Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Miền Nam (Việt Nam)”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n lúc đó QDQG là một phần của QD Pháp
Dòng 24: Dòng 24:
*Từ năm 1945, khái niệm miền Nam Việt Nam được dùng để chỉ vùng lãnh thổ phía nam [[vĩ tuyến]] 16. Khái niệm này bắt nguồn từ thỏa thuận của các nước [[Khối Đồng Minh thời Chiến tranh thế giới thứ hai|Đồng Minh]] về việc giải giới quân đội [[Nhật Bản|Nhật]] ở [[Bán đảo Đông Dương|Đông Dương]] thì vùng lãnh thổ Việt Nam được chia làm 2 phần, lấy vĩ tuyến 16 làm ranh giới. Vùng lãnh thổ phía nam vĩ tuyến 16 do quân Anh cai trị, về sau giao cho [[Pháp]]. Khái niệm này rất ít dùng.
*Từ năm 1945, khái niệm miền Nam Việt Nam được dùng để chỉ vùng lãnh thổ phía nam [[vĩ tuyến]] 16. Khái niệm này bắt nguồn từ thỏa thuận của các nước [[Khối Đồng Minh thời Chiến tranh thế giới thứ hai|Đồng Minh]] về việc giải giới quân đội [[Nhật Bản|Nhật]] ở [[Bán đảo Đông Dương|Đông Dương]] thì vùng lãnh thổ Việt Nam được chia làm 2 phần, lấy vĩ tuyến 16 làm ranh giới. Vùng lãnh thổ phía nam vĩ tuyến 16 do quân Anh cai trị, về sau giao cho [[Pháp]]. Khái niệm này rất ít dùng.
*Từ tháng 12 năm [[1945]] đến tháng 12 năm [[1946]], [[Chính phủ Việt Nam|Chính phủ]] [[Việt Nam Dân chủ Cộng hòa]] đã thành lập Ủy ban Hành chính Kháng chiến Miền Nam Việt Nam, do ông [[Nguyễn Sơn]] làm Chủ tịch, ông [[Hoàng Quốc Việt]] làm Ủy viên chính trị. Tuy nhiên, khi đó Nam Bộ đã có Ủy ban Hành chính riêng, nên địa bàn quản lý của Ủy ban Hành chính Kháng chiến Miền Nam Việt Nam gồm vùng đất sau này là Liên khu 5, tính từ các tỉnh [[Quảng Nam]], Đà Nẵng, [[Quảng Ngãi]] vào các tỉnh cực nam Trung Bộ, như [[Bình Thuận]] cùng với [[Tây Nguyên]]. Ủy ban Kháng chiến Miền Nam Việt Nam đóng trụ sở tại [[quảng Ngãi (thành phố)|thị xã Quảng Ngãi]].
*Từ tháng 12 năm [[1945]] đến tháng 12 năm [[1946]], [[Chính phủ Việt Nam|Chính phủ]] [[Việt Nam Dân chủ Cộng hòa]] đã thành lập Ủy ban Hành chính Kháng chiến Miền Nam Việt Nam, do ông [[Nguyễn Sơn]] làm Chủ tịch, ông [[Hoàng Quốc Việt]] làm Ủy viên chính trị. Tuy nhiên, khi đó Nam Bộ đã có Ủy ban Hành chính riêng, nên địa bàn quản lý của Ủy ban Hành chính Kháng chiến Miền Nam Việt Nam gồm vùng đất sau này là Liên khu 5, tính từ các tỉnh [[Quảng Nam]], Đà Nẵng, [[Quảng Ngãi]] vào các tỉnh cực nam Trung Bộ, như [[Bình Thuận]] cùng với [[Tây Nguyên]]. Ủy ban Kháng chiến Miền Nam Việt Nam đóng trụ sở tại [[quảng Ngãi (thành phố)|thị xã Quảng Ngãi]].
*Từ năm 1954 trở đi, khái niệm miền Nam Việt Nam được dùng để chỉ vùng lãnh thổ do chính phủ [[Việt Nam Cộng hòa]] kiểm soát, kể từ phía nam [[vĩ tuyến 17 Bắc|vĩ tuyến 17]], với ranh giới tự nhiên là [[sông Bến Hải]], nay thuộc tỉnh [[Quảng Trị]]. Khái niệm này bắt nguồn từ [[Hiệp định Genève, 1954|Hiệp định Genève]] năm [[1954]] quy định vùng lãnh thổ tạm thời của 2 bên tham chiến tại Việt Nam. Ranh giới này tồn tại đến tận năm [[1976]] thì bị hủy bỏ, nhưng khái niệm này vẫn còn được sử dụng nhiều trong dân gian các tài liệu văn bản. Khái niệm này được dùng trong các tên gọi [[Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam]] [[Cộng hòa Miền Nam Việt Nam]].
*Từ năm 1954 trở đi, khái niệm miền Nam Việt Nam được dùng để chỉ vùng lãnh thổ do chính phủ [[Việt Nam Cộng hòa]] kiểm soát về mặt hành chính và từ sau năm 1969 có thêm Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam quản lý, kể từ phía nam [[vĩ tuyến 17 Bắc|vĩ tuyến 17]], với ranh giới tự nhiên là [[sông Bến Hải]], nay thuộc tỉnh [[Quảng Trị]]. Khái niệm này bắt nguồn từ [[Hiệp định Genève, 1954|Hiệp định Genève]] năm [[1954]] quy định 02 vùng tập kết quân sự không được coi biên giới quốc gia. Ranh giới này tồn tại đến tận năm [[1976]] sau khi [[Cộng hòa Miền Nam Việt Nam]] và [[Việt Nam Dân chủ Cộng hòa]] tổ chức tổng tuyển cứ, thống nhất về mặt nhà nước.<ref>https://baonghean.vn/25-4-1976-ngay-tong-tuyen-cu-bau-quoc-hoi-cua-nuoc-viet-nam-thong-nhat-132239.html</ref>


==Các tên gọi khác==
==Các tên gọi khác==

Phiên bản lúc 12:51, ngày 12 tháng 5 năm 2020

Miền Nam Việt Nam là một khái niệm để chỉ vùng địa lý ở phía nam nước Việt Nam. Tuy nhiên, tùy theo thời điểm lịch sử và thói quen sử dụng mà khái niệm này đôi khi được dùng để chỉ các vùng lãnh thổ khác nhau theo nghĩa chính trị một cách không chính thức.

Miền Nam Việt Nam có thể là

Các tiểu vùng địa lý

Nam Bộ bao gồm 17 tỉnh từ Bình Phước trở xuống phía nam và hai thành phố: Thành phố Hồ Chí Minh và thành phố Cần Thơ.

Khu vực này chia làm 2 vùng chính:

Riêng tài liệu của Tổng cục Thống kê Việt Nam (và một số ít tài liệu khác dựa theo số liệu thống kê của Tổng cục Thống kê) lại xếp 2 tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận vào miền Đông Nam Bộ.

Một số khái niệm thường được dùng

  • Dựa trên cách phân chia vùng theo địa lý kinh tế thì miền Nam Việt Nam, còn được gọi là Nam Bộ, bao gồm các tỉnh ở phía nam Tây Nguyên và phía tây tỉnh Ninh Thuận. Vùng lãnh thổ này còn được chia thành 2 vùng lãnh thổ nhỏ là Đông Nam BộTây Nam Bộ. Khái niệm này vẫn được sử dụng cho đến ngày nay. Đây là cách chia Việt Nam thành 3 miền: Bắc (Bắc Bộ), Trung (Trung Bộ) và Nam (Nam Bộ).
  • Từ năm 1945, khái niệm miền Nam Việt Nam được dùng để chỉ vùng lãnh thổ phía nam vĩ tuyến 16. Khái niệm này bắt nguồn từ thỏa thuận của các nước Đồng Minh về việc giải giới quân đội NhậtĐông Dương thì vùng lãnh thổ Việt Nam được chia làm 2 phần, lấy vĩ tuyến 16 làm ranh giới. Vùng lãnh thổ phía nam vĩ tuyến 16 do quân Anh cai trị, về sau giao cho Pháp. Khái niệm này rất ít dùng.
  • Từ tháng 12 năm 1945 đến tháng 12 năm 1946, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã thành lập Ủy ban Hành chính Kháng chiến Miền Nam Việt Nam, do ông Nguyễn Sơn làm Chủ tịch, ông Hoàng Quốc Việt làm Ủy viên chính trị. Tuy nhiên, khi đó Nam Bộ đã có Ủy ban Hành chính riêng, nên địa bàn quản lý của Ủy ban Hành chính Kháng chiến Miền Nam Việt Nam gồm vùng đất sau này là Liên khu 5, tính từ các tỉnh Quảng Nam, Đà Nẵng, Quảng Ngãi vào các tỉnh cực nam Trung Bộ, như Bình Thuận cùng với Tây Nguyên. Ủy ban Kháng chiến Miền Nam Việt Nam đóng trụ sở tại thị xã Quảng Ngãi.
  • Từ năm 1954 trở đi, khái niệm miền Nam Việt Nam được dùng để chỉ vùng lãnh thổ do chính phủ Việt Nam Cộng hòa kiểm soát về mặt hành chính và từ sau năm 1969 có thêm Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam quản lý, kể từ phía nam vĩ tuyến 17, với ranh giới tự nhiên là sông Bến Hải, nay thuộc tỉnh Quảng Trị. Khái niệm này bắt nguồn từ Hiệp định Genève năm 1954 quy định 02 vùng tập kết quân sự và không được coi là biên giới quốc gia. Ranh giới này tồn tại đến tận năm 1976 sau khi Cộng hòa Miền Nam Việt NamViệt Nam Dân chủ Cộng hòa tổ chức tổng tuyển cứ, thống nhất về mặt nhà nước.[2]

Các tên gọi khác

Phù Nam

Nam Bộ xưa vốn là vùng đất đã từng có nhiều lớp cư dân đến khai phá. Tên gọi Phù Nam xuất hiện vào khoảng đầu Công nguyên. Đến khoảng thế kỷ V-VI, Phù Nam được mở rộng và trở thành một đế chế rộng lớn với nhiều thuộc quốc phân bố ở phía nam bán đảo Đông Dươngbán đảo Malaca. Vào đầu thế kỷ VII đế chế Phù Nam tan rã do nước Chân Lạp của người Khmer đã tấn công đánh chiếm vùng hạ lưu sông Mêkông (tương đương với vùng đất Nam Bộ ngày nay)[3].

Thuỷ Chân Lạp

Sau khi đánh chiếm được Phù Nam, vùng đất này được đổi tên là Thuỷ Chân Lạp. Trong khoảng thời gian từ thế kỷ IX đến cuối thế kỷ XI, Chân Lạp trở nên một quốc gia cường thịnh, mở rộng lãnh thổ lên tận Nam Lào và lưu vực sông Chao Phaya. Đến thế kỉ XVI thì triều đình Chân Lạp bị chia rẽ sâu sắc và bước vào thời kì suy vong nên hầu như không có điều kiện quan tâm và trên thực tế đã không đủ sức quản lý vùng đất này. Nhiều cư dân Việt từ đất Thuận Quảng đã phải vào vùng Mô Xoài, Đồng Nai (miền Đông Nam Bộ) lập làng sinh sống[4].

Đàng Trong

Tên gọi này bắt nguồn từ thời Trịnh - Nguyễn phân tranh vào thế kỷ 17, với ranh giới xác định là ở phía nam sông Gianh (nay thuộc tỉnh Quảng Bình). Do đặc điểm cả hai vùng lãnh thổ tuy trên thực tế thuộc hai chính quyền khác nhau, nhưng về danh nghĩa vẫn cùng một quốc gia Đại Việt. Tên gọi Đàng Trong thường được dùng để chỉ vùng kiểm soát bởi chúa Nguyễn, vốn nằm xa Trung Quốc hơn nên mới có tên gọi này. Giai đoạn này người ngoại quốc đến giao thương với Việt Nam thường dùng tên gọi Cochinchine để chỉ vùng lãnh thổ này.

Nam Hà

Tên gọi Nam Hà xuất hiện cùng thời với tên gọi Đàng Trong. Nó có nghĩa đơn giản là "ở phía nam con sông", ở đây hàm ý chỉ con sông Gianh. Tuy nhiên, tên gọi này ít sử dụng phổ biến như tên gọi Đàng Trong và không bao gồm vùng đất Gia Định ở phía nam.

Gia Định

Gia Định ban đầu chỉ là cái tên để chỉ vùng lãnh thổ nhỏ ở phía nam vào năm 1698, sau mở rộng dần đến năm 1779 thì được dùng để chỉ toàn bộ vùng tương ứng với Nam Bộ hiện nay. Để tương ứng với đơn vị hành chính Bắc Thành ở phía bắc, từ năm 1802, vua Gia Long đã đặt ra Gia Định Trấn để cai quản vùng lãnh thổ từ Bình Thuận trở vào, gồm 5 trấn. Do dễ có sự nhầm lẫn nên từ năm 1808 đã được đổi tên là Gia Định Thành. Đứng đầu đơn vị hành chính này là một chức quan Lưu Trấn, sau 1808 đổi thành Tổng trấn. Vị Tổng trấn nổi tiếng nhất của Gia Định Thành là Lê Văn Duyệt. Gia Định Thành tồn tại mãi đến năm 1832, sau khi Lê Văn Duyệt mất và vua Minh Mạng quyết định giải thể Gia Định Thành.

Nam Kỳ

Nam Kỳ là tên gọi từ năm 1832, dùng để chỉ vùng lãnh thổ thuộc quyền cai quản của Gia Định Thành trước kia. Do vua Minh Mạng chia vùng lãnh thổ này thành 6 tỉnh trực tiếp đặt dưới quyền cai quản của triều đình, nên nó còn có tên gọi là Nam Kỳ Lục tỉnh. Sau khi chiếm được Nam Kỳ, người Pháp thường sử dụng tên gọi Cochinchine để chỉ vùng này.

Danh xưng Nam Kỳ quốc (tiếng Pháp: République de Cochinchine) được người Pháp dùng để chỉ một quốc gia do họ lập nên vào năm 1946, về danh nghĩa cai quản vùng lãnh thổ Việt Nam ở phía nam vĩ tuyến 16. Tuy nhiên, quốc gia này chỉ tồn tại trên danh nghĩa và chỉ đến năm 1948 thì bị khai tử.

Nam Bộ

Sau cuộc đảo chính Pháp tại Đông Dương ngày 9 tháng 3 năm 1945, quân đội Nhật đã tuyên bố trao lại quyền độc lập cho Đế quốc Việt Nam. Song song với quá trình thành lập chính phủ, vua Bảo Đại cũng cho phân vùng lãnh thổ Việt Nam thành 3 khu vực hành chính, và đặt các chức quan Khâm sai thay mặt nhà vua để cai quản từng vùng. Nam Bộ là khu vực tương ứng với Nam Kỳ cũ.

Tên gọi Nam Bộ được sử dụng lâu dài cho đến ngày nay.

Nam Phần

Tên gọi Nam Phần ra đời vào khoảng năm 1947, sau khi chính phủ Nam Kỳ quốc giai đoạn đầu giải tán, và chính phủ Nam phần Việt Nam được thành lập. Sau đó chính phủ Pháp và cựu hoàng Bảo Đại ký thỏa ước thành lập Quốc gia Việt Nam, theo đó lãnh thổ Việt Nam được phân thành 3 đơn vị hành chính cấp Phần, là một cấp cao hơn tỉnh, đứng đầu là một Thủ hiến do Quốc trưởng chỉ định. Vùng lãnh thổ Nam Phần tương ứng với vùng lãnh thổ của Nam Bộ vào năm 1945.

Chú thích

Sắc lệnh số 143-A/TTP của Phủ Tổng thống Việt Nam Cộng hòa ngày 23/10/1956 đã quy định gọi Bắc Việt, Trung Việt, Nam Việt tương ứng là Bắc Phần, Trung Phần, Nam Phần.

Tham khảo

  • Atlat địa lý Việt Nam, Nhà xuất bản Giáo dục 2009
  • Atlat hành chính Việt Nam, Nhà xuất bản Bản Đồ 2008

Xem thêm