự đồng tính ở nam giới". Những yếu tố chính hình thành đồng tính luyến ái là "sự ít gắn bó với người cha, cuộc sống nội tâm và đặc thù thần kinh".[24] Một nghiên cứu báo cáo rằng người đồng tính nam sớm thân thiết với mẹ hơn những người đồng tính nữ.[25] Một nghiên cứu năm 2000 đối với các cặp sinh đôi người Mỹ cho thấy yếu tố gia đình, ít nhất là một phần của kiểu gen, ảnh hưởng đến thiên hướng tình dục.[26]

Có nghiên cứu cho thấy người đồng tính nam có nhiều đáng kể anh chị em hơn người đồng tính nữ. Người đồng tính nữ có nhiều đáng kể anh chị em hơn người nam dị tính.[27] Một nghiên cứu năm 2006Đan Mạch so sánh những người kết hôn đồng tính và những người kết hôn dị tính. Người kết hôn dị tính thường có cha mẹ trẻ, cha mẹ chênh lệch ít tuổi, có mối quan hệ ổn định với cha mẹ, large sibships và là em trong gia đình. Những người có cha mẹ ly hôn thường ít kết hôn dị tính hơn những người có cha mẹ hạnh phúc. Người nam kết hôn đồng tính thường có mẹ lớn tuổi, cha mẹ ly hôn, cha đi vắng hoặc là con út. Người nữ kết hôn đồng tính thường mồ côi mẹ ở tuổi thanh niên, là con một hay con út hoặc con gái duy nhất trong gia đình.[20]

Con nuôi của cặp đồng tính[sửa | sửa mã nguồn]

Các nghiên cứu của nhiều nhà khoa học như Kirk Patrick, Susan Golombok, Ann Spencer, Michael Rutter, Richard Green... cho biết: Khi nghiên cứu các cặp sinh đôi và con nuôi của các cặp đồng tính nữ, bằng chứng cho thấy thiên hướng tình dục là kết quả tác động phức tạp từ cả yếu tố sinh học và yếu tố môi trường và sự nuôi dạy. Các nghiên cứu này đã tìm thấy sự liên hệ về việc phát triển thiên hướng tình dục của trẻ em theo chiều hướng tương tự như cha mẹ nuôi của chúng, có nghĩa là nếu cha mẹ nuôi là người đồng tính thì khả năng đứa trẻ có hành vi đồng tính sẽ tăng lên.[28][29][30]

Một nghiên cứu mới vào năm 2012 của Mark Regnerus, giáo sư tại Đại học Texas được đăng trên Tạp chí nghiên cứu xã hội Hoa Kỳ đã cung cấp thêm nhiều thông tin về vấn đề này. Nghiên cứu khảo sát 15.000 thanh niên, khảo sát kỹ 3.000 thanh niên trong đó 175 được nuôi lớn bởi người đồng tính nữ và 73 bởi người đồng tính nam. Kết quả cho thấy: trong ngắn hạn, các cặp đồng tính có thể nuôi con tốt như vợ chồng thông thường; nhưng về dài hạn, sự khiếm khuyết về giới tính (thiếu vắng cha hoặc mẹ để nuôi dạy đứa trẻ) là không thể khắc phục được, và con nuôi của họ khi bước vào tuổi thành niên sẽ có tỷ lệ quan hệ đồng tính cao hơn, cụ thể[31]:

Vấn đề gặp phải Con nuôi cặp đồng tính nữ Con nuôi cặp đồng tính nam Gia đình thông thường
Phải điều trị tâm lý gần đây 19% 19% 9%
Có quan hệ đồng tính 7% 12% 2%
Bị cưỡng ép quan hệ tình dục 31% 25% 11%

Mặt khác, trong cuốn sách "Lớn lên trong một gia đình đồng tính nữ: Tác động với sự phát triển trẻ em", 2 tiến sĩ Fiona TaskerSusan Golombok, quan sát thấy rằng 25% những thanh niên được nuôi bởi các bà mẹ đồng tính cũng đã tham gia vào một mối quan hệ đồng tính, so với xấp xỉ 0% ở những thanh niên được nuôi bởi các bà mẹ bình thường[32]

Tiến sĩ Trayce Hansen cho biết: "Nghiên cứu của các nhà khoa học xã hội, mặc dù không dứt khoát, cho thấy rằng trẻ em nuôi bởi các cặp đồng tính có nhiều khả năng tham gia vào các hành vi đồng tính hơn so với các trẻ em khác. Các nghiên cứu cho đến nay cho thấy khoảng 8% đến 21% con nuôi của các cặp đồng tính cuối cùng cũng sẽ trở thành đồng tính. Để so sánh, tạm cho khoảng 2% dân số nói chung là đồng tính. Do đó, nếu các tỷ lệ này được xác minh kĩ, con nuôi của các cặp đồng tính có khả năng phát triển thành đồng tính cao hơn 4 đến 10 lần so với những đứa trẻ khác."

Số lượng anh trai[sửa | sửa mã nguồn]

Theo nhiều nhiên cứu, có thêm một người anh trai sẽ tăng khả năng là đồng tính lên 28%–48%.[33][34][35][36] Hiệu ứng anh trai chiếm khoảng 1/7 trong số người đồng tính nam.[37] Không có sự tương quan giữa số chị gái và sự đồng tính của một người nữ.[38]

Môi trường văn hóa, xã hội[sửa | sửa mã nguồn]

Tổ chức tình dục xã hội (Social Organization of Sexuality) ở Hoa Kỳ phát hiện đồng tính luyến ái có tương quan với sự đô thị hóa của nơi ở của đối tượng lúc 14 tuổi. Sự tương quan ở nam cao hơn ở nữ. Các tác giả giả thuyết rằng "Ở các thành phố lớn có một môi trường thông cảm đối với sự hình thành và thể hiện mối quan hệ đồng tính".[39][40]

Ở Đan Mạch, người sinh ra ở khu vực thủ đô có khả năng kết hôn dị tính thấp hơn và khả năng kết hôn đồng tính cao hơn người đồng trang lứa ở thôn quê.[20]

Khuôn mẫu tình dục của mỗi cá nhân là một sản phẩm của văn hóa xã hội. Những xã hội có xu hướng chấp nhận đồng tính thì sẽ có nhiều cá nhân có khuynh hướng đồng tính hơn. Tại Mỹ, đã có sự gia tăng số phụ nữ cảm thấy thu hút đồng tính. Nhà nghiên cứu Binnie Klein cho rằng "rõ ràng là một sự thay đổi trong xu hướng tình dục trong tâm trí nhiều người hơn hơn bao giờ hết, và có nhiều cơ hội hơn - và sự chấp nhận - để vượt qua làn ranh (về giới tính)"[41] Toni Meyer, nhà nghiên cứu cao cấp của Hội đồng Chính sách gia đình bang New Jersey (Mỹ), cho biết: cùng với phong trào ủng hộ đồng tính lên cao, từ năm 1994, số người công khai là đồng tính nam (ở Mỹ) đã tăng 18%, và số lượng người công khai là đồng tính nữ còn tăng tới 157%.

Chấn thương tâm lý[sửa | sửa mã nguồn]

Việc bị chấn thương tâm lý do bị lạm dụng tình dục cũng là một yếu tố. Một nghiên cứu trong Tạp chí Hiệp hội Y khoa Hoa Kỳ phát hiện ra rằng "vị thành niên bị lạm dụng tình dục, đặc biệt là nam giới, có khả năng tự nhận mình là người đồng tính hay song tính cao gấp 7 lần so với những người không bị lạm dụng"[42] Một nghiên cứu khác cho thấy rằng "46% nam đồng tính so với 7% của nam dị tính báo cáo rằng đã bị lạm dụng tình dục. Con số này tương ứng là 20% trong số đồng tính nữ so với 1% ở nữ dị tính"."[43]

Sigmund Freud và các nhà tâm lý học khác xác nhận rằng sự hình thành thiên hướng tình dục do nhiều nhân tố, trong đó có các sự việc quá khứ xảy ra trong thời thơ ấu. Tiến sĩ tâm lý học nổi tiếng người Tây Ban Nha là Enrique Rojas thì cho rằng: 95% nguyên nhân dẫn tới đồng tính là do các yếu tố môi trường như sự thiếu vắng quan tâm của người cha, người mẹ hung dữ hoặc bị lạm dụng tình dục trong thời thơ ấu.

Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ American Psychological Association Answers to Your Questions For a Better Understanding of Sexual Orientation & Homosexuality -

    There is no consensus among scientists about the exact reasons that an individual develops a heterosexual, bisexual, gay, or lesbian orientation. Although much research has examined the possible genetic, hormonal, developmental, social, and cultural influences on sexual orientation, no findings have emerged that permit scientists to conclude that sexual orientation is determined by any particular factor or factors. Many think that nature and nurture both play complex roles; most people experience little or no sense of choice about their sexual orientation.

  2. ^ “Gay, Lesbian and Bisexual Issues”. Association of Gay and Lesbian Psychiatrics. 2000. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 1 năm 2009. Truy cập ngày 24 tháng 3 năm 2009.

    No one knows what causes heterosexuality, homosexuality, or bisexuality.... there is a renewed interest in searching for biological etiologies for homosexuality. However, to date there are no replicated scientific studies supporting any specific biological etiology for homosexuality.

  3. ^ a b “Sexual Orientation and Adolescents” (PDF), American Academy of Pediatrics Clinical Report, Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 29 tháng 5 năm 2006, truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2007
  4. ^ “Answers to Your Questions About Sexual Orientation and Homosexuality”, American Psychological Association, truy cập ngày 4 tháng 5 năm 2007
  5. ^ Bailey JM, Vasey PL, Diamond LM, Breedlove SM, Vilain E, Epprecht M (tháng 9 năm 2016). “Sexual Orientation, Controversy, and Science”. Psychological Science in the Public Interest. 17 (2): 45–101. doi:10.1177/1529100616637616. PMID 27113562. S2CID 42281410.
  6. ^ Niklas Långström & Qazi Rahman, Eva Carlström, Paul Lichtenstein. (ngày 7 tháng 6 năm 2008). “Genetic and Environmental Effects on Same-sex Sexual Behaviour: A Population Study of Twins in Sweden”. Archives of Sexual Behavior. Archives of Sexual Behaviour. doi:10.1007/s10508-008-9386-1. PMID 18536986. line feed character trong |title= tại ký tự số 8 (trợ giúp)Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  7. ^ “Question A2: Sexual orientation”. Centre for Addiction and Mental Health. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 3 tháng 2 năm 2015.
  8. ^ “Appropriate Therapeutic Responses to Sexual Orientation” (PDF). American Psychological Association. 2009: 63, 86. Truy cập ngày 3 tháng 2 năm 2015. Chú thích journal cần |journal= (trợ giúp)
  9. ^ Sinclair, Karen, About Whoever: The Social Imprint on Identity and Orientation, NY, 2013 ISBN 9780981450513
  10. ^ Rosario, M., Schrimshaw, E., Hunter, J., & Braun, L. (2006, February).
  11. ^ Ross, Michael W.; Essien, E. James; Williams, Mark L.; Fernandez-Esquer, Maria Eugenia. (2003). “Concordance Between Sexual Behavior and Sexual Identity in Street Outreach Samples of Four Racial/Ethnic Groups”. Sexually Transmitted Diseases. American Sexually Transmitted Diseases Association. 30 (2): 110–113. doi:10.1097/00007435-200302000-00003. PMID 12567166.
  12. ^ Diamond, Lisa (2003). “Was it a phase? Young women's relinquishment of lesbian/bisexual identities over a 5-year period” (PDF). Journal of Personality and Social Psychology. 84 (2): 352–364. doi:10.1037/0022-3514.84.2.352. PMID 12585809. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 10 tháng 6 năm 2010. Truy cập ngày 2 tháng 8 năm 2015.
  13. ^ a b c Peter Bearman & Brückner, Hannah (2002). “Opposite-sex twins and adolescent same-sex attraction” (PDF). 107. American Journal of Sociology: 1179–1205. Chú thích journal cần |journal= (trợ giúp)Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  14. ^ Bem, Daryl (11 tháng 10 năm 2008). “Is There a Causal Link Between Childhood Gender Nonconformity and Adult Homosexuality?”. Journal of Gay & Lesbian Mental Health. 12 (1–2): 61–79. doi:10.1300/J529v12n01_05. Truy cập ngày 10 tháng 9 năm 2014.
  15. ^ Rieger G, Linsenmeier JA, Gygax L, Bailey JM (tháng 1 năm 2008). “Sexual orientation and childhood gender nonconformity: evidence from home videos”. Dev Psychol. 44 (1): 46–58. doi:10.1037/0012-1649.44.1.46. PMID 18194004.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  16. ^ Bailey, J.M.; Zucker, K.J (1995). “Childhood sex-typed behavior and sexual orientation: A conceptual analysis and quantitative review”. Developmental Psychology. 31 (1): 43–55. doi:10.1037/0012-1649.31.1.43.
  17. ^ a b c Jacob Felson (2011). “The Effect of Religious Background on Sexual Orientation”. Interdisciplinary Journal of Research on Religion. 7. ISSN 1556-3723.
  18. ^ Kendler KS; Thornton LM; Gilman SE; Kessler RC (2000). “Sexual orientation in a U.S. national sample of twin and nontwin sibling pairs”. Am J Psychiatry. 157 (11): 1843–6. doi:10.1176/appi.ajp.157.11.1843. PMID 11058483.
  19. ^ Bell, Weinberg, & Parks, 1981; Bieber et al., 1962; Braatan & Darling, 1965; Brown, 1963; Evans, 1969; Jonas, 1944; Millic & Crowne, 1986; Nicolosi, 1991; Phelan, 1993; Biggio, 1973; Seutter & Rovers, 2004; Siegelman, 1974; Snortum, 1969; Socarides, 1978; West, 1959).
  20. ^ a b c Frisch M, Hviid A (tháng 10 năm 2006). “Childhood family correlates of heterosexual and homosexual marriages: a national cohort study of two million Danes”. Arch Sex Behav. 35 (5): 533–47. doi:10.1007/s10508-006-9062-2. PMID 17039403.
  21. ^ Isay, Richard A. (1990). Being homosexual: Gay men and their development. HarperCollins. ISBN 0380710226.
  22. ^ Isay, Richard A. (1996). Becoming gay: The journey to self-acceptance. New York, Pantheon. ISBN 0679421599.
  23. ^ Ruse, Michael Homosexuality: a philosophical inquiry (1988) ISBN 0-631-17553-9
  24. ^ Lung, F.W. (2007). “Father-son attachment and sexual partner orientation in Taiwan”. Comprehensive Psychiatry. 48: 20–6. doi:10.1016/j.comppsych.2006.08.001. |ngày truy cập= cần |url= (trợ giúp)
  25. ^ Ridge SR, Feeney JA (1998). “Relationship history and relationship attitudes in gay males and lesbians: attachment style and gender differences”. Aust N Z J Psychiatry. 32 (6): 848–59. doi:10.3109/00048679809073875. PMID 10084350. line feed character trong |journal= tại ký tự số 11 (trợ giúp); line feed character trong |title= tại ký tự số 65 (trợ giúp)
  26. ^ Kendler KS, Thornton LM, Gilman SE, Kessler RC (2000). “Sexual orientation in a U.S. national sample of twin and nontwin sibling pairs”. Am J Psychiatry. 157 (11): 1843–6. doi:10.1176/appi.ajp.157.11.1843. PMID 11058483. line feed character trong |author= tại ký tự số 8 (trợ giúp); line feed character trong |journal= tại ký tự số 5 (trợ giúp); line feed character trong |title= tại ký tự số 24 (trợ giúp)Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  27. ^ Bogaert AF (2005). “Sibling sex ratio and sexual orientation in men and women: new tests in two national probability samples”. Arch Sex Behav. 34 (1): 111–6. doi:10.1007/s10508-005-1005-9. PMID 15772774. line feed character trong |title= tại ký tự số 8 (trợ giúp)
  28. ^ Kirk Patrick M, Smith C, Roy R (1981). “Lesbian mothers and their children: a comparative survey”. Am J Orthopsychiatry. 51 (3): 545–51. PMID 7258320.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  29. ^ Susan Golombok, Ann Spencer and Michael Rutter (1983). “Children in lesbian and single-parent households: psychosexual and psychiatric appraisal”. J Child Psychol Psychiatry. 24 (4): 551–72. doi:10.1111/j.1469-7610.1983.tb00132.x. PMID 6630329.
  30. ^ Green R, Mandel JB, Hotvedt ME, Gray J, Smith L (1986). “Lesbian mothers and their children: a comparison with solo parent heterosexual mothers and their children”. Arch Sex Behav. 15 (2): 167–84. doi:10.1007/BF01542224. PMID 3718205.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  31. ^ http://www.baylorisr.org/wp-content/uploads/Regnerus.pdf
  32. ^ Growing up in a lesbian family: effects on child development. Fiona L. Tasker, Susan Golombok. Guilford Press, 1997. ISBN 1-57230-412-X. P 111
  33. ^ Blanchard, R., Zucker, K.J., Siegelman, M., Dickey, R. & Klassen, P. (1998). The relation of birth order to sexual orientation in men and women. Journal of Biosocial Science, 30, 511-­519.
  34. ^ Ellis, L. & Blanchard, R. (2001). Birth order, sibling sex ratio, and maternal miscarriages in homosexual and heterosexual men and women. Personality and Individual Differences, 30, 543-552.
  35. ^ Blanchard, R. (2001). Fraternal birth order and the maternal immune hypothesis of male homosexuality. Hormones and Behavior, 40, 105-114.
  36. ^ Puts, D. A., Jordan, C. L., Breedlove, M. (2006). O brother, where art thou? The fraternal birth-order effect on male sexual orientation. Proceedings of the National Academy of Sciences USA, 103, 10531-10532.
  37. ^ Cantor, J. M., Blanchard, R., Paterson, A. D., & Bogaert, A. F. (2002). How many gay men owe their sexual orientation to fraternal birth order. Archives of Sexual Behavior, 31, 63-71.
  38. ^ Bogaert, A. F. (2005) Sibling sex ratio and sexual orientation in men and women: New tests in two national probability samples. Archives of Sexual Behavior, 34, 111-116.
  39. ^ Edward O. Laumann & John H. Gagnon, Robert T. Michael, Stuart Michaels (1994). The Social Organization of Sexuality: Sexual Practices in the United States. tr. 308. ISBN 978-0-226-46957-7.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  40. ^ Edward Laumann;Michael, Robert; Kolata, Gina (ngày 1 tháng 9 năm 1995). Sex in America: A Definitive Survey. Grand Central Publishing. ISBN 978-0446671835.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  41. ^ Why women are leaving men for other women
  42. ^ Holmes, William C. (ngày 2 tháng 12 năm 1998). “Sexual Abuse of Boys”. The Journal of the American Medical Association. 280 (21). |ngày truy cập= cần |url= (trợ giúp)
  43. ^ M.E. Tomeo & Templer D.L. (2001). “Comparative data of childhood adolescence molestation in heterosexual and homosexual persons”. Archives of Sexual Behavior. 30: 535–541.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)