Mẹ

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Tranh vẽ quảng cáo về mẹ và con khoảng năm 1900
Tranh vẽ Charity (Từ thiện) của William-Adolphe Bouguereau, năm 1878

Mẹ thông thường được dùng để chỉ người phụ nữ mang thai, sinh ra và nuôi lớn đứa trẻ. Tuy nhiên, vì sự phức tạp và các khác biệt trong các định nghĩa và vai trò của người mẹ về mặt văn hóa, xã hội và tôn giáo nên rất khó có thể có một định nghĩa chung về mẹ được chấp nhận rộng khắp. Tương đương về phía nam giới là người cha.

Cách gọi khác[sửa | sửa mã nguồn]

Mẹ còn có các cách gọi khác theo từng địa phương như là: , mế, u, bầm, bu, đẻ, , cái, mẫu, , mạ, me, v.v. Chẳng hạn như trong các câu thơ sau:

Nàng về nuôi cái cùng con
Để anh đi trảy nước non Cao Bằng.
(Ca dao)
Bầm ơi có rét không bầm!
Heo heo gió núi, lâm thâm mưa phùn.
Bầm ra ruộng cấy bầm run
Chân lội dưới bùn, tay cấy mạ non.
(Tố Hữu)

Các kiểu mẹ[sửa | sửa mã nguồn]

Monumento a la Madre ở thành phố Mexico. Dòng chữ đề trên tượng đài có thể dịch như sau: Tặng người yêu thương chúng ta trước khi gặp chúng ta.
Mẹ và con gái trong trang phục truyền thống vùng Bregenz, Áo

Hiện tại, với các tiến bộ trong công nghệ sinh sản, chức năng làm mẹ sinh học có thể được chia ra giữa mẹ di truyền (người phụ nữ cung cấp trứng) và mẹ mang thai (người phụ nữ có thai, nói chung được biết đến như là mang thai hộ), cũng như mẹ xã hội (người nuôi dưỡng đứa trẻ). Mối liên hệ lành mạnh giữa người mẹ và đứa con tạo ra một nền tảng an toàn để sau này đứa trẻ có thể tự tin bước chân vào đời.

Mẹ đẻ[sửa | sửa mã nguồn]

Mẹ sinh học[sửa | sửa mã nguồn]

Trong trường hợp của con người, trước khi có sự mang thai hộ thì mẹ đẻ đồng nhất với mẹ sinh học. Mẹ sinh học là một phụ nữ mang thai (hay mang bầu) mang quả trứng đã được thụ tinh của chính mình (có thể thông qua giao hợp hay thụ tinh trong ống nghiệm). Bào thai phát triển từ trứng đã thụ tinh có thể sống được (tức là 'phôi thai'). Quá trình thai nghén diễn ra trong dạ con của người phụ nữ từ khi thụ thai cho tới khi bào thai (giả định rằng bào thai được phát triển cho tới kỳ ở cữ) phát triển đầy đủ để được sinh ra. Người phụ nữ trải qua cơn đau đẻ và sinh ra đứa trẻ. Thông thường chỉ một đứa trẻ được sinh ra trong mỗi ca đẻ. Sau đó người mẹ tiết sữa để nuôi con. Sữa mẹ là nguồn cung cấp các chất dinh dưỡng cần thiết nhất để nuôi đứa trẻ trong khoảng thời gian khoảng một năm (hoặc hơn thế). Bên cạnh đó, sữa non (loại sữa tiết ra nhiều nhất trong vòng 3 ngày đầu sau khi sinh con) cũng là nguồn cung cấp các kháng thể cho hệ miễn dịch của trẻ sơ sinh.

Mẹ mang thai hộ[sửa | sửa mã nguồn]

Mẹ mang thai hộ là khái niệm mới xuất hiện gần đây ở phương Tây. Mẹ mang thai hộ nói chung là người phụ nữ mang một phôi thai từ trứng đã được thụ tinh của người phụ nữ khác (thường là của các cặp vợ chồng không thể sinh con vì nhiều lý do khác nhau) cho tới khi sinh ra đứa trẻ. Vì thế mẹ mang thai hộ mang và sinh ra đứa trẻ mà về mặt sinh học thì bà không phải là mẹ của đứa trẻ ấy. Lưu ý rằng trường hợp này là không đồng nhất với trường hợp người phụ nữ mang thai thông qua thụ tinh trong ống nghiệm (in vitro).

Mẹ dưỡng[sửa | sửa mã nguồn]

Từ mẹ cũng được dùng để chỉ người phụ nữ không phải là mẹ về mặt sinh học (người mẹ cung cấp gen di truyền) hay người mẹ sinh ra trong trường hợp mang thai hộ, đặc biệt nếu như người phụ nữ ấy thực hiện vai trò xã hội chính trong việc nuôi dạy đứa trẻ kể từ sau khi đứa trẻ được sinh ra. Thường thì đó là mẹ nuôi (tức người nuôi dưỡng đứa trẻ, mặc dù định nghĩa mẹ nuôi về mặt luật pháp không nhất thiết phải là người nuôi dưỡng chính đối với đứa trẻ ấy) hoặc mẹ kế (còn gọi là mẹ ghẻ hay dì ghẻ, tức là người vợ của cha đứa trẻ nhưng không liên quan về mặt sinh học với đứa trẻ).

Mẹ (Bà Xơ)[sửa | sửa mã nguồn]

Trong Thiên Chúa giáo, các nữ tu sĩ thường được gọi là mẹ mỗi khi các tín đồ đến nhà thờ để làm lễ. Thể hiện sự kính trọng đối với các nữ tu.

Mẹ đỡ đầu: người đỡ đầu về vấn đề tâm linhtôn giáo trong cả tín hữu Thiên Chúa giáo.

Mẹ chồng, mẹ vợ[sửa | sửa mã nguồn]

Mẹ chồng[sửa | sửa mã nguồn]

Khi một người con gái về làm dâu thường gọi người mẹ bên chồng là mẹ chồng nhằm phân biệt với mẹ ruột.

Mẹ vợ[sửa | sửa mã nguồn]

Khi một người con trai về làm rể thường gọi người mẹ bên vợ là mẹ vợ nhằm phân biệt với mẹ ruột.

Vai trò[sửa | sửa mã nguồn]

Mẹ có công lớn nhất là nuôi dưỡng và giáo dục đối với đứa con mình sinh ra. Quá trình nuôi dưỡng bắt đầu sau khi mang thai và sau khi sinh cho đến khi trưởng thành. Chính vì đặc điểm đó mà người mẹ có vai trò đặc biệt với mỗi chúng ta.

Tình mẫu tử[sửa | sửa mã nguồn]

Là tình cảm thiêng liêng của người mẹ và người con, thể hiện sự gắn bó, quan tâm, chăm sóc, dưỡng dục...

Văn hóa[sửa | sửa mã nguồn]

Văn học[sửa | sửa mã nguồn]

Có rất nhiều câu thơ, câu ca về tình mẹ.

Mẹ già như chuối ba hương
Như xôi nếp mật, như đường mía lau
(Ca dao)
Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu
Mới là đạo con
Ai ơi hãy nhớ ơn này...
(ca dao)
Con dù lớn vẫn là con của mẹ,
Đi hết đời, lòng mẹ vẫn theo con
(Chế Lan Viên)
Ta mê mãi trên bàn chân rong ruổi
Mắt mẹ già thầm lặng dõi sau lưng
(Đỗ Trung Quân)

Âm nhạc[sửa | sửa mã nguồn]

Kịch[sửa | sửa mã nguồn]

  • Bông hồng cài áo (Kim Cương)

Cải lương[sửa | sửa mã nguồn]

  • Bông hồng cài áo (Hoàng Khâm)

Hình ảnh Mẹ và Con[sửa | sửa mã nguồn]

Tình mẫu tử ở giới động vật

Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]