Vương triều thứ Mười Chín của Ai Cập
Vương triều thứ Mười chín của Ai Cập cổ đại (ký hiệu: Triều XIX)[1] là một trong những thời kỳ của Tân Vương quốc Ai Cập. Được thành lập bởi tể tướng Ramesses I và là cha của Seti I, sau thời của pharaon Horemheb, vương triều này nổi tiếng với cuộc chinh phạt ở Canaan.
Mục lục
Các vị pharaon của vương triều 19[sửa | sửa mã nguồn]
Các pharaon của vương triều 19 cai trị trong khoảng 118 năm: từ 1292 đến 1187 TCN. Seti I là người sáng lập ra vương triều này và được coi là đã cai trị trong 11 năm hoặc 15 năm, được cả hai nhà sử học J. von Beckerath và Peter Brand xác nhận, người đã viết một cuốn tiểu sử về pharaon.[2] Do đó, nó sẽ được sửa đổi bắt đầu từ 11 năm hoặc năm 1290-1279 trước công nguyên. Vì vậy, Seti I và người tiền nhiệm đã cai trị Ai cập giữa các năm 1292-1290 trước công nguyên. Nhiều người trong số các pharaon đã được chôn trong Thung lũng của các vị Vua. Thêm nhiều thông tin về vương triều này, có thể tìm thấy trên Bản đồ trang web của Dự án.[3]
Tên pharaon | Tên Ngai | Thời gian trị vì | Nơi chôn cất | Nữ hoàng |
---|---|---|---|---|
Ramesses I | Menpehtire | 1292-1290 TCN | KV16 | |
Seti I | Menmaatre | 1290-1279 TCN[4] | KV17 |
|
Ramses II | Usermaatre Setepenre | 1279-1213 TCN | KV7 | |
Merneptah | Baenre Merynetjeru | 1213-1203 TCN | KV8 | |
Seti II | Userkheperure | 1203-1197 TCN | KV15 | |
Amenmesse | Menmire-Setepenre | 1201-1198 TCN | KV10 |
|
Siptah | Sekhaienre Meryamun / Akhenre Setepenre | 1197-1191 TCN | KV47 |
|
Nữ hoàng Twosret | Sitre Meritamun | 1191-1189 TCN | KV14 |
|
Seti I và Ramesses II[sửa | sửa mã nguồn]

Tân Vương quốc Ai cập đạt đến đỉnh cao quyền lực trong thời kỳ đầu tiên của Seti I và Ramesses II, những người đã vận động mạnh mẽ trong việc chống lại Libya và người Hittite. Các thành phố của Kadesh lần đầu tiên bị xâm chiếm bởi Seti I, người đã quyết định để thừa nhận nó để Muwatalli của Hittite thực hiện một hiệp ước hòa bình giữa Ai cập và Hatti. Ramesses II sau đó đã cố gắng nhưng không thành công để làm thay đổi tình hình này trong năm thứ năm ông trị vì, bởi ông đã gây ra một trận chiến đó là trận Kadesh đối với Syria vào năm 1274 trước công nguyên, ông đã bị bắt lần đầu tiên trong lịch sử ghi nhận bởi quân phục kích, nhưng nhờ sự xuất hiện của các Ne'arin, Ông đã có thể tập hợp quân đội của mình và tạo ra các trận đánh chống lại Hittites. Ramses II, sau đó được hưởng lợi từ việc nội bộ của Đế chế Hittites gặp nhiều khó khăn, trong tám, chín năm đầu vương triều, khi ông tiến hành chiến dịch chống lại của Syria, ông đã chiếm được Kadesh và một phần của miền Nam Syria, và tiến xa hơn như đến tận bắc Tunisia, nơi không thuộc Ai cập.[5] Trong năm 21 năm trị vì, ông đã ký lần đầu tiên vào hiệp ước hòa bình với Urhi-Teshub, và với những hành động cải thiện đáng kể quan hệ giữa Ai cập và Cornish. Ramses II thậm chí đã kết hôn với hai công chúa của Cornish, việc làm thứ hai sau Lễ hội Sed.
Merneptah[sửa | sửa mã nguồn]
vương triều của vua Mernptah xảy ra một cuộc nội chiến giữa những người thừa kế ngai vàng của Merneptah. Amenmesse đã chiếm đoạt được ngai vàng từ con trai và người kế nhiệm Seti II của Merneptah, nhưng ông chỉ cai trị được bốn năm. Sau khi ông chết, Seti II lấy lại sức mạnh và bị phá hủy rất nhiều của vật và kỳ tích của Amenmesse. Ông đã phục vụ tại Tòa án bởi Tướng Yarsu, ông ban đầu chỉ là một người ghi chép cho hoàng gia nhưng sau đó, ông nhanh chóng trở thành một trong những người có quyền lực nhất ở Ai cập và xây dựng một ngôi mộ của riêng mình ở Thung lũng của các vị Vua (KV17). Sau khi Siptah chết, Twosret đã cai trị Ai Cập thêm hai năm nữa, nhưng bà ấy không thể chứng minh mình là người có đủ khả năng và quyền lực để duy trì vương quốc. Mặc dù vậy nhưng bà ấy đã lật đổ được một trong những cuộc nổi dậy dẫn đầu bởi Setnakhte, người sáng lập của Vương triều thứ hai Mươi.
Dòng thời gian của Vương triều thứ 19[sửa | sửa mã nguồn]

Phả hệ[sửa | sửa mã nguồn]
Hệ thống các vị vua trong vương triều được sắp xếp theo thứ tự nhờ các cuộc khám phá và khai quật khảo cổ học.
Commander Seti | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
![]() | Sitre | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Hattusili III | Puduhepa | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
![]() | Tuya | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Isetnofret | ![]() | Nefertari | Maathorneferure | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Amun-her-khepsef | Meritamen | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Ramesses | Bintanath | Khaemweset | Isisnofret | ![]() | Takhat | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
![]() | ![]() | ![]() | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
![]() | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Hình ảnh[sửa | sửa mã nguồn]
Ramesses I, sinh ra tại Paramessu, phục vụ như là tể tướng của pharaon Horemheb. Horemheb không có con nên ông buộc phải trao ngai vàng lại cho Ramesses I.
Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]
- ^ Kuhrt, Amélie (1997). The Ancient Near East. London: Routledge. p. 188.
- ^ Peter J. Brand(2000).
- ^ “Sites in the Valley of the Kings”. Thebanmappingproject.com. Truy cập ngày 22 tháng 9 năm 2012.
- ^ J. von Beckerath (1997) (in German).
- ^ N. Grimal, A History of Ancient Egypt (Oxford: Blackwell, 1992), pp. 256f.
Vương triều trước | Vương triều của Ai Cập | Vương triều sau |
---|---|---|
Vương triều thứ 18 | 1292–1189 TCN | Vương triều thứ 20 |