Yaya Sanogo

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Yaya Sanogo
Sanogo thi đấu cho Charlton Athletic năm 2016
Thông tin cá nhân
Tên đầy đủ Yaya Sanogo[1]
Ngày sinh 27 tháng 1, 1993 (31 tuổi)[2]
Nơi sinh Massy, Pháp
Chiều cao 1,91 m (6 ft 3 in)[3]
Vị trí Tiền đạo cắm
Thông tin đội
Đội hiện nay
Urartu
Số áo 99
Sự nghiệp cầu thủ trẻ
Năm Đội
2005–2006 Les Ulis
2006–2010 Auxerre
Sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp*
Năm Đội ST (BT)
2009–2012 Auxerre B 31 (15)
2010–2013 Auxerre 21 (11)
2013–2017 Arsenal 11 (0)
2015Crystal Palace (mượn) 10 (0)
2015–2016Ajax (mượn) 3 (0)
2015Jong Ajax (mượn) 3 (0)
2016Charlton Athletic (mượn) 8 (3)
2017–2020 Toulouse 63 (12)
2021 Huddersfield Town 9 (0)
2023– Urartu 1 (2)
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia
Năm Đội ST (BT)
2008–2009 U-16 Pháp 18 (18)
2009–2010 U-17 Pháp 16 (9)
2010–2011 U-19 Pháp 9 (2)
2013 U-20 Pháp 10 (5)
2011–2014 U-21 Pháp 8 (5)
Thành tích huy chương
Bóng đá nam
Đại diện cho  Pháp
FIFA U-20 World Cup
Vô địch Thổ Nhĩ Kỳ 2013
*Số trận ra sân và số bàn thắng ở câu lạc bộ tại giải quốc gia, chính xác tính đến 21:56, 28 tháng 1 năm 2023 (UTC)
‡ Số trận ra sân và số bàn thắng ở đội tuyển quốc gia, chính xác tính đến 22:05, 13 tháng 2 năm 2016 (UTC)

Yaya Sanogo (sinh ngày 27 tháng 1 năm 1993) là một cầu thủ người Pháp gốc Bờ Biển Ngà hiện thi đấu ở vị trí tiền đạo cắm cho câu lạc bộ Armenian Premier League Urartu. Anh cũng đã chơi cho Auxerre, ArsenalToulouse, và trải qua thời gian cho mượn với Crystal Palace, Ajax, Charlton AthleticHuddersfield Town. Anh là cựu tuyển thủ trẻ quốc tế của Pháp, và là thành viên của đội đã giành được FIFA U-20 World Cup 2013.

Sự nghiệp[sửa | sửa mã nguồn]

Từng tham gia thi tuyển vào học viện bóng đá danh giá Clairfontaine nhưng không thành công, Yaya Sanogo gia nhập một câu lạc bộ khác ở Paris là CO Les Ulis. Anh có một năm ở đấy trước khi được ký hợp đồng bởi Auxerre. Sanago nhanh chóng chứng tỏ được bản thân sau một loạt màn trình diễn ấn tượng ở các giải đấu trẻ và nhanh chóng thu hút sự chú ý của những câu lạc bộ ở châu âu như Arsenal hay Tottenham Hotspur. Tuy vậy, anh quyết định ký hợp đồng chuyên nghiệp đầu tiên có thời hạn 3 năm với Auxerre vào ngày 27 tháng 9 năm 2010.

Auxerre[sửa | sửa mã nguồn]

Sanogo có trận đấu đầu tiên trong màu áo Auxerre ở trận đấu với Sedan ở cúp quốc gia Pháp, anh khoác áo số 19. Trận đấu kết thúc với chiến thắng trên chấm penalty cho các cầu thủ Auxerre. Trận ra mắt ở giải vô địch quốc gia của Sanogo là khi anh vào sân từ ghế dự bị trong thất bại 2-1 trước Lyon vào ngày 5 tháng 10 năm 2010. Vào ngày 18 tháng 9 năm 2010, Sanogo bị gãy xương ống chân trong một trận đấu với Mulhouse trong màu áo đội dự bị Auxere. Hai ngày sau anh được xác nhận phải rời xa sân cỏ trong vòng 5 tháng. Chấn thương đó khiến Sanogo không có một trận đấu nào cho đội một suốt mùa giải 2010-11. Mãi đến đầu mùa giải 2011-12, Sanogo mới trở lại trong trận thắng Nancy với tỉ số 2-1 ở cúp quốc gia Pháp. Bàn thắng chính thức đầu tiên của Sanogo cho Auxere đến vào ngày 6 tháng 11, anh mở tỉ số trong chiến thắng 2-0 trước Toulouse. Bắt đầu mùa giải 2012-13, với việc Auxere xuống hạng lần đầu tiên kể từ năm 1980, Sanogo cũng chỉ được sử dụng nhiều hơn ở giai đoạn lược về của mùa giải. Anh tạo ấn tượng mạnh với 4 bàn thắng ghi vào lưới Stade lavallois MFC vào ngày 1 tháng 2 năm 2013, trận đấu kết thúc với chiến thắng 5-4 cho Auxerre. Chỉ một tuần sau, lại là Sanogo giải cứu đội bóng với 3 bàn thắng giúp Auxerre thắng nghẹt thở Tours 3-2. Kết thúc mùa giải, Sanogo ghi được 10 bàn trong 13 trận ra sân qua đó nhận được sự quan tâm của nhiều câu lạc bộ lớn trong đó có Arsenal.

Arsenal[sửa | sửa mã nguồn]

Vào ngày 1 tháng 7 năm 2013, Nguồn tin được xác nhận rằng Sanogo đã ký một hợp đồng dài hạn với Arsenal. Anh được trao áo số 22, số áo trước đó đều được nắm giữ bởi 2 người pháp là Gael Clichy và Francis Coquelin - người trước đó được cho mượn tới SC Freiburg. Sanogo có trận đấu ra mắt Arsenal khi anh vào sân thay cho Lukas Podolski trong chiến thắng 3-1 trước Fulham. Tuy nhiên, Sanogo đã dính một chấn thương vào giữa tháng chín khi thực hiện nghĩa vụ quốc gia trong màu áo U-21 Pháp. Từ đó dù không chơi thêm trận nào cho Arsenal, anh vẫn được đề cử cho giải thưởng "Golden Boy" do tạp chí Tuttosport sáng lập.

Phong cách chơi bóng[sửa | sửa mã nguồn]

Sanogo là một mẫu cầu thủ có thể chất ấn tượng, người ngoài thể hình đồ sộ, sức mạnh tuyệt đối còn có tốc độ nhanh như điện xẹt và sự nhanh nhẹn có thể làm bất kì một hậu vệ nào phải sợ hãi. Anh cho rằng những tố chất đó anh rèn luyện được trong những trận đấu 5 chọi 5 bất tận khi còn chơi cho CO Les Ulis. Sanogo còn sở hữu khả năng tiếp bóng tốt và khả năng giữ bóng khi quay lưng về phía khung thành đối phương để làm tường cho đồng đội, giống như tiền đạo chính hiện tại của Arsenal là Olivier Giroud. Không giống đàn anh đồng hương, Sanogo còn có thể sử dụng sức mạnh và tốc độ bùng nổ của mình để vượt qua hậu về đối phương để dứt điểm đầy tự tin.[4]

Thống kê sự nghiệp[sửa | sửa mã nguồn]

Thống kê câu lạc bộ[sửa | sửa mã nguồn]

Cập nhật vào 12 tháng 9 năm 2015

Mùa giải Câu lạc bộ Giải vô địch Cúp quốc gia Cúp liên đoàn Châu Âu Khác Tổng
Hạng Trận Bàn Trận Bàn Trận Bàn Trận Bàn Trận Bàn Trận Bàn
Auxerre 2009–10 Ligue 1 1 0 1 0 2 0
2010–11 Ligue 1 0 0 0 0 0 0 0 0
2011–12 Ligue 1 7 1 2 0 9 1
2012–13 Ligue 2 13 10 0 0 13 10
Tổng 21 11 3 0 0 0 24 11
Arsenal 2013–14 Premier League 8 0 4 0 0 0 2 0 14 0
2014–15 Premier League 3 0 0 0 0 2 1 1 0 6 1
Crystal Palace (mượn) 2014–15 Premier League 10 0 1 1 0 0 11 1
Ajax (mượn) 2015–16 Eredivisie 3 0 0 0 2 0 5 0
Tổng sự nghiệp 76 26 8 1 0 0 6 1 1 0 91 28

Danh hiệu[sửa | sửa mã nguồn]

FA Cup 2014

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ “Barclays Premier League squad numbers 2013/14”. Premier League. 16 tháng 8 năm 2013. Bản gốc lưu trữ 21 Tháng tám năm 2013. Truy cập 17 Tháng tám năm 2013.
  2. ^ “Yaya Sanogo”. Barry Hugman's Footballers.
  3. ^ “Yaya Sanogo”. Premier League. Truy cập 16 Tháng Ba năm 2017.
  4. ^ “Yaya Sanogo scouting report: All you need to know about Arsenal's new signing”. Arsenal Transfer News. Daily Mirror. ngày 2 tháng 7 năm 2013. Truy cập ngày 11 tháng 1 năm 2014.

Tham khảo ngoài[sửa | sửa mã nguồn]