Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Đường Văn Tông”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 34: Dòng 34:
== Trước khi lên ngôi ==
== Trước khi lên ngôi ==


Lý Hàm chào đời vào ngày [[20 tháng 11]] năm 809 dưới thời tổ phụ là [[Đường Hiến Tông]] Lý Thuần. Khi đó, phụ thân của ông là [[Đường Mục Tông]] Lý Hựu vẫn đang giữ tước vị Toại vương<ref>[[Cựu Đường thư]], [[:zh:s:舊唐書/卷16|quyển 16]]</ref>, chưa được phong làm hoàng thái tử<ref>Hiến Tông ban đầu lập trưởng tử [[Lý Ninh]] làm thái tử mặc dù Lý Hựu mới là con của vợ đích, đến năm 812 Lý Ninh qua đời thì Lý Hựu mới trở thành thái tử</ref>. Ông chào đời bốn tháng sau người anh là [[Đường Kính Tông]] Lý Đam (22 tháng 7 năm đó). Mẫu thân của Lý Hàm là Tiêu thị, người Mân, về sau được truy phong Trinh Hiến hoàng hậu<ref name=CDT17>''[[Cựu Đường thư]]'', [[:zh:s:舊唐書/卷17|quyển 17]].</ref>
Lý Hàm chào đời vào ngày [[20 tháng 11]] năm 809 dưới thời tổ phụ là [[Đường Hiến Tông]] Lý Thuần. Khi đó, phụ thân của ông là [[Đường Mục Tông]] Lý Hựu vẫn đang giữ tước vị Toại vương<ref>''[[Cựu Đường thư]]'', [[:zh:s:舊唐書/卷16|quyển 16]]</ref>, chưa được phong làm hoàng thái tử<ref>Hiến Tông ban đầu lập trưởng tử [[Lý Ninh]] làm thái tử mặc dù Lý Hựu mới là con của vợ đích, đến năm 812 Lý Ninh qua đời thì Lý Hựu mới trở thành thái tử</ref>. Ông chào đời bốn tháng sau người anh là [[Đường Kính Tông]] Lý Đam (22 tháng 7 năm đó). Mẫu thân của Lý Hàm là Tiêu thị, người Mân, về sau được truy phong Trinh Hiến hoàng hậu<ref name=CDT17>''[[Cựu Đường thư]]'', [[:zh:s:舊唐書/卷17|quyển 17]].</ref>


Năm [[820]], [[Đường Hiến Tông]] băng hà, Lý Hựu (lúc này đã đổi tên thành Lý Hằng) lên ngôi, xưng là [[Đường Mục Tông]]. Năm sau, [[821]], Mục Tông phong vương cho một số em trai và con trai của mình, trong đó Lý Hàm được phong làm Giang vương]<ref>''[[Tư trị thông giám]]'', [[:zh:s:資治通鑑/卷241|quyển 241]]</ref>. Năm [[824]], Mục Tông băng, người anh cả của Lý Hàm là Lý Đam nối ngôi, tức [[Đường Kính Tông]]]<ref>''[[Tư trị thông giám]]'', [[:zh:s:資治通鑑/卷242|quyển 242]]</ref>. Đến ngày [[9 tháng 1]] năm [[827]], Kính Tông bị bọn hoạn quan [[Lưu Khắc Minh]], [[Điền Vụ Trừng]], [[Hứa Văn Đoan]], [[Tô Tá Minh]] ... sát hại. [[Lưu Khắc Minh]] muốn khống chế triều đình và đưa con trai của [[Đường Hiến Tông]] là Giáng vương [[Lý Ngộ]] làm hoàng đế. Ngày [[10 tháng 1]], Khắc Minh giả di chiếu, đưa Giáng vương ra gặp chư tể tướng. Bọn Khắc Minh lại bố trí tay chân nắm giữ cung điện, mưu trừ các hoạn quan khác. Nhóm hoạn quan gồm Xu mật sứ [[Vương Thủ Trừng]], Trung úy [[Lương Thủ Khiêm]], [[Ngụy Tòng Gián]] ... nghe tin có biến động, bèn tập hợp binh lính tiến vào cung diệt tặc, đồng thời cho đón Lý Hàm vào cung. Cuối cùng quân Thần Sách của Vương Thủ Trừng và quân Phi Long giết chết hết bọn loạn đảng Lưu Khắc Minh, Giáng vương Ngộ cũng chết trong loạn quân<ref name=ZZTJ243>''[[Tư trị thông giám]]'', [[:zh:s:資治通鑑/卷243|quyển 243]].</ref>.
Năm [[820]], [[Đường Hiến Tông]] băng hà, Lý Hựu (lúc này đã đổi tên thành Lý Hằng) lên ngôi, xưng là [[Đường Mục Tông]]. Năm sau, [[821]], Mục Tông phong vương cho một số em trai và con trai của mình, trong đó Lý Hàm được phong làm Giang vương]<ref>''[[Tư trị thông giám]]'', [[:zh:s:資治通鑑/卷241|quyển 241]]</ref>. Năm [[824]], Mục Tông băng, người anh cả của Lý Hàm là Lý Đam nối ngôi, tức [[Đường Kính Tông]]]<ref>''[[Tư trị thông giám]]'', [[:zh:s:資治通鑑/卷242|quyển 242]]</ref>. Đến ngày [[9 tháng 1]] năm [[827]], Kính Tông bị bọn hoạn quan [[Lưu Khắc Minh]], [[Điền Vụ Trừng]], [[Hứa Văn Đoan]], [[Tô Tá Minh]] ... sát hại. [[Lưu Khắc Minh]] muốn khống chế triều đình và đưa con trai của [[Đường Hiến Tông]] là Giáng vương [[Lý Ngộ]] làm hoàng đế. Ngày [[10 tháng 1]], Khắc Minh giả di chiếu, đưa Giáng vương ra gặp chư tể tướng. Bọn Khắc Minh lại bố trí tay chân nắm giữ cung điện, mưu trừ các hoạn quan khác. Nhóm hoạn quan gồm Xu mật sứ [[Vương Thủ Trừng]], Trung úy [[Lương Thủ Khiêm]], [[Ngụy Tòng Gián]] ... nghe tin có biến động, bèn tập hợp binh lính tiến vào cung diệt tặc, đồng thời cho đón Lý Hàm vào cung. Cuối cùng quân Thần Sách của Vương Thủ Trừng và quân Phi Long giết chết hết bọn loạn đảng Lưu Khắc Minh, Giáng vương Ngộ cũng chết trong loạn quân<ref name=ZZTJ243>''[[Tư trị thông giám]]'', [[:zh:s:資治通鑑/卷243|quyển 243]].</ref>.


Ngày [[11 tháng 1]] (Quý Mão), hoạn quan lấy lệnh của Thái hoàng thái hậu Quách thị cho [[Bùi Độ]] làm nhiếp trùng tể, bách quan yết kiến Giang vương Hàm ở tử thần ngoại vũ, Giang vương bật khóc trong buổi gặp hôm đó. Ngày [[13 tháng 1]] (Quý Tị), Lý Hàm chính thức lên ngôi, tức là '''Đường Văn Tông'''.<ref name=ZZTJ243 />, đổi tên là Lý Ngang. Năm đó ông mới 18 tuổi.
Ngày [[11 tháng 1]] (Quý Mão), hoạn quan lấy lệnh của Thái hoàng thái hậu Quách thị cho [[Bùi Độ]] làm nhiếp trùng tể, bách quan yết kiến Giang vương Hàm ở tử thần ngoại vũ, Giang vương bật khóc trong buổi gặp hôm đó. Ngày [[13 tháng 1]] (Quý Tị), Lý Hàm chính thức lên ngôi, tức là '''Đường Văn Tông'''.<ref name=ZZTJ243 /><ref name=CDT17 />, đổi tên là Lý Ngang. Năm đó ông mới 18 tuổi.


== Làm hoàng thượng ==
== Làm hoàng thượng ==
Dòng 47: Dòng 47:
Văn Tông lại thấy rằng qua hai triều Mục Tông, Kính Tông, do sự xa xỉ của các hoàng đế khiến quốc khố cạn kiệt, vì thế ngay khi lên ngôi đã chủ trương tiết kiệm và tỏ ra cần mẫn trong việc xử lí công việc triều chính. Ông cho phép những cung nữ nào chưa được triệu hạnh có thể về quê với gia đình, tổng cộng được khoảng 3000 người. Thấy tân chủ mới lên ngôi đã làm những việc thuận lòng người, trong ngoài náo nức đón chờ một thời đại thái bình mới. Tuy nhiên Văn Tông mặc dù bên ngoài khuyến khích việc triều thần can gián, nhưng bản chất lại là con người thiếu quyết đoán. Mỗi khi cùng các tể tướng bàn định việc gì, cũng thường hay thay đổi ý kiến. Như tháng 4 ÂL năm 827, [[Vi Xử Hậu]] bàn luận công việc với Văn Tông ở Diên Anh Cực, nhân bất đồng ý kiến đã xin từ chức, Văn Tông không chấp nhận, cố sức giữ lại.
Văn Tông lại thấy rằng qua hai triều Mục Tông, Kính Tông, do sự xa xỉ của các hoàng đế khiến quốc khố cạn kiệt, vì thế ngay khi lên ngôi đã chủ trương tiết kiệm và tỏ ra cần mẫn trong việc xử lí công việc triều chính. Ông cho phép những cung nữ nào chưa được triệu hạnh có thể về quê với gia đình, tổng cộng được khoảng 3000 người. Thấy tân chủ mới lên ngôi đã làm những việc thuận lòng người, trong ngoài náo nức đón chờ một thời đại thái bình mới. Tuy nhiên Văn Tông mặc dù bên ngoài khuyến khích việc triều thần can gián, nhưng bản chất lại là con người thiếu quyết đoán. Mỗi khi cùng các tể tướng bàn định việc gì, cũng thường hay thay đổi ý kiến. Như tháng 4 ÂL năm 827, [[Vi Xử Hậu]] bàn luận công việc với Văn Tông ở Diên Anh Cực, nhân bất đồng ý kiến đã xin từ chức, Văn Tông không chấp nhận, cố sức giữ lại.


Tết Âm lịch năm Đinh Mùi (827), Văn Tông cải nguyên là Thái Hòa. Trong những năm này, nạn phiên trấn tiếp tục bùng phát mạnh mẽ. Những năm cuối đời Kính Tông, Tiết độ sứ Hoành Hải<ref>Hà Bắc, Trung Quốc hiện nay</ref> [[Lý Toàn Lược]] hoăng, con là phó sứ [[Lý Đồng Tiệp]] tự ý nắm quyền ở Hoành Hải mà không có sự đồng ý của triều đình, triều đình cũng làm ngơ không hỏi đến. Sau khi Văn Tông lên ngôi, Đồng Tiệp sai hai em là Đồng Chí, Đồng Tốn đến xin nhận mệnh lệnh của nhà Đường, mong được Văn Tông công nhận. Cũng năm đó, Tiết độ sứ Trung Vũ [[Vương Phái]] hoăng, Văn Tông phong Thái bộc khanh Cao Vũ lên thay làm tiết độ sứ. Đối với trấn Hoành Hải, Văn Tông phong cho [[Ô Trọng Dận]] thay Lý Đồng Tiệp đảm nhận chức Tiết độ sứ, dời Lý Đồng Tiệp làm Duyện Hải<ref>Trụ sở thuộc Tế Ninh, Sơn Đông, Trung Quốc hiện nay</ref> tiết độ sứ. Lý Đồng Tiệp lấy cớ tướng sĩ bức ép mà kháng lại triều mệnh, tự chiếm cứ đất Thương. Triều đình bèn quyết định thảo phạt Đồng Tiệp, có chiếu tước bỏ quan chức và cử các tiết độ sứ các vùng xung quanh là [[Ô Trọng Dận]], [[Vương Trí Hưng]], [[Sử Hiến Thành]], [[Khang Chí Mục]], [[Lý Thính]], [[Trương Bá]] ... thảo phạt Lý Đồng Tiệp, nhưng không giành thắng lợi ngay được<ref name=ZZTJ243 /> mà Lý Đồng Tiệp lại được Tiết độ sứ Thành Đức<ref>Trụ sở nay thuộc Thạch Gia Trang, Hà Bắc, Trung Quốc</ref> là [[Vương Đình Thấu]] giúp đỡ. Văn Tông lại điều quân thảo phạt luôn cả trấn Thành Đức. Cuối năm đó Ô Trọng Dận hoăng, triều đình phong hoàng thân là Bảo Nghĩa tiết độ sứ Lý Hựu đến đảm nhiệm trấn Hoành Hải. Về sau quân triều đình do hoàng thân [[Lý Hựu]] chỉ huy đánh bại, Lý Đồng Tiệp đầu hàng rồi bị giết. Vương Đình Thấu sợ hãi, bèn dâng Cảnh châu để cầu hòa với triều đình.
Tết Âm lịch năm Đinh Mùi (827), Văn Tông cải nguyên là Thái Hòa. Trong những năm này, nạn phiên trấn tiếp tục bùng phát mạnh mẽ. Những năm cuối đời Kính Tông, Tiết độ sứ Hoành Hải<ref>Hà Bắc, Trung Quốc hiện nay</ref> [[Lý Toàn Lược]] hoăng, con là phó sứ [[Lý Đồng Tiệp]] tự ý nắm quyền ở Hoành Hải mà không có sự đồng ý của triều đình, triều đình cũng làm ngơ không hỏi đến. Sau khi Văn Tông lên ngôi, Đồng Tiệp sai hai em là Đồng Chí, Đồng Tốn đến xin nhận mệnh lệnh của nhà Đường, mong được Văn Tông công nhận. Cũng năm đó, Tiết độ sứ Trung Vũ [[Vương Phái]] hoăng, Văn Tông phong Thái bộc khanh Cao Vũ lên thay làm tiết độ sứ. Đối với trấn Hoành Hải, Văn Tông phong cho [[Ô Trọng Dận]] thay Lý Đồng Tiệp đảm nhận chức Tiết độ sứ, dời Lý Đồng Tiệp làm Duyện Hải<ref>Trụ sở thuộc Tế Ninh, Sơn Đông, Trung Quốc hiện nay</ref> tiết độ sứ. Lý Đồng Tiệp lấy cớ tướng sĩ bức ép mà kháng lại triều mệnh, tự chiếm cứ đất Thương. Triều đình bèn quyết định thảo phạt Đồng Tiệp, có chiếu tước bỏ quan chức và cử các tiết độ sứ các vùng xung quanh là [[Ô Trọng Dận]], [[Vương Trí Hưng]], [[Sử Hiến Thành]], [[Khang Chí Mục]], [[Lý Thính]], [[Trương Bá]] ... thảo phạt Lý Đồng Tiệp, nhưng không giành thắng lợi ngay được<ref name=ZZTJ243 /> mà Lý Đồng Tiệp lại được Tiết độ sứ Thành Đức<ref>Trụ sở nay thuộc Thạch Gia Trang, Hà Bắc, Trung Quốc</ref> là [[Vương Đình Thấu]] giúp đỡ. Văn Tông lại điều quân thảo phạt luôn cả trấn Thành Đức. Cuối năm đó Ô Trọng Dận hoăng, triều đình phong hoàng thân là Bảo Nghĩa tiết độ sứ Lý Hựu đến đảm nhiệm trấn Hoành Hải. Về sau quân triều đình do hoàng thân [[Lý Hựu]] chỉ huy đánh bại, Lý Đồng Tiệp đầu hàng rồi bị giết<ref name=CDT17 />. Vương Đình Thấu sợ hãi, bèn dâng Cảnh châu để cầu hòa với triều đình.


Mùa hạ năm [[828]], con trưởng của Kính Tông là Tấn vương [[Lý Phổ]] hoăng, thọ 4 tuổi. Văn Tông ban đầu có ý lập Lý Phổ làm thái tử, nghe tin Phổ đã chết thì thương xót, truy tặng là Điệu Hoài thái tử<ref>[[Tân Đường thư]], quyển 82</ref>. Đầu năm [[829]], tể tướng [[Vi Xử Hậu]] cũng mất<ref name=ZZTJ243 />, Hàn lâm học sĩ Lộ Tùy lên thay đảm nhận tướng vị. Sau khi triều đình diệt Lý Đồng Tiệp, Tiết độ sứ Ngụy Bác<ref>Trụ sở thuộc Hàm Đan, Hà Bắc, Trung Quốc hiện nay</ref> là [[Sử Hiến Thành]] lo sợ mình sẽ là mục tiêu tiếp theo của quân triều đình, nên thỉnh cầu vào triều và xin quy phục. Văn Tông hạ lệnh dời [[Sử Hiến Thành]] đến làm Tiết độ sứ Hà Trung<ref>Trụ sở thuộc Vận Thành, Sơn Tây, Trung Quốc hiện nay</ref> và trấn Ngụy Bác được giao cho Lý Thính, ngoài ra còn cắt ba châu Tương, Vệ, Thiền giao cho phó sứ Ngụy Bác cũ là [[Sử Hiếu Chương]]<ref name=ZZTJ244>''[[Tư trị thông giám]]'', [[:zh:s:資治通鑑/卷244|quyển 244]].</ref>. Nhưng trước khi [[Sử Hiến Thành]] rời trấn thì binh sĩ Ngụy Bác nổi dậy giết chết ông ta rồi đưa [[Hà Tiến Thao]] làm Ngụy Bác lưu hậu. Tiến Thao lại đưa quân tấn công và đánh bại Lý Thính. Triều đình vừa trải qua chiến dịch ở Hoành Hải nên không muốn tiếp tục chiến tranh, đành công nhận Hà Tiến Thao là Tiết độ sứ và trao lại ba châu Tương, Vệ, Thiền cho Tiến Thao<ref name=ZZTJ244 />.
Mùa hạ năm [[828]], con trưởng của Kính Tông là Tấn vương [[Lý Phổ]] hoăng, thọ 4 tuổi. Văn Tông ban đầu có ý lập Lý Phổ làm thái tử, nghe tin Phổ đã chết thì thương xót, truy tặng là Điệu Hoài thái tử<ref>[[Tân Đường thư]], quyển 82</ref>. Đầu năm [[829]], tể tướng [[Vi Xử Hậu]] cũng mất<ref name=ZZTJ243 />, Hàn lâm học sĩ Lộ Tùy lên thay đảm nhận tướng vị. Sau khi triều đình diệt Lý Đồng Tiệp, Tiết độ sứ Ngụy Bác<ref>Trụ sở thuộc Hàm Đan, Hà Bắc, Trung Quốc hiện nay</ref> là [[Sử Hiến Thành]] lo sợ mình sẽ là mục tiêu tiếp theo của quân triều đình, nên thỉnh cầu vào triều và xin quy phục. Văn Tông hạ lệnh dời [[Sử Hiến Thành]] đến làm Tiết độ sứ Hà Trung<ref>Trụ sở thuộc Vận Thành, Sơn Tây, Trung Quốc hiện nay</ref> và trấn Ngụy Bác được giao cho Lý Thính, ngoài ra còn cắt ba châu Tương, Vệ, Thiền giao cho phó sứ Ngụy Bác cũ là [[Sử Hiếu Chương]]<ref name=ZZTJ244>''[[Tư trị thông giám]]'', [[:zh:s:資治通鑑/卷244|quyển 244]].</ref>. Nhưng trước khi [[Sử Hiến Thành]] rời trấn thì binh sĩ Ngụy Bác nổi dậy giết chết ông ta rồi đưa [[Hà Tiến Thao]] làm Ngụy Bác lưu hậu. Tiến Thao lại đưa quân tấn công và đánh bại Lý Thính. Triều đình vừa trải qua chiến dịch ở Hoành Hải nên không muốn tiếp tục chiến tranh, đành công nhận Hà Tiến Thao là Tiết độ sứ và trao lại ba châu Tương, Vệ, Thiền cho Tiến Thao<ref name=ZZTJ244 />.


Cuối năm đó, Lý Tông Mẫn được phong làm tể tướng. Ít lâu sau, Lý Tông Mẫn oán ghét đại thần [[Lý Đức Dụ]] nên đuổi Đức Dụ ra trấn Nghĩa Thành. Quân Nam Chiếu tấn công vào địa giới Tây Xuyên<ref>Trụ sở thuộc Thành Đô, Tứ Xuyên, Trung Quốc hiện nay</ref>, tiết độ sứ [[Đỗ Nguyên Dĩnh]] tấu lên triều đình và đưa đại quân chống lại, nhưng thất bại. Quân Nam Chiếu tiến thẳng vào Thành Đô và sắp chiếm được rồi cử sứ đến triều đình xin trị tội Đỗ Nguyên Dĩnh. Văn Tông nghe tin, bèn lấy Tiết độ sứ Đông Xuyên [[Quách Chiêu]] kiêm luôn cả Tây Xuyên, biếm chức Nguyên Dĩnh để điều đình. Quân Nam Chiếu chấp nhận hòa ước, nhưng cũng bắt giữ nhiều phụ nữ, bách công và vàng bạc châu báu rồi mới rút về nước<ref name=ZZTJ244 />.
Cuối năm đó, [[Lý Tông Mẫn]] được phong làm tể tướng dưới sự ủng hộ của hoạn quan. Ít lâu sau, Lý Tông Mẫn oán ghét đại thần [[Lý Đức Dụ]] nên đuổi Đức Dụ ra trấn Nghĩa Thành. Quân Nam Chiếu tấn công vào địa giới Tây Xuyên<ref>Trụ sở thuộc Thành Đô, Tứ Xuyên, Trung Quốc hiện nay</ref>, tiết độ sứ [[Đỗ Nguyên Dĩnh]] tấu lên triều đình và đưa đại quân chống lại, nhưng thất bại. Quân Nam Chiếu tiến thẳng vào Thành Đô và sắp chiếm được rồi cử sứ đến triều đình xin trị tội Đỗ Nguyên Dĩnh. Văn Tông nghe tin, bèn lấy Tiết độ sứ Đông Xuyên [[Quách Chiêu]] kiêm luôn cả Tây Xuyên, biếm chức Nguyên Dĩnh để điều đình. Quân Nam Chiếu chấp nhận hòa ước, nhưng cũng bắt giữ nhiều phụ nữ, bách công và vàng bạc châu báu rồi mới rút về nước<ref name=ZZTJ244 />.


=== Trung và hậu kì Thái Hòa (830 - 835) ===
=== Trung và hậu kì Thái Hòa (830 - 835) ===
{{Bài chính|Ngưu Lý đảng tranh|Sự biến Cam Lộ}}
{{Bài chính|Ngưu Lý đảng tranh|Sự biến Cam Lộ}}

Trong thời đại Văn Tông, Ngưu Lý Đảng tranh - một cuộc tranh chấp trong nội bộ các đại thần triều đình - vốn manh nha ngay từ thời Hiến Tông đã bùng phát dữ dội. Sau khi tể tướng [[Vi Xử Hậu]] mất và [[Bùi Độ]] từ nhiệm, [[Ngưu Tăng Nhụ]] được Lý Tông Mẫn tiến cử lên chức Binh bộ thượng thư, Đồng bình chương sự. Hai người kết bè đảng trong triều, gọi là Ngưu đảng và ra sức lấn át đại thần [[Lý Đức Dụ]] (vốn được Bùi Độ tiến cử trước đó), đẩy Đức Dụ ra trấn Nghĩa Thành. Về sau các nhà sử học gọi phe đảng của [[Lý Đức Dụ]] là Lý đảng. Trong khi đó Văn Tông chán ghét hoạn quan chuyên chính - nhất là Trung úy [[Vương Thủ Trừng]] - người kiểm soát quân đội triều đình và lấn át cả vua, lại nghĩa trước đó hai hoàng đế Hiến Tông, Kính Tông đã cũng chết trong tay hoạn quan, do vậy muốn tìm cách diệt trừ. Giữa năm [[830]], ông tìm cách liên hệ với Hàn lâm học sĩ [[Tống Thân Tích]]. Thấy Thân Tích là người có thể dùng được, Văn Tông phong ông ta làm tể tướng. Thân Tích lại tiến cử Lại bộ thị lang [[Vương Phan]]. Nhưng Vương Phan làm tiết lộ việc này đến tai [[Vương Thủ Trừng]], nên Thủ Trừng đã có sự chuẩn bị. Năm [[831]], Thủ Trừng ngầm giật dây cho Thần Sách đô ngu hậu [[Đậu Lư Trứ]] vu cáo Tống Thần Tích có ý đồ phế bỏ Văn Tông để lập hoàng đệ là Chương vương [[Lý Thấu]]. Văn Tông chưa truy xét kĩ càng đã vội tức giận. Sau đó ông bãi chức [[Tống Thân Tích]] làm tư mã Khai châu, Chương vương Thấu giáng làm Sào huyện công. Kế hoạch diệt trừ [[hoạn quan]] bước đầu thất bại<ref name=CDT17 /><ref name=ZZTJ244 />.

Trước đó năm [[830]], Lý Đức Dụ được bổ làm Tiết độ sứ Tây Xuyên<ref>''[[Cựu Đường thư]]'', [[:zh:s:舊唐書/卷174|quyển 174]]</ref>. Sang năm [[831]], Phó sứ Duy châu<ref>A Bá Tàng tộc, Khương tộc tự trị châu, Tứ Xuyên, Trung Quốc hiện nay</ref> của [[Thổ Phiên]] là Tất Đát có ý định dâng đất đầu hàng [[nhà Đường]], đưa chúng tướng tới Thành Đô. Đức Dụ cho quân tiến vào Duy châu và chuẩn bị lấy nơi đây làm bàn đạp để lấn sâu vào đất Thổ Phiêm. Tin này truyền đến triều đình, nhiều đại thần có ý thuận theo kế hoạch của Đức Dụ. Nhưng [[Ngưu Tăng Nhụ]] không đồng ý vì cho rằng nếu ngang nhiên lấy đất của [[Thổ Phiên]] chính là phản lại hòa ước trước kia và sẽ dẫn đến việc Thổ Phiên quấy nhiễu biên cảnh. Văn Tông bèn hạ lệnh cho [[Lý Đức Dụ]] trả đất và bọn Tất Đất cho người Thổ. Cuối cùng Tất Đát bị Thổ Phiên giết một cách thảm khốc. Từ đó Lý Đức Dụ sinh oán thù [[Ngưu Tăng Nhụ]]. Năm [[833]] quần thần thỉnh tôn hiệu Thái Hòa Văn Vũ Chí Đức hoàng đế nhưng Văn Tông không nhận. Mãi đến cuối năm đó, quần thần lấy lí do Văn Tông làm vua đã 8 năm mà chưa có tôn hiệu, lại thỉnh tôn hiệu là Thái Hòa Văn Vũ Nhân Thánh hoàng đế, nhưng ông vẫn không nhận.

Từ sau cái chết của Điệu Hoài thái tử, Văn Tông vẫn chần chừ chưa lập thái tử mới. Mãi đến cuối năm [[832]], ông mới hạ lệnh lập con trai của mình là Lỗ vương [[Lý Vĩnh]] làm hoàng thái tử<ref name=ZZTJ244 /><ref name=CDT17 /><ref>''[[Cựu Đường thư]]'', [[:zh:s:舊唐書/卷175|quyển 175]]</ref>. Cũng năm đó, Văn Tông lại hối hận việc trả đất cho Thổ Phiên trước kia và bất bình với [[Ngưu Tăng Nhụ]]. Tăng Nhụ sợ hãi bèn xin từ chức và được bổ làm Tiết độ sứ Vũ Xương<ref>Vũ Hán, Hồ Bắc, Trung Quốc hiện nay</ref>. Sau đó, Văn Tông triệu [[Lý Đức Dụ]] vào triều và phong làm tể tướng năm [[833]]. Sau đó, Lý Đức Dụ nhân cơ hội lật đổ bè đảng của [[Lý Tông Mẫn]], nhiều đại thần bị giáng chức, bản thân Tông Mẫn bị đuổi khỏi Trường An, giáng làm Tiết độ sứ Sơn Nam Tây Đạo<ref>Trụ sở nay thuộc Hán Trung, [[Thiểm Tây]], Trung Quốc</ref>.
=== Thời kì Khai Thành (836 - 840) ===
=== Thời kì Khai Thành (836 - 840) ===
=== Qua đời ===
=== Qua đời ===

Phiên bản lúc 07:16, ngày 15 tháng 6 năm 2014

Đường Văn Tông
Hoàng đế Trung Hoa
Hoàng đế nhà Đường
Trị vì13/1/82710/2/840[1]
Tiền nhiệmĐường Kính Tông
Kế nhiệmĐường Vũ Tông
Thông tin chung
Sinh20 tháng 11, 809
Mất10 tháng 2, 840(840-02-10) (30 tuổi)
Trung Quốc
An tángChương lăng
Thê thiếpVương Đức phi
Dương Hiền phi
Hậu duệXem văn bản.
Tên thật
Lý Hàm (李涵)
Lý Ngang (李昂)
Niên hiệu
Thái Hòa (827-835)
Khai Thành (836-840)
Thụy hiệu
Đầy đủ: Nguyên thánh Chiêu hiến Hiếu hoàng đế (元圣昭献孝皇帝)
Miếu hiệu
Văn Tông
Triều đạiNhà Đường
Thân phụĐường Mục Tông
Thân mẫuTrinh Hiến hoàng hậu Tiêu thị

Đường Văn Tông (chữ Hán: 唐文宗, bính âm: Tang Wenzong, 20 tháng 11 năm 809 - 10 tháng 2 năm 840[2]), thụy hiệu đầy đủ là Nguyên Thánh Chiếu Hiến Hiếu hoàng đế (元圣昭献孝皇帝), tên thật là Lý Hàm (李涵) hay Lý Ngang (李昂), là vị hoàng đế thứ 15 hay 17[3] của triều đại nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc.

Lý Hàm là con trai thứ hai của Đường Mục Tông Lý Hằng, mẫu thân là Tiêu thị. Ban đầu ông được phong tước vị Giang vương. Sau cái chết của anh trai là Đường Kính Tông Lý Đam (827), Lý Hàm được bọn hoạn quan Vương Thủ Trừng ủng hộ lên ngôi, cải tên là Lý Ngang. Trong thời gian ở ngôi, nạn hoạn quan lộng quyền - vốn manh nha từ thời Đại Tông, Đức Tông đã ngày càng khó kiềm chế. Văn Tông mặt dù rất cố gắng để hạn chế quyền lực của hoạn quan nhưng cuối cùng thất bại. Cũng trong những năm này, phiên trấn các nơi cũng liên tiếp nổi dậy. Sau chính biến Cam Lộ (835) ông hầu như đã bị hoạn quan kiểm soát và từ đó thì sống trong tâm trạng u uất và tuyệt vọng cho đến khi qua đời năm 841, có thuyết cho rằng Văn Tông bị hoạn quan sát hại.

Trước khi lên ngôi

Lý Hàm chào đời vào ngày 20 tháng 11 năm 809 dưới thời tổ phụ là Đường Hiến Tông Lý Thuần. Khi đó, phụ thân của ông là Đường Mục Tông Lý Hựu vẫn đang giữ tước vị Toại vương[4], chưa được phong làm hoàng thái tử[5]. Ông chào đời bốn tháng sau người anh là Đường Kính Tông Lý Đam (22 tháng 7 năm đó). Mẫu thân của Lý Hàm là Tiêu thị, người Mân, về sau được truy phong Trinh Hiến hoàng hậu[6]

Năm 820, Đường Hiến Tông băng hà, Lý Hựu (lúc này đã đổi tên thành Lý Hằng) lên ngôi, xưng là Đường Mục Tông. Năm sau, 821, Mục Tông phong vương cho một số em trai và con trai của mình, trong đó Lý Hàm được phong làm Giang vương][7]. Năm 824, Mục Tông băng, người anh cả của Lý Hàm là Lý Đam nối ngôi, tức Đường Kính Tông][8]. Đến ngày 9 tháng 1 năm 827, Kính Tông bị bọn hoạn quan Lưu Khắc Minh, Điền Vụ Trừng, Hứa Văn Đoan, Tô Tá Minh ... sát hại. Lưu Khắc Minh muốn khống chế triều đình và đưa con trai của Đường Hiến Tông là Giáng vương Lý Ngộ làm hoàng đế. Ngày 10 tháng 1, Khắc Minh giả di chiếu, đưa Giáng vương ra gặp chư tể tướng. Bọn Khắc Minh lại bố trí tay chân nắm giữ cung điện, mưu trừ các hoạn quan khác. Nhóm hoạn quan gồm Xu mật sứ Vương Thủ Trừng, Trung úy Lương Thủ Khiêm, Ngụy Tòng Gián ... nghe tin có biến động, bèn tập hợp binh lính tiến vào cung diệt tặc, đồng thời cho đón Lý Hàm vào cung. Cuối cùng quân Thần Sách của Vương Thủ Trừng và quân Phi Long giết chết hết bọn loạn đảng Lưu Khắc Minh, Giáng vương Ngộ cũng chết trong loạn quân[9].

Ngày 11 tháng 1 (Quý Mão), hoạn quan lấy lệnh của Thái hoàng thái hậu Quách thị cho Bùi Độ làm nhiếp trùng tể, bách quan yết kiến Giang vương Hàm ở tử thần ngoại vũ, Giang vương bật khóc trong buổi gặp hôm đó. Ngày 13 tháng 1 (Quý Tị), Lý Hàm chính thức lên ngôi, tức là Đường Văn Tông.[9][6], đổi tên là Lý Ngang. Năm đó ông mới 18 tuổi.

Làm hoàng thượng

Sơ kì Thái Hòa (827 - 829)

Ngày 16 tháng 1 (Mậu Thân) tôn mẹ là Tiêu thị làm hoàng thái hậu, Kính Tông mẫu Vương thị là Bảo Lịch thái hậu. Lúc đó, thái hoàng thái hậu Quách thị (bà của Văn Tông) được bố trí ở cung Hưng Khánh, Vương thái hậu ở Điện Nghĩa An, Tiêu thái hậu sống ở đại nội. Văn Tông vốn tính hiếu thuận, phụng sự ba cung đều như nhau. Mỗi khi các nơi tiến công kì trân dị vật thì trước đưa đến tông miếu, tiếp đó dâng đến ba cung còn dư thừa mới để tự mình chi dùng[9]. Không lâu sau, ông phong cho Hàn Lâm học sĩ Vi Xử Hậu làm Trung thư thị lang, Đồng bình chương sự (tể tướng).

Văn Tông lại thấy rằng qua hai triều Mục Tông, Kính Tông, do sự xa xỉ của các hoàng đế khiến quốc khố cạn kiệt, vì thế ngay khi lên ngôi đã chủ trương tiết kiệm và tỏ ra cần mẫn trong việc xử lí công việc triều chính. Ông cho phép những cung nữ nào chưa được triệu hạnh có thể về quê với gia đình, tổng cộng được khoảng 3000 người. Thấy tân chủ mới lên ngôi đã làm những việc thuận lòng người, trong ngoài náo nức đón chờ một thời đại thái bình mới. Tuy nhiên Văn Tông mặc dù bên ngoài khuyến khích việc triều thần can gián, nhưng bản chất lại là con người thiếu quyết đoán. Mỗi khi cùng các tể tướng bàn định việc gì, cũng thường hay thay đổi ý kiến. Như tháng 4 ÂL năm 827, Vi Xử Hậu bàn luận công việc với Văn Tông ở Diên Anh Cực, nhân bất đồng ý kiến đã xin từ chức, Văn Tông không chấp nhận, cố sức giữ lại.

Tết Âm lịch năm Đinh Mùi (827), Văn Tông cải nguyên là Thái Hòa. Trong những năm này, nạn phiên trấn tiếp tục bùng phát mạnh mẽ. Những năm cuối đời Kính Tông, Tiết độ sứ Hoành Hải[10] Lý Toàn Lược hoăng, con là phó sứ Lý Đồng Tiệp tự ý nắm quyền ở Hoành Hải mà không có sự đồng ý của triều đình, triều đình cũng làm ngơ không hỏi đến. Sau khi Văn Tông lên ngôi, Đồng Tiệp sai hai em là Đồng Chí, Đồng Tốn đến xin nhận mệnh lệnh của nhà Đường, mong được Văn Tông công nhận. Cũng năm đó, Tiết độ sứ Trung Vũ Vương Phái hoăng, Văn Tông phong Thái bộc khanh Cao Vũ lên thay làm tiết độ sứ. Đối với trấn Hoành Hải, Văn Tông phong cho Ô Trọng Dận thay Lý Đồng Tiệp đảm nhận chức Tiết độ sứ, dời Lý Đồng Tiệp làm Duyện Hải[11] tiết độ sứ. Lý Đồng Tiệp lấy cớ tướng sĩ bức ép mà kháng lại triều mệnh, tự chiếm cứ đất Thương. Triều đình bèn quyết định thảo phạt Đồng Tiệp, có chiếu tước bỏ quan chức và cử các tiết độ sứ các vùng xung quanh là Ô Trọng Dận, Vương Trí Hưng, Sử Hiến Thành, Khang Chí Mục, Lý Thính, Trương Bá ... thảo phạt Lý Đồng Tiệp, nhưng không giành thắng lợi ngay được[9] mà Lý Đồng Tiệp lại được Tiết độ sứ Thành Đức[12]Vương Đình Thấu giúp đỡ. Văn Tông lại điều quân thảo phạt luôn cả trấn Thành Đức. Cuối năm đó Ô Trọng Dận hoăng, triều đình phong hoàng thân là Bảo Nghĩa tiết độ sứ Lý Hựu đến đảm nhiệm trấn Hoành Hải. Về sau quân triều đình do hoàng thân Lý Hựu chỉ huy đánh bại, Lý Đồng Tiệp đầu hàng rồi bị giết[6]. Vương Đình Thấu sợ hãi, bèn dâng Cảnh châu để cầu hòa với triều đình.

Mùa hạ năm 828, con trưởng của Kính Tông là Tấn vương Lý Phổ hoăng, thọ 4 tuổi. Văn Tông ban đầu có ý lập Lý Phổ làm thái tử, nghe tin Phổ đã chết thì thương xót, truy tặng là Điệu Hoài thái tử[13]. Đầu năm 829, tể tướng Vi Xử Hậu cũng mất[9], Hàn lâm học sĩ Lộ Tùy lên thay đảm nhận tướng vị. Sau khi triều đình diệt Lý Đồng Tiệp, Tiết độ sứ Ngụy Bác[14]Sử Hiến Thành lo sợ mình sẽ là mục tiêu tiếp theo của quân triều đình, nên thỉnh cầu vào triều và xin quy phục. Văn Tông hạ lệnh dời Sử Hiến Thành đến làm Tiết độ sứ Hà Trung[15] và trấn Ngụy Bác được giao cho Lý Thính, ngoài ra còn cắt ba châu Tương, Vệ, Thiền giao cho phó sứ Ngụy Bác cũ là Sử Hiếu Chương[16]. Nhưng trước khi Sử Hiến Thành rời trấn thì binh sĩ Ngụy Bác nổi dậy giết chết ông ta rồi đưa Hà Tiến Thao làm Ngụy Bác lưu hậu. Tiến Thao lại đưa quân tấn công và đánh bại Lý Thính. Triều đình vừa trải qua chiến dịch ở Hoành Hải nên không muốn tiếp tục chiến tranh, đành công nhận Hà Tiến Thao là Tiết độ sứ và trao lại ba châu Tương, Vệ, Thiền cho Tiến Thao[16].

Cuối năm đó, Lý Tông Mẫn được phong làm tể tướng dưới sự ủng hộ của hoạn quan. Ít lâu sau, Lý Tông Mẫn oán ghét đại thần Lý Đức Dụ nên đuổi Đức Dụ ra trấn Nghĩa Thành. Quân Nam Chiếu tấn công vào địa giới Tây Xuyên[17], tiết độ sứ Đỗ Nguyên Dĩnh tấu lên triều đình và đưa đại quân chống lại, nhưng thất bại. Quân Nam Chiếu tiến thẳng vào Thành Đô và sắp chiếm được rồi cử sứ đến triều đình xin trị tội Đỗ Nguyên Dĩnh. Văn Tông nghe tin, bèn lấy Tiết độ sứ Đông Xuyên Quách Chiêu kiêm luôn cả Tây Xuyên, biếm chức Nguyên Dĩnh để điều đình. Quân Nam Chiếu chấp nhận hòa ước, nhưng cũng bắt giữ nhiều phụ nữ, bách công và vàng bạc châu báu rồi mới rút về nước[16].

Trung và hậu kì Thái Hòa (830 - 835)

Trong thời đại Văn Tông, Ngưu Lý Đảng tranh - một cuộc tranh chấp trong nội bộ các đại thần triều đình - vốn manh nha ngay từ thời Hiến Tông đã bùng phát dữ dội. Sau khi tể tướng Vi Xử Hậu mất và Bùi Độ từ nhiệm, Ngưu Tăng Nhụ được Lý Tông Mẫn tiến cử lên chức Binh bộ thượng thư, Đồng bình chương sự. Hai người kết bè đảng trong triều, gọi là Ngưu đảng và ra sức lấn át đại thần Lý Đức Dụ (vốn được Bùi Độ tiến cử trước đó), đẩy Đức Dụ ra trấn Nghĩa Thành. Về sau các nhà sử học gọi phe đảng của Lý Đức Dụ là Lý đảng. Trong khi đó Văn Tông chán ghét hoạn quan chuyên chính - nhất là Trung úy Vương Thủ Trừng - người kiểm soát quân đội triều đình và lấn át cả vua, lại nghĩa trước đó hai hoàng đế Hiến Tông, Kính Tông đã cũng chết trong tay hoạn quan, do vậy muốn tìm cách diệt trừ. Giữa năm 830, ông tìm cách liên hệ với Hàn lâm học sĩ Tống Thân Tích. Thấy Thân Tích là người có thể dùng được, Văn Tông phong ông ta làm tể tướng. Thân Tích lại tiến cử Lại bộ thị lang Vương Phan. Nhưng Vương Phan làm tiết lộ việc này đến tai Vương Thủ Trừng, nên Thủ Trừng đã có sự chuẩn bị. Năm 831, Thủ Trừng ngầm giật dây cho Thần Sách đô ngu hậu Đậu Lư Trứ vu cáo Tống Thần Tích có ý đồ phế bỏ Văn Tông để lập hoàng đệ là Chương vương Lý Thấu. Văn Tông chưa truy xét kĩ càng đã vội tức giận. Sau đó ông bãi chức Tống Thân Tích làm tư mã Khai châu, Chương vương Thấu giáng làm Sào huyện công. Kế hoạch diệt trừ hoạn quan bước đầu thất bại[6][16].

Trước đó năm 830, Lý Đức Dụ được bổ làm Tiết độ sứ Tây Xuyên[18]. Sang năm 831, Phó sứ Duy châu[19] của Thổ Phiên là Tất Đát có ý định dâng đất đầu hàng nhà Đường, đưa chúng tướng tới Thành Đô. Đức Dụ cho quân tiến vào Duy châu và chuẩn bị lấy nơi đây làm bàn đạp để lấn sâu vào đất Thổ Phiêm. Tin này truyền đến triều đình, nhiều đại thần có ý thuận theo kế hoạch của Đức Dụ. Nhưng Ngưu Tăng Nhụ không đồng ý vì cho rằng nếu ngang nhiên lấy đất của Thổ Phiên chính là phản lại hòa ước trước kia và sẽ dẫn đến việc Thổ Phiên quấy nhiễu biên cảnh. Văn Tông bèn hạ lệnh cho Lý Đức Dụ trả đất và bọn Tất Đất cho người Thổ. Cuối cùng Tất Đát bị Thổ Phiên giết một cách thảm khốc. Từ đó Lý Đức Dụ sinh oán thù Ngưu Tăng Nhụ. Năm 833 quần thần thỉnh tôn hiệu Thái Hòa Văn Vũ Chí Đức hoàng đế nhưng Văn Tông không nhận. Mãi đến cuối năm đó, quần thần lấy lí do Văn Tông làm vua đã 8 năm mà chưa có tôn hiệu, lại thỉnh tôn hiệu là Thái Hòa Văn Vũ Nhân Thánh hoàng đế, nhưng ông vẫn không nhận.

Từ sau cái chết của Điệu Hoài thái tử, Văn Tông vẫn chần chừ chưa lập thái tử mới. Mãi đến cuối năm 832, ông mới hạ lệnh lập con trai của mình là Lỗ vương Lý Vĩnh làm hoàng thái tử[16][6][20]. Cũng năm đó, Văn Tông lại hối hận việc trả đất cho Thổ Phiên trước kia và bất bình với Ngưu Tăng Nhụ. Tăng Nhụ sợ hãi bèn xin từ chức và được bổ làm Tiết độ sứ Vũ Xương[21]. Sau đó, Văn Tông triệu Lý Đức Dụ vào triều và phong làm tể tướng năm 833. Sau đó, Lý Đức Dụ nhân cơ hội lật đổ bè đảng của Lý Tông Mẫn, nhiều đại thần bị giáng chức, bản thân Tông Mẫn bị đuổi khỏi Trường An, giáng làm Tiết độ sứ Sơn Nam Tây Đạo[22].

Thời kì Khai Thành (836 - 840)

Qua đời

Câu nói nổi tiếng

Xưa kia các vua Noản vương đời ChuHiến Đế đời Hán bị cường thần bức hiếp, còn trẫm lại bị chính bọn nô lệ (tức [[hoạn quan) bức hiếp. Xét về điểm này thì trẫm cũng đã thua họ rồi.[23]

Niên hiệu

Dưới đây là các niên hiệu của Đường Văn Tông (niên hiệu, chữ Hán, bính âm, khoảng thời gian)

  • Thái Hòa (Tài hé 太和) 827-835
  • Khai Thành (開成 Kāi chéng) 836-840

Gia quyến

  • Cha: Đường Mục Tông Lý Hằng
  • Mẹ: Trinh Hiến hoàng hậu Tiêu thị
  • Hậu phi
    • Vương Đức phi
    • Dương Hiền phi
  • Con cái
    • Con trai
  1. Lỗ vương → Hoàng thái tử → Trang Khác thái tử Lý Vĩnh, con của Vương Đức phi.
  2. Tương vương Lý Tông Kiệm
    • Con gái: Đường Văn Tông có 4 con gái[24]:
  1. Công chúa Hưng Đường
  2. Công chúa Tây Bình
  3. Công chúa Lang Ninh (mất niên hiệu Hàm Thông)
  4. Công chúa Quang Hóa (mất niên hiệu Quảng Minh)

Chú thích

  1. ^ Ghi chú chung: Ngày tháng tại đây lấy theo lịch Julius. Nó không phải là lịch Gregory đón trước.
  2. ^ Academia Sinica
  3. ^ Trước đó hai vị vua Đường Trung Tông và Đường Duệ Tông đều ở ngôi hai lần không liên tục
  4. ^ Cựu Đường thư, quyển 16
  5. ^ Hiến Tông ban đầu lập trưởng tử Lý Ninh làm thái tử mặc dù Lý Hựu mới là con của vợ đích, đến năm 812 Lý Ninh qua đời thì Lý Hựu mới trở thành thái tử
  6. ^ a b c d e Cựu Đường thư, quyển 17.
  7. ^ Tư trị thông giám, quyển 241
  8. ^ Tư trị thông giám, quyển 242
  9. ^ a b c d e Tư trị thông giám, quyển 243.
  10. ^ Hà Bắc, Trung Quốc hiện nay
  11. ^ Trụ sở thuộc Tế Ninh, Sơn Đông, Trung Quốc hiện nay
  12. ^ Trụ sở nay thuộc Thạch Gia Trang, Hà Bắc, Trung Quốc
  13. ^ Tân Đường thư, quyển 82
  14. ^ Trụ sở thuộc Hàm Đan, Hà Bắc, Trung Quốc hiện nay
  15. ^ Trụ sở thuộc Vận Thành, Sơn Tây, Trung Quốc hiện nay
  16. ^ a b c d e Tư trị thông giám, quyển 244.
  17. ^ Trụ sở thuộc Thành Đô, Tứ Xuyên, Trung Quốc hiện nay
  18. ^ Cựu Đường thư, quyển 174
  19. ^ A Bá Tàng tộc, Khương tộc tự trị châu, Tứ Xuyên, Trung Quốc hiện nay
  20. ^ Cựu Đường thư, quyển 175
  21. ^ Vũ Hán, Hồ Bắc, Trung Quốc hiện nay
  22. ^ Trụ sở nay thuộc Hán Trung, Thiểm Tây, Trung Quốc
  23. ^ Tư trị thông giám, quyển 246
  24. ^ Tân Đường thư: Chư đế công chúa liệt truyện