SMS Kurfürst Friedrich Wilhelm

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
A large gray battleship with two tall masts sits idly in calm waters. Three small boats are tied alongside.
Thiết giáp hạm SMS Kurfürst Friedrich Wilhelm
Lịch sử
Đức
Tên gọi SMS Kurfürst Friedrich Wilhelm
Đặt tên theo Frederick William I
Xưởng đóng tàu Kaiserliche Werft Wilhelmshaven
Đặt lườn tháng 5 năm 1890
Hạ thủy 30 tháng 6 năm 1891
Nhập biên chế 29 tháng 4 năm 1894
Số phận Bán cho Đế quốc Ottoman
Lịch sử
Ottoman Navy EnsignĐế quốc Ottoman
Tên gọi Barbaros Hayreddin
Đặt tên theo Barbaros Hayreddin Paşa
Trưng dụng 12 tháng 9 năm 1910
Số phận Bị tàu ngầm Anh E11 đánh chìm, 8 tháng 8 năm 1915
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu Lớp thiết giáp hạm Brandenburg
Trọng tải choán nước 10.670 t (10.500 tấn Anh)
Chiều dài 115,7 m (379 ft 7 in)
Sườn ngang 19,5 m (64 ft 0 in)
Mớn nước 7,6 m (24 ft 11 in)
Động cơ đẩy
Tốc độ 17 hải lý trên giờ (31 km/h)
Tầm xa 4.500 hải lý (8.300 km) ở tốc độ 10 hải lý trên giờ (20 km/h)
Tầm hoạt động 1.050 t (1.030 tấn Anh) than
Thủy thủ đoàn tối đa 568
Vũ khí
  • 4 × pháo 28 cm (11 in) K L/40 (2×2);
  • 2 × pháo 28 cm (11 in) BL/35 (1×2);
  • 8 × pháo 10,5 cm (4,1 in) QF;
  • 8 × pháo 8,8 cm (3,5 in) QF;
  • 6 × ống phóng ngư lôi 45 cm (18 in)
Bọc giáp

SMS Kurfürst Friedrich Wilhelm[Ghi chú 1] là một trong những thiết giáp hạm[Ghi chú 2] hoạt động biển khơi đầu tiên được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo. Con tàu được đặt tên theo Frederick William I, Hoàng tử Đại cử tri[Ghi chú 3] của Brandenburg. Nó là chiếc thứ tư, cũng là chiếc cuối cùng, thuộc lớp thiết giáp hạm tiền-dreadnought Brandenburg, cùng với các tàu chị em Brandenburg WeißenburgWörth. Nó được đặt lườn vào năm 1890 tại Xưởng tàu Đế chếWilhelmshaven, được hạ thủy năm 1891 và hoàn tất vào năm 1893 với chi phí 11,23 triệu Mác. Lớp Brandenburg mang tính độc đáo vì là những thiết giáp hạm duy nhất vào lúc đó mang sáu khẩu pháo hạng nặng thay vì bốn khẩu vốn là tiêu chuẩn cho hải quân các nước khác.

Kurfürst Friedrich Wilhelm chỉ có những phục vụ hạn chế cùng Hải quân Đức. Nó cùng với ba con tàu chị em tham gia chiến dịch lớn đầu tiên vào năm 19001901, khi được bố trí đến Trung Quốc hỗ trợ dập tắt cuộc Nổi dậy Nghĩa Hòa Đoàn. Con tàu trải qua một đợt hiện đại hóa trong những năm 19041905. Đến năm 1910, Kurfürst Friedrich Wilhelm được bán cho Đế quốc Ottoman và được đổi tên thành Barbaros Hayreddin, nơi nó hoạt động tích cực trong các cuộc Chiến tranh Balkan, tham gia hai trận hải chiến đối đầu với Hải quân Hy Lạp vào tháng 12 năm 1912tháng 1 năm 1913,[1] và bắn pháo hỗ trợ cho lực lượng bộ binh Ottoman tại Thrace. Vào ngày 8 tháng 8 năm 1915, sau khi Chiến tranh Thế giới thứ nhất bùng nổ, nó trúng phải ngư lôi phóng từ tàu ngầm Anh E11 và bị chìm ngoài khơi Dardanelles với tổn thất nhân mạng nặng nề.

Thiết kế và chế tạo[sửa | sửa mã nguồn]

Kurfürst Friedrich Wilhelm, chiếc thứ tư cũng là chiếc cuối cùng trong lớp Brandenburg, được đặt hàng dưới cái tên tạm thời D.[2] Nó được đặt lườn tại Xưởng tàu Đế chếWilhelmshaven vào năm 1890, và là chiếc đầu tiên trong lớp của nó được hạ thủy, vào ngày 30 tháng 6 năm 1891. Kurfürst Friedrich Wilhelm được đưa ra hoạt động cùng hạm đội vào ngày 29 tháng 4 năm 1894, cùng ngày với con tàu chị em Brandenburg.[3] Công việc chế tạo Kurfürst Friedrich Wilhelm đã làm tiêu tốn Hải quân Đức 11,23 triệu Mác.[4]

Kurfürst Friedrich Wilhelm dài 115,7 m (379 ft 7 in), mạn thuyền rộng 19,5 m (64 ft 0 in) vốn tăng lên đến 19,74 m (64,8 ft) nếu bổ sung thêm lưới chống ngư lôi, và độ sâu của mớn nước là 7,6 m (24 ft 11 in) phía trước và 7,9 m (26 ft) phía sau. Con tàu có trọng lượng choán nước thiết kế là 10.013 t (9.855 tấn Anh), và lên đến 10.670 t (10.501 tấn Anh) khi đầy tải chiến đấu. Nó được trang bị hai bộ động cơ hơi nước ba buồng bành trướng 3 xy-lanh tạo ra một công suất 10.000 mã lực chỉ (7.457 kW) và đạt được tốc độ tối đa 16,9 hải lý trên giờ (31,3 km/h; 19,4 mph) khi chạy thử máy. Hơi nước được cung cấp bởi mười hai nồi hơi hình trụ đặt ngang. Nó có tầm hoạt động tối đa 4.300 hải lý (8.000 km; 4.900 mi)[chuyển đổi: tùy chọn không hợp lệ] khi đi đường trường với tốc độ 10 hải lý trên giờ (19 km/h; 12 mph).[2]

Con tàu khá bất thường vào thời đó khi sở hữu đến sáu khẩu pháo hạng nặng bắn qua mạn trên ba tháp pháo nòng đôi, thay vì chỉ có bốn khẩu đối với thiết giáp hạm vào thời đó.[5] Các tháp pháo phía trước và phía sau trang bị pháo 28 cm (11 in) K L/40,[Ghi chú 4] trong khi các khẩu pháo giữa tàu thuộc kiểu ngắn hơn L/35. Dàn pháo hạng hai bao gồm tám khẩu 10,5 cm (4,1 in) SK L/35 bố trí trong các tháp pháo ụ cùng tám khẩu 8,8 cm (3,5 in) SK L/30 cũng trong các tháp pháo ụ. Kurfürst Friedrich Wilhelm còn có sáu ống phóng ngư lôi 45 cm (17,7 in), tất cả đều đặt trên các bệ xoay bên trên mực nước.[2]

Lịch sử hoạt động[sửa | sửa mã nguồn]

Sau khi được đưa vào hoạt động, Kurfürst Friedrich Wilhelm được phân về Đội 1 thuộc Hải đội Chiến trận 1 cùng với ba con tàu chị em.[6] Chúng được tháp tùng bởi bốn chiếc thuộc tàu frigate bọc sắt cũ hơn thuộc lớp Sachsen của Đội 2, cho dù đến năm 19011902, những chiếc lớp Sachsen được thay thế bởi những thiết giáp hạm mới lớp Kaiser Friedrich III.[7] Con tàu là nền tảng huấn luyện cho nhiều vị tư lệnh tương lai của Hạm đội Biển khơi Đức, trong đó có cả các đô đốc Reinhard ScheerFranz von Hipper, cả hai từng phục vụ như là sĩ quan hoa tiêu trên con tàu tương ứng từ mùa Xuân đến mùa Thu năm 1897 và từ tháng 10 năm 1898 đến tháng 9 năm 1899.[8][9]

Trấn áp cuộc nổi dậy Nghĩa Hòa Đoàn[sửa | sửa mã nguồn]

Kurfürst Friedrich Wilhelm tham gia hoạt động quân sự lớn đầu tiên vào năm 1900, khi Đội 1 được phái đến Trung Quốc trong cuộc Nổi dậy Nghĩa Hòa Đoàn.[5] Người Trung Quốc theo chủ nghĩa dân tộc bất bình đã bao vây các sứ quán nước ngoài tại Bắc Kinh và giết hại Công sứ Đức, Nam tước Clemens von Ketteler. Số binh lính có mặt tại Trung Quốc không đủ để đánh bại những người phản kháng.[10] Hải đội Đông Á Đức Quốc vào lúc đó chỉ bao gồm các tàu tuần dương bảo vệ Kaiserin Augusta, HansaHertha, các tàu tuần dương nhỏ IreneGefion cùng các pháo hạm JaguarIltis.[11]

Một lực lượng viễn chinh được tập hợp bao gồm bốn chiếc lớp Brandenburg, sáu tàu tuần dương, mười tàu chở hàng, ba tàu phóng lôi và sáu tiểu đoàn thủy binh, tất cả được đặt dưới quyền chỉ huy của Thống chế Alfred von Waldersee.[12] Đô đốc Alfred von Tirpitz đã phản đối kế hoạch này vì ông cho rằng nó không cần thiết và tốn kém,[13] nhưng bất chấp điều đó, chiến dịch vẫn tiến hành. Lực lượng chỉ đến được Trung Quốc vào tháng 9 năm 1900, khi mà cuộc phong tỏa Bắc Kinh đã được phá vỡ.[14] Kết quả là lực lượng Đức chỉ tham gia trấn áp các vụ nổi dậy lẻ tẻ trong khu vực phụ cận Giao Châu. Cuối cùng, chiến dịch đã làm tiêu tốn chính phủ Đức hơn 100 triệu Mác.[13]

Tái cấu trúc và phục vụ cùng Hải quân Ottoman[sửa | sửa mã nguồn]

Vào năm 1904, Kurfürst Friedrich Wilhelm đi vào xưởng tàu Xưởng tàu Đế chế ở Wilhelmshaven cho một đợt tái cấu trúc đáng kể.[2] Sau khi hoàn tất việc hiện đại hóa vào năm 1905, nó gia nhập trở lại hạm đội thường trực. Tuy nhiên, nó cùng với các tàu chị em nhanh chóng bị lạc hậu do việc hạ thủy chiếc HMS Dreadnought vào năm 1906. Kết quả là chúng chỉ có những phục vụ giới hạn.[5] Vào ngày 12 tháng 9 năm 1910, Kurfürst Friedrich Wilhelm cùng với Weißenburg, những chiếc có tình trạng tốt nhất trong lớp, được bán cho Hải quân Ottoman và được đổi tên tương ứng thành Barbaros HayreddinTurgut Reis, theo tên các vị đô đốc Ottoman lừng danh vào Thế kỷ 16 Hayreddin BarbarossaTurgut Reis.[15][16][17] Tuy nhiên Hải quân Ottoman gặp khó khăn trong việc bố trí hai con tàu, họ phải trưng dụng thủy thủ hiện dịch từ phần còn lại của hạm đội để tập hợp thành thủy thủ đoàn của con tàu.[18] Một năm sau đó, vào tháng 9 năm 1911, Ý tuyên chiến với Đế quốc Ottoman. Barbaros Hayreddin cùng với Turgut Reis và chiếc tàu chiến bọc sắtMesudiye, vốn được chế tạo từ giữa những năm 1870, đang trong một chuyến đi huấn luyện mùa Hè từ tháng 7, đã chuẩn bị sẵn sàng cho cuộc xung đột; cho dù vậy, các con tàu trải qua cuộc chiến tranh bên trong cảng.[17]

Chiến tranh Balkan[sửa | sửa mã nguồn]

Cuộc Chiến tranh Balkan thứ nhất nổ ra vào tháng 10 năm 1912, khi Liên minh Balkan tấn công Đế quốc Ottoman. Giống như đa số các tàu chiến của hạm đội Ottoman vào lúc đó, tình trạng vật chất của Barbaros Hayreddin rất kém. Trong chiến tranh, nó tiên hành thực tập tác xạ cùng với các tàu chiến chủ lực khác của Hải quân Ottoman, hộ tống các đoàn tàu vận tải chuyển quân, và bắn phá các cơ sở đối phương dọc bờ biển.[16] Vào ngày 17 tháng 11 năm 1912, Barbaros HayreddinMesudiye bắn phá các vị trí của Bulgaria hỗ trợ cho Quân đoàn 1, có sự hỗ trợ của trinh sát pháo binh trên bờ.[19] Trình độ tác xạ của các con tàu rất kém, nhưng nó giúp nâng cao tinh thần bộ binh Ottoman phòng thủ đang trú ẩn tại Çatalca.[20]

Tranh mô tả hạm đội Hy Lạp trong trận Elli

Cuối năm 1912, Hải quân Ottoman tìm cách tấn công lực lượng Hải quân Hy Lạp đang phong tỏa Dardanelles. Barbaros Hayreddinsoái hạm của hạm đội vào lúc đó. Hai cuộc đụng độ đã diễn ra: cuộc Hải chiến Elli vào ngày 16 tháng 12 năm 1912, tiếp nối bằng cuộc Hải chiến Lemnos vào ngày 18 tháng 1 năm 1913. Trận thứ nhất có sự hỗ trợ của các khẩu đội phòng thủ duyên hải Ottoman; cả hai phía Ottoman và Hy Lạp chỉ có những thiệt hại nhẹ, nhưng Ottoman không thể đột phá qua hạm đội Hy Lạp và phải rút lui trở lại Dardanelles.[1] Hạm đội Ottoman khởi hành từ Dardanelles lúc 09 giờ 30 phút, các tàu chiến nhỏ ở lại cửa eo biển trong khi các thiết giáp hạm tiến lên phía Bắc, bám sát bờ biển. Hạm đội Hy Lạp, bao gồm tàu tuần dương bọc thép Georgios Averof và ba tàu chiến bọc sắt lớp Hydra xuất phát từ đảo Lemnos, đổi hướng đi sang Đông Bắc nhằm ngăn chặn hướng tiến của các tàu chiến Ottoman. Các tàu chiến Ottoman khai hỏa nhắm vào lực lượng Hy Lạp lúc 09 giờ 50 phút ở cự ly khoảng 15.000 yd (14.000 m), phía Hy Lạp bắn trả mười phút sau đó khi khoảng cách rút ngắn còn 8.500 yd (7.800 m). Đến 10 giờ 04 phút, các tàu chiến Ottoman quay mũi 16 point (180°) lộn ngược trở lại vùng an toàn gần eo biển.[21] Trong vòng một giờ, các con tàu Ottoman rút lui vào Dardanelles. Trận này được xem là một thắng lợi của phía Hy Lạp, vì hạm đội Ottoman tiếp tục bị vây hãm.[1]

Trận hải chiến Lemnos xuất phát từ một kế hoạch của phía Ottoman nhằm đánh lừa chiếc Georgios Averof nhanh hơn ra cách xa Dardanelles. Để thực hiện, tàu tuần dương bảo vệ Hamidiye đã né tránh sự phong tỏa của Hy Lạp và thoát ra biển Aegean. Bất chấp mối đe dọa của tàu tuần dương đối phương, vị tư lệnh Hy Lạp từ chối không cho tách Georgios Averof ra. Tin rằng kế hoạch đã thành công, Barbaros Hayreddin, Turgut Reis và các đơn vị hạm đội Ottoman khác rời Dardanelles vào sáng ngày 18 tháng 1 di chuyển về hướng đảo Lemnos. Georgios Averof đã đánh chặn lực lượng Ottoman ở khu vực cách đảo Lemnos khoảng 12 nmi (22 km), buộc các con tàu Ottoman phải rút lui. Một cuộc đấu pháo tầm xa kéo dài trong hai giờ bắt đầu lúc vào khoảng 11 giờ 25 phút; về cuối trận chiến, Georgios Averof thu ngắn khoảng cách với đối phương xuống còn 5.000 yd (4.600 m) và ghi nhiều phát bắn trúng vào hạm đội Ottoman đang rút chạy.[21] Tháp pháo của cả Barbaros Hayreddin và con tàu chị em đều bị bắn hỏng bởi hải pháo đối phương và bốc cháy; cả hai đã bắn khoảng 800 quả đạn pháo, hầu hết là từ dàn pháo chính 28 cm (11 in) mà không thành công.[22] Đây là lần nỗ lực cuối cùng của hạm đội Ottoman muốn thoát ra biển Aegean trong chiến tranh.

Ngày 8 tháng 2 năm 1913, Hải quân Ottoman hỗ trợ một cuộc đổ bộ lên Şarköy. Barbaros HayreddinTurgut Reis cùng với nhiều tàu tuần dương đã bắn pháo hỗ trợ ở cách bờ khoảng 1 km (1.100 yd).[23] Các con tàu đã hỗ trợ cho cánh trái của bộ binh Ottoman sau khi đổ bộ. Quân đội Bulgaria kháng cự một cách ngoan cường, cuối cùng buộc phía Ottoman phải rút lui. Việc rút lui thành công phần lớn là nhờ hỏa lực pháo hỗ trợ từ Barbaros Hayreddin và phần còn lại của hạm đội. Trong trận đánh, nó đã bắn 250 quả đạn pháo 10,5 cm (4,1 in) và 180 quả đạn từ pháo hạng hai 8,8 cm (3,5 in).[24]

Vào tháng 3 năm 1913, con tàu quay trở lại Hắc Hải tiếp nối việc hỗ trợ các lực lượng trú đóng tại Çatalca, vốn đang bị quân đội Bulgaria tấn công. Vào ngày 26 tháng 3, pháo 28 cm (11 in) và 10,5 cm (4,1 in) của Barbaros HayreddinTurgut Reis đã giúp đẩy lùi các cuộc tiến quân của Lữ đoàn 2 thuộc Sư đoàn Bộ binh Bulgaria 1.[25] Đến ngày 30 tháng 3, cánh trái của phòng tuyến Ottoman chuyển sang truy kích lực lượng Bulgaria đang rút lui. Cuộc tấn công được hỗ trợ bởi cả pháo binh trên bộ lẫn pháo hạng nặng của Barbaros Hayreddin, cho phép bộ binh Ottoman tiến được 1.500 m (1.600 yd) cho đến chiều tối. Để đối phó, phía Bulgaria phải huy động Lữ đoàn 1 ra tuyến đầu, đẩy lui lực lượng Ottoman trở lại tuyến xuất phát.[26]

Chiến tranh Thế giới thứ nhất[sửa | sửa mã nguồn]

Mùa Hè năm 1914, Chiến tranh Thế giới thứ nhất nổ ra tại Châu Âu, cho dù Ottoman tiếp tục giữ vị thế trung lập cho đến đầu tháng 11, khi các hoạt động của tàu chiến-tuần dương Đức Goeben, vốn được chuyển cho Hải quân Ottoman và được đổi tên thành Yavus Sultan Selim, đưa đến việc tuyên chiến của Nga, PhápAnh Quốc.[27] Trong giai đoạn 19141915, một số khẩu pháo của con tàu được tháo dỡ để lắp đặt như pháo phòng thủ duyên hải tăng cường cho việc phòng thủ bảo vệ Dardanelles.[22] Vào ngày 8 tháng 8 năm 1915, Barbaros Hayreddin đang trên đường đi hỗ trợ lực lượng Ottoman phòng thủ tại Dardanelles khi nó bị tàu ngầm Anh E 11 đánh chặn[28] ngoài khơi Bolayır trong biển Marmara.[22] Chiếc tàu ngầm đánh trúng Barbaros Hayreddin một quả ngư lôi; chiếc tàu tuần dương chìm với tổn thất 253 người thiệt mạng.[5]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

Ghi chú[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ "SMS" là từ viết tắt trong tiếng Đức của "Seiner Majestät Schiff", có nghĩa "tàu của đức vua", tương đương với HMS trong tiếng Anh.
  2. ^ Vào lúc Kurfürst Friedrich Wilhelm được đặt lườn, Hải quân Đức gọi con tàu này là "tàu bọc thép" (tiếng Đức: Panzerschiffe) thay vì "thiết giáp hạm" (Schlachtschiff). Xem Gröner 1990, tr. 13.
  3. ^ Kurfürst là danh hiệu của Frederick William, có nghĩa Hoàng tử Đại cử tri, là những thành viên trong Hội đồng bầu cử của Đế quốc Thần thánh La Mã có quyền bầu ra chức vị Hoàng đế Đức.
  4. ^ Trong thuật ngữ pháo của Hải quân Đế quốc Đức, "K" viết tắt từ Kanone (pháo), trong khi L/40 cho biết chiều dài nòng pháo. Trong trường hợp này, pháo L/40 có nghĩa 40 caliber, tức là nòng pháo dài gấp 40 lần so với đường kính trong.

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b c Hall 2000, tr. 64–65
  2. ^ a b c d Gröner 1990, tr. 13
  3. ^ Gardiner, Chesneau & Kolesnik 1979, tr. 247
  4. ^ Weir 1992, tr. 23
  5. ^ a b c d Hore 2006, tr. 66
  6. ^ Gardiner & Gray 1985, tr. 141
  7. ^ Herwig 1980, tr. 45
  8. ^ Sweetman 1997, tr. 401
  9. ^ Philbin 1982, tr. 94
  10. ^ Holborn 1982, tr. 311
  11. ^ Perry 2001, tr. 28
  12. ^ Herwig 1980, tr. 106
  13. ^ a b Herwig 1980, tr. 103
  14. ^ Sondhaus 2001, tr. 186
  15. ^ Gröner 1990, tr. 14
  16. ^ a b Erickson 2003, tr. 131
  17. ^ a b Sondhaus 2001, tr. 218
  18. ^ Childs 1990, tr. 24
  19. ^ Hall 2000, tr. 36
  20. ^ Erickson 2003, tr. 133
  21. ^ a b Fotakis 2005, tr. 50
  22. ^ a b c Gardiner & Gray 1985, tr. 390
  23. ^ Erickson 2003, tr. 264
  24. ^ Erickson 2003, tr. 270
  25. ^ Erickson 2003, tr. 288
  26. ^ Erickson 2003, tr. 289
  27. ^ Staff 2006, tr. 19
  28. ^ Halpern 1995, tr. 119

Thư mục[sửa | sửa mã nguồn]

  • Childs, Timothy (1990). Italo-Turkish Diplomacy and the War Over Libya, 1911–1912. BRILL. ISBN 978-90-04-09025-5.
  • Erickson, Edward J. (2003). Defeat in detail: the Ottoman Army in the Balkans, 1912–1913. Greenwood Publishing Group. ISBN 978-0-275-97888-4.
  • Fotakis, Zisis (2005). Greek naval strategy and policy, 1910–1919. Routledge. ISBN 978-0-415-35014-3.
  • Gardiner, Robert; Chesneau, Roger; Kolesnik, Eugene M. biên tập (1979). Conway's All the World's Fighting Ships: 1860–1905. London: Conway Maritime Press. ISBN 978-0-85177-133-5.
  • Gardiner, Robert; Gray, Randal biên tập (1985). Conway's All the World's Fighting Ships: 1906–1921. Annapolis: Naval Institute Press. ISBN 978-0-87021-907-8.
  • Gröner, Erich (1990). German Warships: 1815–1945. Annapolis: Naval Institute Press. ISBN 978-0-87021-790-6.
  • Halpern, Paul G. (1995). A Naval History of World War I. Annapolis: Naval Institute Press. ISBN 978-1-55750-352-7.
  • Holborn, Hajo (1982). A History of Modern Germany: 1840–1945. Princeton University Press. ISBN 978-0-691-00797-7. Chú thích có tham số trống không rõ: |1= (trợ giúp)
  • Hall, Richard C. (2000). The Balkan Wars, 1912–1913: prelude to the First World War. Routledge. ISBN 978-0-415-22946-3.
  • Herwig, Holger (1980). "Luxury" Fleet: The Imperial German Navy 1888–1918. Amherst, New York: Humanity Books. ISBN 978-1-57392-286-9.
  • Hore, Peter (2006). The Ironclads. London: Southwater Publishing. ISBN 978-1-84476-299-6.
  • Perry, Michael (2001). Peking 1900: the Boxer rebellion. Oxford: Osprey Publishing. ISBN 978-1-84176-181-7.
  • Philbin, Tobias R. III (1982). Admiral Hipper:The Inconvenient Hero. John Benjamins Publishing Company. ISBN 978-90-6032-200-0.
  • Sondhaus, Lawrence (2001). Naval warfare, 1815–1914. Routledge. ISBN 978-0-415-21478-0.
  • Staff, Gary (2006). German Battlecruisers: 1914–1918. Oxford: Osprey Books. ISBN 978-1-84603-009-3.
  • Sweetman, Jack (1997). The Great Admirals: Command at Sea, 1587–1945. Naval Institute Press. ISBN 978-0-87021-229-1.
  • Weir, Gary E. (1992). Building the Kaiser's Navy: The Imperial Navy Office and German Industry in the Tirpitz Era, 1890–1919. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN 978-1-55750-929-1. OCLC 22665422.