Kim Ha-neul
Kim Ha-neul | |
---|---|
Kim Ha-neul vào năm 2017 | |
Sinh | 21 tháng 2, 1978 Seoul, Hàn Quốc |
Học vị | Học viện nghệ thuật Seoul - Chuyên ngành Điện ảnh |
Nghề nghiệp | Diễn viên |
Năm hoạt động | 1996–nay |
Người đại diện | IOK Company |
Phối ngẫu | Choi Jin-hyuk (cưới 2016) |
Con cái | 1 |
Tên tiếng Triều Tiên | |
Hangul | |
Romaja quốc ngữ | Gim Ha-neul |
McCune–Reischauer | Kim Hanŭl |
Kim Ha-neul (Tiếng Hàn: 김하늘; sinh ngày 21 tháng 2 năm 1978), là một nữ diễn viên người Hàn Quốc. Cô bắt đầu sự nghiệp với vai trò là một người mẫu rồi chuyển hướng sang diễn xuất thông qua bộ phim hài kịch lãng mạn My Tutor Friend (2003) và Too Beautiful to Lie (2004), sau đó là phim hành động Bạn gái tôi là điệp viên (2009). Vào năm 2011, Kim đoạt giải Nữ diễn viên xuất sắc nhất tại Giải thưởng điện ảnh Daejong lần thứ 48 và Giải thưởng điện ảnh Rồng Xanh lần thứ 32 thông qua vai diễn của cô tại bộ phim kinh dị Blind. Ngoài ra, cô còn tham gia diễn xuất trong các bộ phim truyền hình như Romance (2002), Phẩm chất quý ông (2012), Sóng gió hậu trường (2008), On the Way to the Airport (2016), Trở lại tuổi 18 (2020).
Thời nhỏ và cuộc sống cá nhân
[sửa | sửa mã nguồn]Kim Ha-neul sinh ngày 21 tháng 2 năm 1978 tại Seoul, Hàn Quốc. Tên của cô là "Ha-neul" trong tiếng Hàn mang nghĩa là “bầu trời”. Kim là chị cả trong gia đình gồm hai chị em và bố mẹ cô. Cô đã theo học tại Học viện nghệ thuật Seoul.
Kim đã cưới một doanh nhân vào ngày 19 tháng 3 năm 2016.[1][2] Vào ngày 9 tháng 10 năm 2017, cô thông báo đã mang thai đứa con đầu lòng.[3] Ngày 27 tháng 5 năm 2018, cô đã sinh một bé gái.[4]
Cô là một người theo Công giáo.[5]
Sự nghiệp
[sửa | sửa mã nguồn]1996–2000: Sự nghiệp ban đầu
[sửa | sửa mã nguồn]Kim Ha-neul bắt đầu sự nghiệp người mẫu quảng cáo của cô với nhãn hàng quần áo Storm vào năm 1996. Sau đó cô chuyển qua diễn xuất thông qua bộ phim đầu tay Bye June cùng với Yoo Ji-tae vào năm 1998. Vào năm 1999, cô đóng vai chính trong bộ phim về y khoa Doctor K; bộ phim đã mang về cho cô đề cử giải thưởng đầu tiên trong sự nghiệp diễn xuất. Trong cùng năm đó, cô cũng tham gia diễn xuất trong các bộ phim như Happy Together và Into the Sunlight; ngoài ra cô còn góp mặt trong video âm nhạc "To Heaven" của Jo Sung-mo. Vào năm 2000, cô hợp tác lại với Yoo Ji-tae trong bộ phim tình cảm khoa học viễn tưởng Ditto và trở nên nổi tiếng với vai trò diễn viên của mình.[6]
2001–2007: Gia tăng độ phủ sóng
[sửa | sửa mã nguồn]Kim đột phá với vai diễn một thiếu nữ mong manh trong sáng trong bộ phim thể loại melodrama Piano. Đây là bộ phim truyền hình đứng thứ hai trong năm 2001 khi thu về lượng người xem trung bình là 40,2%. Vào năm 2002, cô nhận vai chính trong bộ phim Romance đóng cặp với Kim Jae-won. Với vai diễn này, cô trở thành một ngôi sao mới nổi đã đoạt giải thưởng Top Excellence Award hạng mục diễn xuất.[7] Vào năm 2003, cô nâng tầm trong hàng ngũ diễn viên với diễn nữ sinh đại học được giao kèm cặp một cậu sinh viên ngỗ nghịch cùng tuổi do Kwon Sang-woo thủ vai để cả hai có thể tốt nghiệp cùng nhau trong bộ phim công phá phòng vé My Tutor Friend.[8] Vào năm 2004, Kim nhận vai chính trong bộ phim Too Beautiful to Lie, trong phim cô nhận vai một cựu phạm nhân đóng giả làm vợ chưa cưới của một người đàn ông bị áp lực phải kết hôn bởi gia đình.[9] Thông qua các vai diễn thành công, cô được báo chí Hàn Quốc đặt biệt danh "Nữ hoàng của thể loại phim hài lãng mạn".[10]
Cũng trong năm 2004, cô nhận vai chính trong bộ phim thể loại leo núi Ice Rain, phim kinh dị Dead Friend[11] và phim melodrama Stained Glass. Năm 2006, cô quay lại với thể loại hài lãng mạn quen thuộc với bộ phim Almost Love, hợp tác trở lại với bạn diễn Kwon Sang-woo của My Tutor Friend; trong phim, cô đóng vai một nữ diễn viên mắc chứng sợ hãi sân khấu.[12] Sau đó, Kim cũng nhận vai chính trong bộ phim Lovers of Six Years..[13]
2008–2012: Tiếp tục gia tăng phổ biến
[sửa | sửa mã nguồn]Vào năm 2008, Kim tham gia bộ phim Sóng gió hậu trường do Kim Eun-sook viết kịch bản mang đến cho người xem hậu trường của ngành giải trí. Trong phim, cô đóng vai nữ diễn viên hàng đầu với tính cách kiêu nghạo.[14][15] Bộ phim đã nâng cao độ nổi tiếng của cô và giúp cô đạt được giải thưởng nữ diễn viên xuất sắc nhất tại lễ trao giải thưởng phim truyền hình Hàn Quốc.[16][17] Một năm sau, Kim tham gia bộ phim hành động Bạn gái tôi là điệp viên.[18] Bộ phim đã công phá phòng vé Hàn Quốc và mang về vô số đánh giá tích cực về chất lượng.[19]
Vào năm 2010, Kim đóng vai một sinh viên y khoa bị giằng xé giữa hai người lính hai bên chiến tuyến của cuộc chiến tranh Triều Tiên trong bộ phim Tuyến đường số 1.[20][21][22] Mặc dù được quảng bá rầm rộ cùng với kinh phí lên tới 13 triệu ₩ nhưng bộ phim thu về lượng người xem thấp.[6][23][24]
Vào năm 2011, Kim trở lại với bộ phim kinh dị Blind với vai diễn một cựu thám tử khiếm thị là nhân chứng của một vụ giết người.[25] Với vai diễn này, cô đã đoạt giải nữ diên viên chính xuất sắc nhất tại lễ trao giải thưởng điện ảnh Daejong và giải thưởng điện ảnh Rồng Xanh.[26][27][28][29] Sau đó, Kim cũng đã tham gia bộ phim rom-com You're My Pet, chuyển thể từ bộ truyện Nhật Bản thể loại josei manga Kimi wa Petto.[30][31]
Vào năm 2012, Kim trở lại màn ảnh nhỏ với vai diễn giáo viên cấp ba môn đạo đức phải lòng một kiến trúc sư ăn chơi (đóng bởi Jang Dong-gun) trong bộ phim Phẩm chất quý ông.[32] Được thực hiện bởi chính đoàn làm bộ phim Sóng gió hậu trường (biên kịch Kim Eun-sook, đạo diễn Shin Woo-chul), bộ phim xoay quanh cuộc sống tình yêu của bốn người đàn ông trong độ tuổi 40.[33][34][35][36]
2015–nay: Trở lại màn ảnh
[sửa | sửa mã nguồn]Vào năm 2015, Kim nhận vai trong bộ phim Trung Quốc đầu tiên của cô với Making Family thuộc thể loại hài lãng mạn cùng Aarif Rahman.[37][38]
Năm 2016, Kim nhận vai trong bộ phim độc lập được gọi vốn cộng đồng Don't Forget Me cùng với bạn diễn Jung Woo-sung.[39] Vào tháng 9, cô trở lại màn ảnh nhỏ sau bốn năm với bộ phim thuộc thể loại melodrama On the Way to the Airport cùng với Lee Sang-yoon.[40][41]
Năm 2017, cô nhận vai chính trong bộ phim Misbehavior, với vai diễn một cô giáo bị ghét bỏ tại một trường trung học nam.[42][43] Sau đó, cô cũng góp mặt với một vai diễn khách mời trong bộ phim Thử thách thần chết: Giữa hai thế giới.[44]
Năm 2019, Kim trở lại màn ảnh nhỏ với bộ phim The Wind Blows phát sóng trên kênh JTBC.[45]
Năm 2020, Kim nhận vai chính trong bộ phim Trở lại tuổi 18, được làm lại từ phim điện ảnh Trở lại tuổi 17 đóng bởi Zac Efron.[46]
Vào tháng 3 năm 2021, Kim ký hợp đồng với IOK Company.[47]
Danh sách phim
[sửa | sửa mã nguồn]Phim điện ảnh
[sửa | sửa mã nguồn]Năm | Tựa đề | Vai diễn |
---|---|---|
1998 | Bye June | Yoo Chae-young |
1999 | Doctor K | Oh Sae-yeon |
2000 | Ditto | Yoon So-eun |
2003 | My Tutor Friend | Choi Su-wan |
2004 | Ice Rain | Kim Kyung-min |
Too Beautiful to Lie | Joo Young-ju | |
Dead Friend | Min Ji-won | |
2006 | Almost Love | Jin Dal-rae |
2008 | Lovers of Six Years | Lee Da-jin |
2009 | Bạn gái tôi là điệp viên | Ahn Soo-ji |
2011 | Blind | Min Soo-ah |
You're My Pet | Ji Eun-yi | |
2016 | Don't Forget Me | Jin-young |
Making Family | Go Mi-yeon | |
2017 | Misbehavior | Park Hyo-joo |
Savage Dog | Vợ của Steiner | |
Thử thách thần chết: Giữa hai thế giới | Chúa tể địa ngục của sự phản bội |
Phim truyền hình
[sửa | sửa mã nguồn]Năm | Tựa đề | Vai diễn | Kênh phát sóng |
---|---|---|---|
1999 | Happy Together | Jin Soo-ha | SBS |
Into the Sunlight | Kang Soo-bin | MBC | |
2000 | Secret | Lee Hee-jung | MBC |
2001 | Piano | Lee Soo-ah | SBS |
2002 | Romance | Kim Chae-won | MBC |
2004 | Stained Glass | Shin Ji-soo | SBS |
2006 | 90 Days, Time to Love | Go Mi-yeon | MBC |
2008 | Sóng gió hậu trường | Oh Seung-ah | SBS |
2009 | Paradise | Mi-kyung | SBS/TV Asahi |
2010 | Tuyến đường số 1 | Kim Soo-yeon | MBC |
2012 | Phẩm chất quý ông | Seo Yi-soo | SBS |
2016 | On the Way to the Airport | Choi Soo-ah | KBS2 |
2019 | The Wind Blows | Lee Soo-jin | JTBC |
2020 | Trở lại tuổi 18 | Jung Da-jung | JTBC |
Góp mặt trong video âm nhạc
[sửa | sửa mã nguồn]Năm | Bài hát | Nghệ sĩ |
---|---|---|
1998 | "To Heaven" | Jo Sung-mo |
2002 | "Last Promise" | Position |
2009 | "I Was Happy" | Jo Sung-mo[48] |
Danh sách đĩa nhạc
[sửa | sửa mã nguồn]Năm | Bài hát | Nghệ sĩ | Ghi chú |
---|---|---|---|
2008 | "Sky Love" | Kim Ha-neul | Nhạc phim Sóng gió hậu trường |
2011 | "Stars in the Night Sky" | Yang Jung-seung (Kiroy Y) feat. Kim Ha-neul |
Đĩa đơn |
"Bbuing Bbuing - You're My Pet Song"[49] |
Jang Keun-suk và Kim Ha-neul |
Nhạc phim You're My Pet | |
"I Only Look at You" | Jang Keun-suk và Kim Ha-neul | ||
"Good" | Kim Ha-neul |
Giải thưởng và đề cử
[sửa | sửa mã nguồn]Năm | Giải thưởng | Hạng mục | Đề cử | Kết quả | Ref. |
---|---|---|---|---|---|
1999 | Giải thưởng điện ảnh Rồng Xanh lần thứ 20 | Nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất | Doctor K | Đề cử | |
2000 | Giải thưởng điện ảnh Rồng Xanh lần thứ 21 | Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất | Ditto | Đề cử | |
2001 | Chunsa Film Art Awards lần thứ 9 | Nữ diễn viên mới xuất sắc nhất | Đề cử | ||
Giải thưởng phim truyền hình SBS | Nghệ sĩ được yêu mến | Piano | Đoạt giải | ||
2002 | Giải thưởng phim truyền hình MBC | Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất | Romance | Đoạt giải | |
2003 | Giải thưởng Nghệ thuật Baeksang lần thứ 39 | Nữ diễn viên được yêu thích nhất (phim điện ảnh) | My Tutor Friend | Đoạt giải | |
Giải thưởng điện ảnh Rồng Xanh lần thứ 24 | Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất | Đề cử | |||
2004 | Giải thưởng điện ảnh Rồng Xanh lần thứ 25 | Too Beautiful to Lie | Đề cử | ||
Giải thưởng Nghệ thuật Baeksang lần thứ 40 | Nữ diễn viên xuất sắc nhất (phim điện ảnh) | Đoạt giải | |||
Giải thưởng điện ảnh Daejong lần thứ 41 | Nữ diễn viên xuất sắc nhất | Đề cử | |||
2008 | Korea Fashion & Design Awards | Trang phục đẹp nhất | — | Đoạt giải | |
Giải thưởng điện ảnh Rồng Xanh lần thứ 29 | Nghệ sĩ được yêu mến | Lovers of Six Years | Đoạt giải | [50] | |
Giải thưởng phim truyền hình Hàn Quốc lần thứ 2 | Nữ diễn viên xuất sắc nhất | Sóng gió hậu trường | Đoạt giải | [17] | |
Giải thưởng phim truyền hình SBS | Đoạt giải | ||||
Top 10 nghệ sĩ | Đoạt giải | ||||
2009 | Giải thưởng điện ảnh Rồng Xanh lần thứ 30 | Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất | Bạn gái tôi là điệp viên | Đề cử | |
Max Movie Awards lần thứ 7 | Nữ diễn viên xuất sắc nhất | Đề cử | |||
2011 | Buil Film Awards lần thứ 20 | Blind | Đề cử | ||
Giải thưởng điện ảnh Daejong lần thứ 48 | Đoạt giải | [27][28] | |||
Giải thưởng điện ảnh Rồng Xanh lần thứ 32 | Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất | Đoạt giải | [29] | ||
2012 | K-Drama Star Awards lần thứ 1 | Nữ diễn viên xuất sắc nhất | Phẩm chất quý ông | Đề cử | |
Giải thưởng phim truyền hình SBS | Nữ diễn viên phim cuối tuần xuất sắc nhất | Đoạt giải | [51] | ||
Top 10 nghệ sĩ | Đoạt giải | ||||
Nghệ sĩ được yêu mến | Đoạt giải | ||||
2016 | Giải thưởng phim truyền hình KBS | Nữ diễn viên xuất sắc nhất | On the Way to the Airport | Đoạt giải | [52] |
Nữ diễn viên xuất sắc nhất hạng mục phim ngắn tập | Đề cử | ||||
Cặp đôi đẹp nhất với Lee Sang-yoon | Đoạt giải | ||||
2017 | Giải thưởng Nghệ thuật Baeksang lần thứ 53 | Nữ diễn phim xuất sắc nhất (phim truyền hình) | Đề cử | ||
Giải thưởng thời trang InStyle | — | Đoạt giải | |||
Chunsa Film Art Awards lần thứ 22 | Nữ diễn viên xuất sắc nhất | Misbehavior | Đề cử | ||
Buil Film Awards lần thứ 26 | Đề cử | ||||
2019 | Giải thưởng phim truyền hình Hàn Quốc lần thứ 12 | Nữ diễn viên xuất sắc nhất | The Wind Blows | Đề cử |
Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ “Kim Ha-neul to Get Married Next Year”. The Chosun Ilbo. 26 tháng 10 năm 2015. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2015.
- ^ Sung, So-young (24 tháng 10 năm 2015). “Kim Ha-neul to wed her boyfriend in March”. Korea JoongAng Daily. Truy cập ngày 10 tháng 11 năm 2015.
- ^ “Kim Ha-neul Expecting Baby”. The Chosun Ilbo. 12 tháng 10 năm 2017.
- ^ “Actress Kim Ha-neul Gives Birth to Her 1st Child”. The Chosun Ilbo. 29 tháng 5 năm 2018.
- ^ “Catholics produce Koinonia music video to welcome papal visit”. Korea.net. 11 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2015.
- ^ a b Wee, Geun-woo (6 tháng 8 năm 2010). “INTERVIEW: Actress Kim Ha-neul - Part 1”. TenAsia. Truy cập ngày 7 tháng 3 năm 2014.
- ^ KIM NA-HYEON; JIN MIN-JI (29 tháng 12 năm 2016). “Kim Ha-neul gives a new look to familiar role”. Korea JoongAng Daily.
- ^ Derek Elley (9 tháng 4 năm 2003). “Review: 'My Tutor Friend'”. Variety.
- ^ “Japanese Media: Kim Ha-neul More Popular than Choi Ji-woo”. Hancinema. 27 tháng 5 năm 2005.
- ^ Sung So-young (24 tháng 5 năm 2016). “'Rom-com queen' retakes the crown”. Korea JoongAng Daily.
- ^ “Kim Ha-neul, Song Yoon-ah Compete to be This Summer's Horror Queen”. The Chosun Ilbo. 2 tháng 6 năm 2004. Truy cập ngày 7 tháng 3 năm 2014.
- ^ “청춘만화 (Almost Love) Press Screening Report”. Twitch Film. 14 tháng 3 năm 2006. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 3 năm 2014. Truy cập ngày 7 tháng 3 năm 2014.
- ^ Lee, Hyo-won (15 tháng 1 năm 2008). “Actors Kim, Yoon Gossip About Love”. The Korea Times. Truy cập ngày 7 tháng 3 năm 2014.
- ^ Oh, Jean (26 tháng 2 năm 2008). “New SBS drama set to be a smash”. The Korea Herald via Hancinema. Truy cập ngày 23 tháng 7 năm 2014.
- ^ Kwon, Mee-yoo (27 tháng 2 năm 2008). “On Air Looks Into Making of Dramas”. The Korea Times. Truy cập ngày 7 tháng 3 năm 2014.
- ^ “Kim Ha-neul, Son Ye-jin, Soo Ae, Transformations of three 'pure ladies'”. Hancinema. 26 tháng 6 năm 2008.
- ^ a b Chung, Ah-young (2 tháng 11 năm 2008). “Actor Kim Wins Top Prize at Korea Drama Festival Awards”. The Korea Times. Truy cập ngày 6 tháng 3 năm 2013.
- ^ Yi Chang-ho (KOFIC) (22 tháng 12 năm 2008). “KIM Ha-neul in first action film”. Hancinema.
- ^ “"My Girlfriend is an Agent" Captivates Viewers' Hearts”. Hancinema. 12 tháng 5 năm 2009.
- ^ Wee, Geun-woo (13 tháng 5 năm 2010). “Kim Ha-neul says "first time receiving such a moving script"”. TenAsia. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 3 năm 2014. Truy cập ngày 7 tháng 3 năm 2014.
- ^ “Road No. 1 So Ji-sub and Kim Ha-neul”. MBC Global Media. 10 tháng 6 năm 2010. Truy cập ngày 11 tháng 11 năm 2012.
- ^ Han, Sang-hee (21 tháng 6 năm 2010). “Road No. 1 to feature war, love, comradeship”. The Korea Times. Truy cập ngày 7 tháng 3 năm 2014.
- ^ Kim, Jessica (21 tháng 6 năm 2010). “Kim Ha-neul says Road No. 1 once-in-a-decade drama”. TenAsia. Truy cập ngày 7 tháng 3 năm 2014.
- ^ Wee, Geun-woo (6 tháng 8 năm 2010). “INTERVIEW: Actress Kim Ha-neul - Part 2”. TenAsia. Truy cập ngày 7 tháng 3 năm 2014.
- ^ “김하늘-유승호, 휴먼스릴러 영화 '블라인드'서 연기 호흡” [Kim Ha-neul and Yoo Seung-ho will act together in the movie 'Blind']. bntnews. 2 tháng 11 năm 2010.
- ^ Sunwoo, Carla (12 tháng 9 năm 2012). “Kim Ha-neul reveals a close call”. Korea JoongAng Daily. Truy cập ngày 7 tháng 3 năm 2014.
- ^ a b Lee, Claire (18 tháng 10 năm 2011). “Kim Ha-neul, Park Hae-il get top honors at Daejong Film Awards”. The Korea Herald. Truy cập ngày 7 tháng 3 năm 2014.
- ^ a b “48th Daejong Film Awards Highlight Year's Best”. The Chosun Ilbo. 18 tháng 10 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 1 năm 2012. Truy cập ngày 7 tháng 3 năm 2014.
- ^ a b Lee, Claire (27 tháng 11 năm 2011). “The Unjust best picture at Blue Dragon Awards”. The Korea Herald. Truy cập ngày 11 tháng 11 năm 2012.
- ^ Lee, In-kyung (3 tháng 11 năm 2011). “Kim Ha Neul says, "I won't work with Jang Keun Suk again."”. enewsWorld. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 3 năm 2014. Truy cập ngày 7 tháng 3 năm 2014.
- ^ Lee, Nancy (13 tháng 12 năm 2011). “11 of '11: Hottest Heroine - Kim Ha Neul”. enewsWorld. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 3 năm 2014. Truy cập ngày 7 tháng 3 năm 2014.
- ^ Carla Sunwoo (10 tháng 2 năm 2012). “Kim Ha-neul cast as female lead in new drama”. Korea JoongAng Daily.
- ^ Oh, Jean (24 tháng 5 năm 2012). “Jang Dong-gun gets first 'proper' kiss scene”. The Korea Herald. Truy cập ngày 7 tháng 3 năm 2014.
- ^ Kim, Ji-yeon (24 tháng 6 năm 2012). “Kim Ha Neul Doesn't Believe in the Kim Ha Neul Effect”. enewsWorld. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 3 năm 2014. Truy cập ngày 7 tháng 3 năm 2014.
- ^ Kim, Ji-yeon (15 tháng 8 năm 2012). “Interview: Kim Ha Neul Dreams of a Big Proposal”. enewsWorld. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 7 tháng 3 năm 2014.
- ^ Kim, Ji-yeon (19 tháng 8 năm 2012). “Interview: Kim Ha Neul Says She's Matured Yet Again through A Gentleman's Dignity”. enewsWorld. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 7 tháng 3 năm 2014.
- ^ Jeong, Jee-won (6 tháng 11 năm 2014). “Kim Ha Neul Cast as Lead in Korean-Chinese Film Making Family”. enewsWorld. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 6 tháng 11 năm 2014.
- ^ “Kim Ha-neul's Korean-Chinese movie set for October release”. K-pop Herald. 11 tháng 2 năm 2014. Truy cập ngày 5 tháng 3 năm 2015.
- ^ Conran, Pierce (7 tháng 3 năm 2014). “KIM Ha-neul Joins JUNG Woo-sung on DON'T FORGET ME”. Korean Film Biz Zone. Truy cập ngày 7 tháng 3 năm 2014.
- ^ Sung So-young (24 tháng 5 năm 2016). “Kim Ha-neul to return to the drama scene”. Korea JoongAng Daily.
- ^ “Actress Kim Ha-neul Says Marriage Helps Her Take It Easy”. The Chosun Ilbo. 19 tháng 11 năm 2016.
- ^ Choi, He-suk (4 tháng 6 năm 2015). “Kim Ha-neul confirms The Teacher as new project”. K-pop Herald. Truy cập ngày 11 tháng 6 năm 2015.
- ^ Conran, Pierce (4 tháng 6 năm 2015). “FEMALE TEACHER in Session with KIM Ha-neul”. Korean Film Biz Zone. Truy cập ngày 11 tháng 7 năm 2015.
- ^ Ahn Sung-mi (9 tháng 5 năm 2016). “Lee Jung-jae, D.O., Kim Ha-neul join 'With God'”. Kpop Herald. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 2 năm 2021.
- ^ “Kam Woo-sung, Kim Ha-neul to Star in New TV Soap”. The Chosun Ilbo. 2 tháng 5 năm 2019.
- ^ S. Nam (11 tháng 11 năm 2020). “Kim Ha Neul, Yoon Sang Hyun, Lee Do Hyun, And More Bid Farewell To "18 Again" With Closing Remarks”. Soompi. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 12 tháng 11 năm 2021.
- ^ Kim Na-young (26 tháng 3 năm 2021). “싸이더스HQ 떠난 김하늘, 아이오케이와 전속계약…고현정과 한솥밥(공식)” [Kim Ha-neul, who left Sidus HQ, signed an exclusive contract with IOK… Go Hyun-jung and Hansotbap (Official)]. Mk Sport (bằng tiếng Hàn). Truy cập ngày 26 tháng 3 năm 2021.
- ^ “Actress Kim Ha-neul to Appear in Cho Sung-mo's Music Video”. KBS Global via Hancinema. 3 tháng 4 năm 2009.
- ^ Kim, Erika (20 tháng 10 năm 2011). “Kim Ha Neul and Jang Keun Suk Turn On the Cute for You're My Pet”. enewsWorld. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 3 năm 2014. Truy cập ngày 7 tháng 3 năm 2014.
- ^ “Blue Dragon Award Goes to Sports Drama”. Hancinema. 21 tháng 11 năm 2008.
- ^ “Big Winners of 2012 Announced at Drama Awards Ceremonies of Major Broadcasters”. 10Asia. 1 tháng 1 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 4 năm 2014.
- ^ “Winners of the 2016 KBS Drama Awards”. Asia Pacific Daily. 3 tháng 1 năm 2017.
Liên kết ngoài
[sửa | sửa mã nguồn]Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Kim Ha-neul. |
- Kim Ha-neul tại Korean Movie Database
- Kim Ha-neul trên IMDb