HMS Whaddon (L45)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Tàu khu trục HMS Whaddon (L45), 19 tháng 6 năm 1942
Lịch sử
Anh Quốc
Tên gọi HMS Whaddon (L45)
Đặt hàng 11 tháng 4 năm 1939
Xưởng đóng tàu Alexander Stephen & Sons, Linthouse, Govan
Đặt lườn 27 tháng 7 năm 1939
Hạ thủy 16 tháng 7 năm 1940
Nhập biên chế 28 tháng 2 năm 1941
Xuất biên chế 1945
Số phận Bán để tháo dỡ, tháng 4 năm 1959
Đặc điểm khái quát[1]
Lớp tàu Lớp Hunt Kiểu I
Trọng tải choán nước
  • 1.000 tấn Anh (1.020 t) (tiêu chuẩn)
  • 1.340 tấn Anh (1.360 t) (đầy tải)
Chiều dài 85 m (278 ft 10 in) (chung)
Sườn ngang 8,8 m (28 ft 10 in)
Mớn nước 3,27 m (10 ft 9 in)
Động cơ đẩy
  • 2 × turbine hơi nước hộp số Parsons;
  • 2 × nồi hơi ống nước 3 nồi Admiralty;
  • 2 × trục;
  • công suất 19.000 shp (14.170 kW)
Tốc độ 27,5 hải lý trên giờ (50,9 km/h)
Tầm xa
  • 3.500 nmi (6.480 km) ở tốc độ 15 hải lý trên giờ (28 km/h);
  • 1.000 nmi (2.000 km) ở tốc độ 26 hải lý trên giờ (48 km/h)
Thủy thủ đoàn tối đa 146
Vũ khí

HMS Whaddon (L45) là một tàu khu trục hộ tống lớp Hunt Kiểu I của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc được hạ thủy năm 1940 và đưa ra phục vụ năm 1941. Nó đã hoạt động cho đến hết Chiến tranh Thế giới thứ hai, cho đến khi xuất biên chế năm 1945 và bị bán để tháo dỡ năm 1959.

Thiết kế và chế tạo[sửa | sửa mã nguồn]

Whaddon được đặt hàng cho hãng Alexander Stephen & Sons tại Linthouse, Govan trong Chương trình Chế tạo 1939 và được đặt lườn vào ngày 27 tháng 7 năm 1939. Nó được hạ thủy vào ngày 16 tháng 7 năm 1940 và nhập biên chế vào ngày 28 tháng 2 năm 1941. Con tàu được cộng đồng dân cư Newport Pagnell tại Buckinghamshire đỡ đầu trong khuôn khổ cuộc vận động gây quỹ Tuần lễ Tàu chiến năm 1942.

Lịch sử hoạt động[sửa | sửa mã nguồn]

Trong những năm 1941-1942, Whaddon phục vụ tại Bắc Hải trong vai trò hộ tống các đoàn tàu vận tải. Nó được điều sang khu vực Địa Trung Hải vào tháng 3 năm 1943, làm nhiệm vụ tuần tra và hộ tống, và đã hỗ trợ cho các cuộc đổ bộ của lực lượng Đồng Minh trong các Chiến dịch Husky lên SicilyChiến dịch Avalanche lên Salerno.

Sau chiến tranh, Whaddon khởi hành từ Gibraltar vào ngày 29 tháng 9 năm 1945 để đi Devonport, nơi nó được đưa về thành phần dự bị.[2] Con tàu bị tháo dỡ tại Faslane vào tháng 4 năm 1959.

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Lenton 1970, tr. 87
  2. ^ Critchley 1982, tr. 29

Thư mục[sửa | sửa mã nguồn]

  • Colledge, J. J.; Warlow, Ben (1969). Ships of the Royal Navy: the complete record of all fighting ships of the Royal Navy (Rev. ed.). London: Chatham. ISBN 978-1-86176-281-8. OCLC 67375475.
  • Critchley, Mike (1982). British Warships Since 1945: Part 3: Destroyers. Liskeard, UK: Maritime Books. ISBN 0-9506323-9-2.
  • English, John (1987). The Hunts: A history of the design, development and careers of the 86 destroyers of this class built for the Royal and Allied Navies during World War II. World Ship Society. ISBN 0-905617-44-4.
  • Lenton, H.T. (1970). Navies of the Second World War: British Fleet & Escort Destroyers: Volume Two. London: Macdonald & Co. ISBN 0-356-03122-5.

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]