Bá quốc Tripoli

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Bá quốc Tripoli
1102–1289
Quốc kỳ Tripolitanus
Quốc kỳ
Quốc huy Tripolitanus
Quốc huy
The County of Tripoli in the context of the other states of the Near East in 1135 AD.
The County of Tripoli in the context of the other states of the Near East in 1135 AD.
Tổng quan
Vị thếChư hầu của Vương quốc Jerusalem, Công quốc AntiochĐế quốc Mông Cổ
Thủ đôTartus (1102–1109), Tripolitanus (1109–1289)
Ngôn ngữ thông dụngLatin, tiếng Pháp, Old Occitan, Tiếng Ý, Arabic, Greek
Tôn giáo chính
Công giáo
Chính Thống giáo
Hồi giáo
Do Thái giáo
Phật giáo
Chính trị
Chính phủPhong kiến
Bá tước Tripoli[1] 
• 1102–1105
Raymond IV
• 1287–1289
Lucia của Tripoli
Lịch sử
Thời kỳTrung kỳ Trung Cổ
• Thành lập
1102
• Conquered by Qalawun
27 April 1289
Tiền thân
Kế tục
Fatimid Caliphate
Mamluk Sultanate (Cairo)
Hiện nay là một phần của Lebanon
 Syria
 Israel

Bá quốc Tripoli (tiếng Latinh: Comitatus Tripolitanus, tiếng Hy Lạp: Κομητεία της Τρίπολης) là lãnh địa tự trị sau chót xuất hiện như hệ quả tích cực của phong trào Thập tự chinh. Tiểu quốc này trên danh nghĩa là thần thuộc Đế quốc Byzantine nhưng trên thực tế hoàn toàn tự quản.

Lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]

Trận Tripolitanus.

Pháo đài Raymond de Saint-Gilles lớn nhất Levant và là thành phố theo lối kiến trúc Mamluk lớn thứ hai sau Cairo. Thập tự quân đã thiết lập Bá quốc Tripoli vào năm 1102.

Bá tước Raymond IV xứ Toulouse (còn được gọi là Raymond de Saint-Gilles) là một trong những người giàu có và quyền lực nhất Thập tự chinh. Mặc dù vậy, sau cuộc Thập tự chinh đầu tiên, ông đã thất bại trong việc bảo vệ bất kỳ vùng đất nào ở Cận Đông. Trong khi đó, Bá quốc Edessa, Vương quốc HierosolymitanumCông quốc Antioch đã được thành lập. Tripoli là một mục tiêu chiến lược quan trọng vì nó liên kết người Pháp ở phía nam với người Norman ở phía bắc. Đó là một khu vực màu mỡ và đông dân cư. Năm 1102, Raymond IV chiếm Tortosa (nay là Tartus) và năm 1103, ông chuẩn bị, cùng với các cựu chiến binh của cuộc thập tự chinh 1101, để chiếm Tripoli.

Trên một sườn núi tự nhiên, mà ông đặt là "Mons Peregrinus" (Núi Pilgrim), cách Tripoli 3 km (1,9 mi), Raymond IV bắt đầu xây dựng một lâu đài lớn, được biết đến bằng tiếng Ả Rập Qal'at Sanjil. Mặc dù có pháo đài mới này và đạo quân tinh nhuệ, cuộc vây hãm Tripoli của Raymond IV đã thất bại trong việc bảo vệ cảng. Ông qua đời vào ngày 25 tháng 2 năm 1105.

Bá tước[sửa | sửa mã nguồn]

Sau khi Tripolitanus bị quân Mamluk chinh phục, trên danh nghĩa lãnh địa này vẫn còn nhà cai trị.

Nhưng ngôi lĩnh tụ Bá quốc Tripolitanus được chuyển sang các nhà cai trị Hierosolymitanum và Kypros.

Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Vgl. Benjamin Arbel: Greek Magnates in Venetian Cyprus. The Case of the Synglitico Family. In: Dumbarton Oaks Papers. Bd. 49 = Symposium on Byzantium and the Italians, 13th–15th Centuries, 1995, S. 325–337, hier S. 332, doi:10.2307/1291717.
  2. ^ Estoire d'Eracles
  • Wolfgang Antweiler: Das Bistum Tripolis im 12. und 13. Jahrhundert. Personengeschichtliche und strukturelle Probleme (= Studia humaniora. 20). Droste, Düsseldorf 1991, ISBN 3-7700-0826-X (Zugleich: Düsseldorf, Universität, Dissertation, 1989).
  • Jean Richard: The Crusades. c. 1071 – c. 1291 (= Cambridge Medieval Textbooks.). Cambridge University Press, Cambridge u. a. 1999, ISBN 0-521-62566-1.
  • Jean Richard: Le comté de Tripoli sous la dynastie toulousaine (1102–1187) (= Bibliothèque Archéologique et Historique. 39, ISSN 0768-2506). Paul Geuthner, Paris 1945, (Neuauflage. ebenda 1999, ISBN 2-7053-3667-2).
  • Steven Runciman: Geschichte der Kreuzzüge (= dtv. 30175). 3. Auflage. Deutscher Taschenbuch-Verlag, München 2001, ISBN 3-423-30175-9.