USS Begor (APD-127)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Tàu vận chuyển cao tốc Begor (APD-127) trong khi triệt thoái khỏi Hŭngnam, Triều Tiên, ngày 24 tháng 12 năm 1950.
Lịch sử
Hoa Kỳ
Tên gọi USS Begor
Đặt tên theo Fay B. Begor
Xưởng đóng tàu Defoe Shipbuilding Co., Bay City, Michigan
Đặt lườn 6 tháng 3, 1944 như là DE-711
Hạ thủy 25 tháng 5, 1944
Người đỡ đầu bà Katherine A. Begor
Nhập biên chế 14 tháng 3, 1945
Tái biên chế 20 tháng 11, 1961
Xuất biên chế
Xếp lớp lại
Xóa đăng bạ 15 tháng 5, 1975
Danh hiệu và phong tặng 5 × Ngôi sao Chiến trận
Số phận Bán để tháo dỡ, 6 tháng 12, 1976
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu Lớp Crosley
Kiểu tàu Tàu vận chuyển cao tốc
Trọng tải choán nước
Chiều dài
  • 300 ft (91,4 m) (mực nước)
  • 306 ft (93,3 m) (chung)
Sườn ngang 36 ft 6 in (11,1 m)
Mớn nước 12 ft 7 in (4 m) (đầy tải)
Công suất lắp đặt 12.000 bhp (8.900 kW)
Động cơ đẩy
  • 2 × nồi hơi ống nước Foster-Wheeler kiểu Express "D"
  • 2 × turbine hơi nước General Electric, dẫn động hai máy phát điện công suất 9.200 kilôwatt (12.300 hp)
  • 2 × động cơ điện
  • 2 × chân vịt ba cánh đường kính 8 ft 6 in (2,59 m)
Tốc độ 23,6 hải lý trên giờ (43,7 km/h)
Tầm xa 6.000 nmi (11.000 km) ở tốc độ 12 kn (22 km/h)
Số tàu con và máy bay mang được 4 × xuồng đổ bộ LCVP
Quân số 12 sĩ quan, 150 binh lính
Thủy thủ đoàn tối đa 15 sĩ quan, 168 thủy thủ
Hệ thống cảm biến và xử lý
  • Radar: Kiểu SL dò tìm mặt biển
  • Kiểu SC và Kiểu SA dò tìm không trung
Vũ khí

USS Begor (APD-127/LPR-127) là một tàu vận chuyển cao tốc lớp Crosley, nguyên được cải biến từ chiếc DE-711, một tàu hộ tống khu trục lớp Rudderow, và đã phục vụ cùng Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này, theo tên Trung úy Hải quân Fay Broughton Begor (1916-1942), Bác sĩ quân y từng phục vụ cùng Mặt trận Tây Nam Thái Bình Dương, đã tử thương tại Lae, New Guinea vào ngày 9 tháng 9, 1943 và được truy tặng Huân chương Chữ thập Hải quân.[1] Nó đã phục vụ cho đến khi Thế Chiến II kết thúc, rồi tiếp tục phục vụ trong cuộc Chiến tranh Triều Tiên và giai đoạn tiếp theo, cho đến khi xuất biên chế vào năm 1959. Con tàu được huy động trở lại để phục vụ một thời gian ngắn từ năm 1961 đến năm 1962, được xếp lại lớp như là chiếc LPR-127, và cuối cùng bị bán để tháo dỡ vào năm 1976. Begor được tặng thưởng năm Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Chiến tranh Triều Tiên.

Thiết kế và chế tạo[sửa | sửa mã nguồn]

Thiết kế của lớp Crosley dựa trên việc cải biến lớp tàu hộ tống khu trục Rudderow. Cấu trúc thượng tầng con tàu được mở rộng, đồng thời tháo dỡ bớt vũ khí trang bị để lấy chỗ bố trí nơi nghỉ cho 162 binh lính được vận chuyển cùng khoảng 40 tấn trang bị. Hệ thống động lực tương tự như với các lớp BuckleyRudderow; là kiểu động cơ turbine-điện General Electric, cung cấp điện năng cho mô-tơ điện để dẫn động hai trục chân vịt.[2][3]

Dàn vũ khí được giữ lại bao gồm một khẩu pháo 5 inch (130 mm)/38 cal bố trí một phía trước mũi; ba khẩu đội pháo phòng không Bofors 40 mm nòng đôi và sáu pháo phòng không Oerlikon 20 mm; vũ khí chống ngầm gồm hai đường ray Mk. 9 để thả mìn sâu.[4][5] Thủy thủ đoàn đầy đủ bao gồm 15 sĩ quan và 168 thủy thủ; và con tàu được bố trí tiện nghi để vận chuyển 12 sĩ quan cùng 150 binh lính đổ bộ.[4]

Begor được đặt lườn như là chiếc DE-711 tại xưởng tàu của hãng Defoe Shipbuilding Co.Bay City, Michigan vào ngày 6 tháng 3, 1944. Nó được hạ thủy vào ngày 25 tháng 5, 1944, được đỡ đầu bởi bà Katherine A. Begor, vợ góa của Trung úy Bác sĩ Begor. Đang khi được hoàn thiện, con tàu được xếp lại lớp như một tàu vận chuyển cao tốc vào ngày 17 tháng 7, 1944, mang ký hiệu lườn mới APD-127, và nhập biên chế cùng Hải quân Hoa Kỳ vào ngày 14 tháng 3, 1945 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Thiếu tá Hải quân Benjamin T. Brooks.[1][6][7]

Lịch sử hoạt động[sửa | sửa mã nguồn]

Thế Chiến II[sửa | sửa mã nguồn]

Được phân về Hạm đội Thái Bình Dương, Begor rời vùng bờ Đông, băng qua kênh đào Panama và đi đến Trân Châu Cảng vào ngày 30 tháng 5, 1945. Sau khi được huấn luyện đổ bộ tại vùng biển Hawaii, con tàu hộ tống các đoàn tàu vận tải đi lại giữa các quần đảo Marshall, CarolinePhilippine từ tháng 6 đến tháng 8, và đang trong hành trình hướng sang quần đảo Mariana, nhưng vẫn đang trên đường đi khi Nhật Bản chấp nhận đầu hàng vào ngày 15 tháng 8, 1945, giúp chấm dứt vĩnh viễn cuộc xung đột.[1]

Đi đến Guam vào ngày 17 tháng 8, Begor khởi hành ba ngày sau đó cùng với Đội phá hoại dưới nước (UDT: Underwater Demolition Team) 21 trên tàu, gia nhập Đệ Tam hạm đội để làm nhiệm vụ chiếm đóng. Sau khi đi đến vịnh Sagami vào ngày 27 tháng 8, những người nhái thuộc Đội UDT-21 bắt đầu trinh sát dưới nước từ ngày 30 tháng 8, phá hủy các chướng ngại vật nhằm chuẩn bị cho việc đổ bộ của lực lượng chiếm đóng. Nó chuyển đến Căn cứ Hải quân Yokosuka để giúp vào việc giải giới các tàu chiến cũ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản tại đây, cũng như khảo sát các phương tiện cảng. Nó lên đường vào ngày 25 tháng 9 để quay trở về Hoa Kỳ, về đến San Diego, California vào ngày 21 tháng 10.[1]

1945 - 1949[sửa | sửa mã nguồn]

Begor hoạt động huấn luyện và bảo trì thường lệ tại vùng bờ Tây cho đến tháng 6, 1946, khi nó lên đường đi sang đảo Bikini tại quần đảo Marshall, để hoạt động như tàu điều khiển thiết bị không người lái trong Chiến dịch Crossroads nhằm thử nghiệm bom nguyên tử. Quay trở về vào tháng 10, nó tiếp tục các hoạt động thường lệ trong thời bình dọc theo vùng bờ Tây, và từng thực hiện hai lượt phục vụ tại khu vực Tây Thái Bình Dương từ tháng 7, 1947 đến tháng 2, 1948, và từ tháng 8 đến tháng 12, 1949.[1]

Chiến tranh Triều Tiên[sửa | sửa mã nguồn]

Begor (phía trước) ngoài khơi Hŭngnam, Bắc Triều Tiên, lúc đang phá hủy các cơ sở và tiếp liệu của lực lượng Liên Hiệp Quốc tại Hungnam vào ngày 24 tháng 12 năm 1950, ngày cuối cùng của cuộc triệt thoái lực lượng Liên Hiệp Quốc khỏi Hungnam trong cuộc Chiến tranh Triều Tiên.

Sau khi Chiến tranh Triều Tiên bùng nổ vào ngày 25 tháng 6, 1950, Begor có lượt phục vụ thứ nhất trong cuộc xung đột này từ ngày 7 tháng 12, 1950 đến tháng 9, 1951. Từ ngày 9 đến ngày 24 tháng 12, 1950, nó tham gia cuộc triệt thoái khỏi Hŭngnam, rồi cho đổ bộ các đội UDT và lực lượng biệt kích Commando Anh lên hậu tuyến của đối phương cho những nhiệm vụ trinh sát và phá hoại. Đến ngày 7 tháng 4, 1951, trong thành phần Lực lượng Đặc nhiệm 74, nó cùng tàu tuần dương hạng nặng Saint Paul (CA-73), các tàu khu trục Wallace L. Lind (DD-703)Massey (DD-778), cùng tàu đốc đổ bộ Fort Marion (LSD-22) tiến hành các cuộc đột kích do 250 binh lính thuộc Đội Commando 41 thực hiện nhắm vào các tuyến đường sắt và đường hầm. Kết quả của các cuộc đột kích này làm giảm khả năng tiếp tế của đối phương, buộc họ phải chuyển công việc sửa chữa đường sắt sang ban đêm và cất giấu đầu máy xe lửa trong đường hầm vào ban ngày.[1]

Lượt phục vụ thứ hai của Begor, kéo dài từ ngày 14 tháng 11, 1952 đến ngày 12 tháng 8, 1953, bao gồm các chuyến tuần tra và các hoạt động phá hoại của các đội UDT. Sau khi đạt được thỏa thuận ngừng bắn, nó tham gia Chiến dịch Big Switch nhằm trao đổi tù binh giữa các bên tham chiến.[1]

1954 - 1962[sửa | sửa mã nguồn]

Sau đó Begor luân phiên các hoạt động huấn luyện và bảo trì thường lệ trong thời bình dọc theo vùng bờ Tây với các lượt phục vụ tại Viễn Đông. Trong chuyến đi kéo dài từ tháng 7, 1954 đến tháng 3, 1955, nó đã tham gia vào Chiến dịch Con đường đến Tự do (Passage to Freedom) nhằm vận chuyển người di cư từ Bắc Việt Nam vào Nam Việt Nam từ ngày 16 tháng 8 đến ngày 30 tháng 9, 1954.[1]

Begor được cho xuất biên chế tại San Diego vào ngày 20 tháng 7, 1959[1][6][7] và được đưa về thành phần dự bị. Con tàu được đưa trở lại biên chế một giai đoạn ngắn từ ngày 20 tháng 11, 1961 đến ngày 13 tháng 7, 1962,[1][6][7] vào lúc xảy ra vụ Khủng hoảng tên lửa Cuba. Nó được xếp lại lớp vào ngày 1 tháng 1, 1969 như một "tàu vận chuyển đổ bộ, nhỏ" với ký hiệu lườn LPR-127,[1][6][7] nhưng tiếp tục bị bỏ không trong thành phần dự bị. Tên nó được cho rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 15 tháng 5, 1975,[1][6][7] và con tàu bị bán cho hãng National Metal and Steel Corporation tại Terminal Island, California vào ngày 6 tháng 12, 1976 để tháo dỡ.[1][6][7]

Phần thưởng[sửa | sửa mã nguồn]

Begor được tặng thưởng năm Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong cuộc Chiến tranh Triều Tiên.[1][6]

Bản mẫu:Ribbon devices/alt
Bản mẫu:Ribbon devices/alt Bản mẫu:Ribbon devices/alt Bản mẫu:Ribbon devices/alt
Bản mẫu:Ribbon devices/alt Bản mẫu:Ribbon devices/alt
Silver star
Bản mẫu:Ribbon devices/alt
Bản mẫu:Ribbon devices/alt Bản mẫu:Ribbon devices/alt Bản mẫu:Ribbon devices/alt
Huân chương Phục vụ Trung Hoa
(mở rộng)
Huân chương Chiến dịch Hoa Kỳ Huân chương Chiến dịch Châu Á-Thái Bình Dương Huân chương Chiến thắng Thế Chiến II
Huân chương Phục vụ Chiếm đóng Hải quân Huân chương Phục vụ Phòng vệ Quốc gia Huân chương Phục vụ Triều Tiên
với 5 Ngôi sao Chiến trận
Huân chương Giải phóng Philippine
(Philippine)
Huân chương Liên Hiệp Quốc Phục vụ Triều Tiên Huân chương Phục vụ Chiến tranh Triều Tiên
(Hàn Quốc) (truy tặng)

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b c d e f g h i j k l m n Naval Historical Center. Begor (APD-127). Dictionary of American Naval Fighting Ships. Navy Department, Naval History and Heritage Command.
  2. ^ Friedman 1982
  3. ^ Rivet, Eric; Stenzel, Michael. “Classes of Destroyer Escorts”. History of Destroyer Escorts. Destroyer Escort Historical Museum. Truy cập ngày 13 tháng 5 năm 2022.
  4. ^ a b Whitley 2000, tr. 300–301.
  5. ^ Friedman 1982, tr. 146, 418.
  6. ^ a b c d e f g Yarnall, Paul R. (18 tháng 3 năm 2022). “USS Begor (LPR-127) ex. USS Begor (APD-127)”. NavSource.org. Truy cập ngày 13 tháng 5 năm 2022.
  7. ^ a b c d e f Helgason, Guðmundur. “USS Begor (APD 127)”. uboat.net. Truy cập ngày 13 tháng 5 năm 2021.

Thư mục[sửa | sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]