USS McNulty (DE-581)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Tàu hộ tống khu trục USS McNulty (DE-581)
Lịch sử
Hoa Kỳ
Tên gọi USS McNulty
Đặt tên theo John Thomas McNulty
Xưởng đóng tàu Xưởng tàu Bethlehem-Hingham, Hingham, Massachusetts
Đặt lườn 17 tháng 11, 1943
Hạ thủy 8 tháng 1, 1944
Người đỡ đầu bà Helen K. McNulty
Nhập biên chế 31 tháng 3, 1944
Xuất biên chế 2 tháng 7, 1946
Xóa đăng bạ 1 tháng 3, 1972
Danh hiệu và phong tặng 2 × Ngôi sao Chiến trận
Số phận Đánh chìm như mục tiêu, 16 tháng 11, 1972
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu Lớp Rudderow
Kiểu tàu Tàu hộ tống khu trục
Trọng tải choán nước
Chiều dài
  • 300 ft (91,4 m) (mực nước)
  • 306 ft (93,3 m) (chung)
Sườn ngang 36 ft 6 in (11,1 m)
Mớn nước 11 ft (3,4 m) (đầy tải)
Công suất lắp đặt 12.000 bhp (8.900 kW)
Động cơ đẩy
  • 2 × nồi hơi ống nước Foster-Wheeler kiểu Express "D"
  • 2 × turbine hơi nước General Electric, dẫn động hai máy phát điện công suất 9.200 kilôwatt (12.300 hp)
  • 2 × động cơ điện
  • 2 × chân vịt ba cánh đường kính 8 ft 6 in (2,59 m)
Tốc độ 24 kn (44 km/h)
Tầm xa 5.500 nmi (10.200 km) ở tốc độ 15 kn (28 km/h)
Thủy thủ đoàn tối đa 15 sĩ quan, 168 thủy thủ
Hệ thống cảm biến và xử lý
  • Radar: Kiểu SL dò tìm mặt biển
  • Kiểu SC và Kiểu SA dò tìm không trung
  • Sonar: Kiểu 128D hoặc Kiểu 144 trong vòm thu vào được
  • Định vị: ăn-ten MF trước cầu tàu, ăn-ten HF/DF Kiểu FH 4 trên cột ăn-ten.
Vũ khí

USS McNulty (DE-581) là một tàu hộ tống khu trục lớp Rudderow từng phục vụ cùng Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này, theo tên Trung úy Hải quân John Thomas McNulty (1897-1942), người từng phục vụ cùng tàu tuần dương hạng nậng Astoria (CA-34) và đã tử trận vào ngày 9 tháng 8, 1942 trong Trận chiến đảo Savo.[1] Nó đã phục vụ cho đến khi chiến tranh kết thúc, xuất biên chế năm 1946, rồi cuối cùng bị đánh chìm như mục tiêu vào năm 1972. McNulty được tặng thưởng hai Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.

Thiết kế và chế tạo[sửa | sửa mã nguồn]

Lớp Rudderow có thiết kế hầu như tương tự với lớp Buckley trước đó; vì giữ lại kiểu động cơ turbine-điện General Electric, cung cấp điện năng cho mô-tơ điện để dẫn động hai trục chân vịt. Lớp này còn được gọi là kiểu TEV, do hệ thống động lực Turbo-Electric và cỡ pháo 5-inch (V).[2][3]

Dàn pháo chính được nâng cấp lên hai khẩu pháo 5 inch (130 mm)/38 cal trên hai tháp pháo nòng đơn, được phân bố một phía trước mũi và một phía sau tàu. Hỏa lực phòng không được nâng lên hai khẩu đội pháo phòng không Bofors 40 mm nòng đôi và mười pháo phòng không Oerlikon 20 mm. Vũ khí chống ngầm bao gồm một dàn súng cối chống tàu ngầm Hedgehog Mk. 10 (có 24 nòng và mang theo 144 quả đạn); hai đường ray Mk. 9 và tám máy phóng K3 Mk. 6 để thả mìn sâu.[4][5] Con tàu vẫn giữ lại ba ống phóng ngư lôi Mark 15 21 inch (533 mm), và được trang bị radar SL dò tìm không trung và radar SC/SA dò tìm mặt biển. Thủy thủ đoàn đầy đủ bao gồm 15 sĩ quan và 168 thủy thủ.[4]

McNulty được đặt lườn tại Xưởng tàu Bethlehem-HinghamHingham, Massachusetts vào ngày 17 tháng 11, 1943. Nó được hạ thủy vào ngày 8 tháng 1, 1944, được đỡ đầu bởi bà Helen K. McNulty, và nhập biên chế cùng Hải quân Hoa Kỳ vào ngày 31 tháng 3, 1944 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Thiếu tá Hải quân William Croft Jennings.[1][6][7]

Lịch sử hoạt động[sửa | sửa mã nguồn]

Sau khi hoàn tất việc chạy thử máy huấn luyện tại khu vực Bermuda, McNulty tiếp tục thực hành huấn luyện dọc theo vùng bờ Đông cho đến khi khởi hành từ vịnh Chesapeake vào ngày 23 tháng 6 để hộ tống cho Đoàn tàu UGS-46 vượt Đại Tây Dương để đi sang Địa Trung Hải. Đoàn tàu phải đối đầu với một đợt tấn công của Không quân Đức vào ngày 12 tháng 7 trước khi đi đến Bizerte, Tunisia vào ngày 13 tháng 7. Sau một chuyến hộ tống vận tải ven biển đến New York, nó lại lên đường cho chuyến hộ tống vận tải vượt đại dương tiếp theo, xuất phát từ Norfolk, Virginia để đi Bizerte và quay trở về New York. Sau đó con tàu chuẩn bị để được điều sang khu vực Mặt trận Thái Bình Dương.[1]

Cùng với Đội hộ tống 67, McNulty lên đường vào ngày 3 tháng 11, và khi đi đến Hollandia, New Guinea vào ngày 17 tháng 12 đã gia nhập Đệ Thất hạm đội. Từ ngày 19 tháng 12, 1944 đến ngày 2 tháng 1, 1945, nó hộ tống một đoàn tàu vận tải đi từ Hollandia sang Leyte, Philippines, rồi tiếp tục lên đường một ngày sau đó, cùng Đội đặc nhiệm 78.9 vận chuyển lực lượng tăng viện đi sang khu vực vịnh Lingayen. Đoàn tàu phải chịu đựng các đợt tấn công tự sát của máy bay Kamikaze đối phương ngoài khơi Luzon trong ngày 12 tháng 1, khiến hai tàu buôn bị hư hại và hơn 100 binh lính trên tàu thiệt mạng. Nó hộ tống đoàn tàu đi đến vịnh Lingayen vào ngày 13 tháng 1, rồi lên đường quay trở lại Leyte, đến nơi vào ngày 19 tháng 1.[1]

USS McNulty bị đánh chìm như mục tiêu vào năm 1972.

Trong khi lực lượng tấn công đổ bộ lên San Narciso, Zambales vào ngày 29 tháng 1, McNulty đã tuần tra ngoài khơi các bãi đổ bộ nhằm khóa chặt bán đảo Bataan ngăn không cho lực lượng Nhật Bản rút lui khỏi Manila. Con tàu tiếp tục vai trò tuần tra và hộ tống vận tải tại các khu vực Philippines, quần đảo Admiralty, New Guinea và Okinawa cho đến khi Nhật Bản chấp nhận đầu hàng vào ngày 15 tháng 8, giúp chấm dứt vĩnh viễn cuộc xung đột.[1]

Khởi hành từ vịnh Subic vào ngày 1 tháng 9 để hỗ trợ cho lực lượng chiếm đóng, McNulty đã hộ tống cho tàu bệnh viện Relief (AH-1) đi từ Okinawa sang Triều Tiên, rồi hoạt động dọc theo bờ biển Trung Quốc cho đến khi rời Okinawa vào ngày 14 tháng 10 để quay trở về Hoa Kỳ. Về đến San Diego, California vào ngày 5 tháng 11, nó được cho rút biên chế vào ngày 2 tháng 7, 1946,[1][6][7] và đưa về Hạm đội Dự bị Thái Bình Dương. Con tàu được rút tên khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 1 tháng 3, 1972,[1][6][7] và bị đánh chìm như một mục tiêu bởi một quả bom nhiệt áp ngoài khơi bờ biển California vào ngày 16 tháng 11, 1972.[1][6][7]

Phần thưởng[sửa | sửa mã nguồn]

McNulty được tặng thưởng hai Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.[1][6]

Bản mẫu:Ribbon devices/alt Bản mẫu:Ribbon devices/alt
Bronze star
Bronze star
Bản mẫu:Ribbon devices/alt
Bản mẫu:Ribbon devices/alt Bản mẫu:Ribbon devices/alt Bản mẫu:Ribbon devices/alt
Dãi băng Hoạt động Tác chiến
(truy tặng)
Huân chương Chiến dịch Hoa Kỳ Huân chương Chiến dịch Châu Á-Thái Bình Dương
với 2 Ngôi sao Chiến trận
Huân chương Chiến dịch Châu Âu-Châu Phi-Trung Đông Huân chương Chiến thắng Thế Chiến II Huân chương Giải phóng Philippine
(Philippine)

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b c d e f g h i Naval Historical Center. McNulty (DE-581). Dictionary of American Naval Fighting Ships. Navy Department, Naval History and Heritage Command. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2022.
  2. ^ Friedman 1982
  3. ^ Rivet, Eric; Stenzel, Michael. “Classes of Destroyer Escorts”. History of Destroyer Escorts. Destroyer Escort Historical Museum. Truy cập ngày 4 tháng 5 năm 2022.
  4. ^ a b Whitley 2000, tr. 300–301.
  5. ^ Friedman 1982, tr. 146, 418.
  6. ^ a b c d e Yarnall, Paul R. (6 tháng 10 năm 2018). “USS McNulty (DE 581)”. NavSource.org. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2022.
  7. ^ a b c d Helgason, Guðmundur. “USS McNulty (DE 581)”. uboat.net. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2021.

Thư mục[sửa | sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]