Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Trấn Bình đài”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n thêm nguồn
Dòng 8: Dòng 8:
|địa chỉ =
|địa chỉ =
|đời vua = [[Gia Long]]
|đời vua = [[Gia Long]]
|xây dựng = 1805
|xây dựng = [[1805]]
|phá hủy =
|phá hủy =
|tình trạng = còn nguyên vẹn
|tình trạng = còn nguyên vẹn
Dòng 20: Dòng 20:
|tên điểm = Trấn Bình đài
|tên điểm = Trấn Bình đài
}}
}}
Tại góc đông bắc [[kinh thành Huế]], bên ngoài cửa Trấn Bình có một vòng thành riêng xây từ năm [[Gia Long]] thứ 4 (1805) gọi là '''đài Thái Bình''', đến năm [[Minh Mạng]] thứ 13 (1832) đổi thành '''Trấn Bình đài''', dân gian gọi là '''đồn Mang Cá'''<ref>Từ sau năm 1883 đất làng Thừa Thiên bên trong cửa Trấn Bình trở thành nhượng địa cho người Pháp ở ngay sau kinh thành Phú Xuân Huế, toàn bộ khu vực này đều gọi là Mang Cá, gồm '''Mang Cá nhỏ''' (Đài Trấn Bình) và Mang Cá lớn (đất nhượng địa ở làng Thừa Thiên) nay thuộc phường Thuận Lộc thành phố Huế.</ref>.
Tại góc đông bắc [[kinh thành Huế]], bên ngoài cửa Trấn Bình có một vòng thành đắp bằng đất có từ năm [[Gia Long]] thứ 4 ([[1805]]) gọi là '''đài Thái Bình'''. Đến năm [[Minh Mạng]] thứ 17 ([[1836]]), vòng thành được xây lại bằng gạch và đổi tên là '''Trấn Bình đài'''<ref>Theo Nguyễn Đắc Xuân, ''Hướng dẫn thăm Kinh thành Huế'', Nxb Thuận Hóa, 1993, tr. 142.</ref>, song dân gian gọi là '''đồn Mang Cá'''<ref>Từ sau năm [[1883]] đất làng Thừa Thiên bên trong cửa Trấn Bình trở thành nhượng địa cho người Pháp ở ngay sau kinh thành Phú Xuân Huế, toàn bộ khu vực này đều gọi là Mang Cá, gồm '''Mang Cá nhỏ''' (Đài Trấn Bình) và Mang Cá lớn (đất nhượng địa ở làng Thừa Thiên) nay thuộc phường Thuận Lộc thành phố Huế.</ref>.
[[Tập tin:Trấn Bình đài1.JPG|nhỏ|phải|250px|Trấn Bình Đài và cửa Trấn Bình, nhìn từ góc khác]]
[[Tập tin:Trấn Bình đài1.JPG|nhỏ|phải|250px|Trấn Bình Đài và cửa Trấn Bình, nhìn từ góc khác]]

==Cấu trúc==
==Cấu trúc==
Trấn Bình đài nằm ở vị trí Đông Bắc Kinh thành Huế được xây dựng theo kiểu Vauban:
Trấn Bình đài được xây dựng theo kiểu Vauban:
* Chu vi 1.048m,
* Chu vi 1.048 [[m]]
* Tường thành cao 5,10m dày gần 15m
* Tường thành cao 5,10 m dày gần 15 m
* Phòng lộ chạy dọc theo ngoài chân tường thành rộng khoảng 7,50m
* Phòng lộ chạy dọc theo ngoài chân tường thành rộng khoảng 7,50 m
* Hào rộng 32m và sâu 4,25m.
* Hào rộng 32m và sâu 4,25 m.


Trấn Bình đài là cái pháo đài thứ 25 của Kinh thành Huế, đây là một thành phụ của Kinh thành, cách thành chính chỉ một đoạn hào chung. Lúc trước, nơi đây được xây những bệ cao để đặt 3 giàn súng [[đại bác]] và kho [[đạn]] (hỏa dược khố), điếm canh. Trấn Bình môn và Trường Định môn là hai "ám đạo" để vào Trấn Bình Đài, những cửa này chỉ trổ xuyên qua thân tường thành, chứ không xây vọng lâu ở bên trên.
Trấn Bình đài là cái pháo đài thứ 25 của Kinh thành Huế, đây là một thành phụ của Kinh thành, cách thành chính chỉ một đoạn hào chung. Lúc trước, nơi đây được xây những bệ cao để đặt 3 giàn súng [[đại bác]] và kho [[đạn]] (hỏa dược khố), điếm canh. Trấn Bình môn và Trường Định môn là hai "ám đạo" để vào Trấn Bình Đài, những cửa này chỉ trổ xuyên qua thân tường thành, chứ không xây vọng lâu ở bên trên.
Dòng 35: Dòng 36:
Trấn Bình môn không nằm ở phạm vi của Trấn Bình đài, mà nằm thuộc vòng tường thành của Kinh thành. Cửa này được trổ ra ở giữa đoạn thành nối hai pháo đài Bắc Định và Đông Bình (của Kinh thành) lại với nhau. Ngay trước mặt cửa là một chiếc cầu xây bằng đá và gạch bắc qua hào, dùng để nối liền mạch giao thông giữa hai địa phận của thành chính và thành phụ.
Trấn Bình môn không nằm ở phạm vi của Trấn Bình đài, mà nằm thuộc vòng tường thành của Kinh thành. Cửa này được trổ ra ở giữa đoạn thành nối hai pháo đài Bắc Định và Đông Bình (của Kinh thành) lại với nhau. Ngay trước mặt cửa là một chiếc cầu xây bằng đá và gạch bắc qua hào, dùng để nối liền mạch giao thông giữa hai địa phận của thành chính và thành phụ.


Cửa Trường Định được trổ ra ở giữa hông phía nam Trấn Bình đài. Cửa này có kích thước nhỏ hẹp hơn so với các cửa của Kinh thành; lối đi chỉ rộng 2m và vòm cửa chỉ cao 3m. Cửa này được dùng cho quân lính phòng thủ ở thành phụ đi ra ngoài thành để phản kích trên những đoạn thành giai ở chung quanh nó và lân cận thuộc mé đông thành chính.
Cửa Trường Định được trổ ra ở giữa hông phía nam Trấn Bình đài. Cửa này có kích thước nhỏ hẹp hơn so với các cửa của Kinh thành; lối đi chỉ rộng 2 m và vòm cửa chỉ cao 3 m. Cửa này được dùng cho quân lính phòng thủ ở thành phụ đi ra ngoài thành để phản kích trên những đoạn thành giai ở chung quanh nó và lân cận thuộc mé đông thành chính.


Dọc theo mặt trong của vòng thành phụ, có tất cả 6 hệ thống bậc cấp dùng để đi lên tường thành, mỗi hệ thống bậc cấp rộng 3,35m. Trấn Bình đài ban đầu (1805) được đắp bằng đất, đến thời Gia Long và Minh Mạng, hai mặt của nó mới được xây ốp bằng gạch.
Dọc theo mặt trong của vòng thành phụ, có tất cả 6 hệ thống bậc cấp dùng để đi lên tường thành, mỗi hệ thống bậc cấp rộng 3,35 m.


==Lịch sử==
==Lịch sử==
Trong quá trình xâm lấn chủ quyền với triều đình Huế, người Pháp đã tìm cách chiếm hữu Trấn Bình đài kể từ sau vụ đánh chiếm [[trấn Hải Thành]] vào năm 1883. Vì yếu thế, triều đình [[nhà Nguyễn]] phải nhường Trấn Bình đài cho quân đội Pháp đóng quân theo tinh thần điều V của Hiệp ước Patenôtre (1884). Lúc đó, nơi đây vẫn được gọi là "thành Mang Cá", nhưng vào năm 1886, Toàn quyền Paul Bert lại ép triều đình [[Đồng Khánh]] nhường thêm một khu đất ở bên trong góc đông bắc của Kinh thành để quân đội Pháp xây dựng thêm doanh trại, đồn bót, bệnh xá, nhà nguyện.v.v... Người Pháp còn xây một bức tường thành bằng đá và gạch cao để ngăn cách riêng biệt phần [[tô giới]] mà họ thủ đắc trong [[Đại Nội|Thành Nội]] (''Concession Francaise de Hue''). Do đó, để phân biệt sự khác nhau giữa hai địa phận ấy, nhân dân địa phương đã gọi Trấn Bình đài là ''Mang Cá Nhỏ'' và khu đất mới nhường thêm ở trong góc Đông Bắc của kinh thành là ''Mang Cá Lớn''.
Trong quá trình xâm lấn chủ quyền với triều đình Huế, người Pháp đã tìm cách chiếm hữu Trấn Bình đài kể từ sau vụ đánh chiếm [[trấn Hải Thành]] vào năm [[1883]]. Vì yếu thế, triều đình [[nhà Nguyễn]] phải nhường Trấn Bình đài cho quân đội Pháp đóng quân theo tinh thần điều V của Hiệp ước Patenôtre ([[1884]]). Lúc đó, nơi đây vẫn được gọi là "thành Mang Cá", nhưng vào năm [[1886]], Toàn quyền Paul Bert lại ép triều đình [[Đồng Khánh]] nhường thêm một khu đất ở bên trong góc đông bắc của Kinh thành để quân đội Pháp xây dựng thêm doanh trại, đồn bót, bệnh xá, nhà nguyện.v.v... Người Pháp còn xây một bức tường thành bằng đá và gạch cao để ngăn cách riêng biệt phần [[tô giới]] mà họ thủ đắc trong [[Đại Nội|Thành Nội]] (''Concession Francaise de Hue''). Do đó, để phân biệt sự khác nhau giữa hai địa phận ấy, nhân dân địa phương đã gọi Trấn Bình đài là ''Mang Cá Nhỏ'' và khu đất mới nhường thêm ở trong góc Đông Bắc của kinh thành là ''Mang Cá Lớn''.


Ngày [[5 tháng 7]] năm 1885, trong [[Trận Kinh thành Huế 1885]], [[Tôn Thất Thuyết]] chỉ huy 20.000 quân tập kích vào đồn, tấn công 1.400 quân Pháp do De Courcy chỉ huy. Sau 20 giờ, quân Pháp phản công thành công khiến quân triều đình thiệt hại 1.000 người. Tôn Thất Thuyết đưa vua Hàm Nghi và gia quyến rút khỏi Huế, về Tân Sở, [[Quảng Trị]]. Tại đây, vua [[Hàm Nghi]] hạ [[chiếu Cần Vương]].
Ngày [[5 tháng 7]] năm 1885, trong [[Trận Kinh thành Huế 1885]], [[Tôn Thất Thuyết]] chỉ huy 20.000 quân tập kích vào đồn, tấn công 1.400 quân Pháp do De Courcy chỉ huy. Sau 20 giờ, quân Pháp phản công thành công khiến quân triều đình thiệt hại 1.000 người. Tôn Thất Thuyết đưa vua Hàm Nghi và gia quyến rút khỏi Huế, về Tân Sở ([[Quảng Trị]]). Tại đây, vua [[Hàm Nghi]] hạ [[chiếu Cần Vương]].


Sau khi thực dân Pháp rút về nước, đồn tiếp tục trở thành trại lích của Quân đội Việt Nam Cộng Hòa. Năm 1968, trong [[trận Mậu Thân tại Huế]], nơi đây chứng kiến một trong những trận giao tranh ác liệt nhất trong [[chiến tranh Việt Nam]]. Ngày 7 tháng 2 năm 1968, trong một trong những vụ tập kích đường không hiếm hoi của Bắc Việt, 4 chiếc [[IL-14]] của Không quân Nhân dân Việt Nam cất cánh từ [[Gia Lâm]] với mục tiêu ném bom đồn Mang Cá nhưng thất bại do không định vị được mục tiêu, kết quả 3 chiếc bay về an toàn, 1 chiếc bị rơi.
Sau khi [[thực dân Pháp]] rút về nước, đồn tiếp tục trở thành trại lích của Quân đội Việt Nam Cộng Hòa. Năm [[1968]], trong [[trận Mậu Thân tại Huế]], nơi đây chứng kiến một trong những trận giao tranh ác liệt nhất trong [[chiến tranh Việt Nam]]. Ngày [[7 tháng 2]] năm [[1968]], trong một trong những vụ tập kích đường không hiếm hoi của Bắc Việt, 4 chiếc [[IL-14]] của Không quân Nhân dân Việt Nam cất cánh từ [[Gia Lâm]] với mục tiêu ném bom đồn Mang Cá nhưng thất bại do không định vị được mục tiêu, kết quả 3 chiếc bay về an toàn, 1 chiếc bị rơi.


Sau năm 1975, Đồn Mang Cá (lớn) trở thành doanh trại [[Quân Đội Nhân Dân Việt Nam]].
Sau năm [[1975]], Đồn Mang Cá (lớn) trở thành doanh trại [[Quân Đội Nhân Dân Việt Nam]].
[[Tập tin:Cửa Chánh Bắc.jpg|nhỏ|phải|250px|Chánh Bắc môn]]
[[Tập tin:Cửa Chánh Bắc.jpg|nhỏ|phải|250px|Chánh Bắc môn]]
Năm 2004, Trung tâm Bảo tồn di tích Cố đô Huế đã chính thức làm lễ khánh thành, khai thông [[cửa Chánh Bắc]] lại sau 116 năm bị đóng kín.
Năm [[2004]], Trung tâm Bảo tồn di tích Cố đô Huế đã chính thức làm lễ khánh thành, khai thông [[cửa Chánh Bắc]] lại sau 116 năm bị đóng kín.


==Xem thêm==
==Xem thêm==
* [[Trấn Hải Thành]]
*[[Trấn Hải Thành]]
*[[Linh Hựu Quán]]
*[[Linh Hựu Quán]]
==Chú thích==
==Chú thích==

Phiên bản lúc 19:36, ngày 15 tháng 5 năm 2012

Trấn Bình đài
Trấn Bình đài
Tên khácđài Thái Bình, đồn Mang Cá
Vị trígóc đông bắc ngoài kinh thành Huế
Xây dựng1805
Đời vuaGia Long
Tình trạngcòn nguyên vẹn
Chức năngpháo đài bảo vệ kinh thành

Tại góc đông bắc kinh thành Huế, bên ngoài cửa Trấn Bình có một vòng thành đắp bằng đất có từ năm Gia Long thứ 4 (1805) gọi là đài Thái Bình. Đến năm Minh Mạng thứ 17 (1836), vòng thành được xây lại bằng gạch và đổi tên là Trấn Bình đài[1], song dân gian gọi là đồn Mang Cá[2].

Trấn Bình Đài và cửa Trấn Bình, nhìn từ góc khác

Cấu trúc

Trấn Bình đài được xây dựng theo kiểu Vauban:

  • Chu vi 1.048 m
  • Tường thành cao 5,10 m dày gần 15 m
  • Phòng lộ chạy dọc theo ngoài chân tường thành rộng khoảng 7,50 m
  • Hào rộng 32m và sâu 4,25 m.

Trấn Bình đài là cái pháo đài thứ 25 của Kinh thành Huế, đây là một thành phụ của Kinh thành, cách thành chính chỉ một đoạn hào chung. Lúc trước, nơi đây được xây những bệ cao để đặt 3 giàn súng đại bác và kho đạn (hỏa dược khố), điếm canh. Trấn Bình môn và Trường Định môn là hai "ám đạo" để vào Trấn Bình Đài, những cửa này chỉ trổ xuyên qua thân tường thành, chứ không xây vọng lâu ở bên trên.

Trấn Bình môn
Phế tích Trường Định môn

Trấn Bình môn không nằm ở phạm vi của Trấn Bình đài, mà nằm thuộc vòng tường thành của Kinh thành. Cửa này được trổ ra ở giữa đoạn thành nối hai pháo đài Bắc Định và Đông Bình (của Kinh thành) lại với nhau. Ngay trước mặt cửa là một chiếc cầu xây bằng đá và gạch bắc qua hào, dùng để nối liền mạch giao thông giữa hai địa phận của thành chính và thành phụ.

Cửa Trường Định được trổ ra ở giữa hông phía nam Trấn Bình đài. Cửa này có kích thước nhỏ hẹp hơn so với các cửa của Kinh thành; lối đi chỉ rộng 2 m và vòm cửa chỉ cao 3 m. Cửa này được dùng cho quân lính phòng thủ ở thành phụ đi ra ngoài thành để phản kích trên những đoạn thành giai ở chung quanh nó và lân cận thuộc mé đông thành chính.

Dọc theo mặt trong của vòng thành phụ, có tất cả 6 hệ thống bậc cấp dùng để đi lên tường thành, mỗi hệ thống bậc cấp rộng 3,35 m.

Lịch sử

Trong quá trình xâm lấn chủ quyền với triều đình Huế, người Pháp đã tìm cách chiếm hữu Trấn Bình đài kể từ sau vụ đánh chiếm trấn Hải Thành vào năm 1883. Vì yếu thế, triều đình nhà Nguyễn phải nhường Trấn Bình đài cho quân đội Pháp đóng quân theo tinh thần điều V của Hiệp ước Patenôtre (1884). Lúc đó, nơi đây vẫn được gọi là "thành Mang Cá", nhưng vào năm 1886, Toàn quyền Paul Bert lại ép triều đình Đồng Khánh nhường thêm một khu đất ở bên trong góc đông bắc của Kinh thành để quân đội Pháp xây dựng thêm doanh trại, đồn bót, bệnh xá, nhà nguyện.v.v... Người Pháp còn xây một bức tường thành bằng đá và gạch cao để ngăn cách riêng biệt phần tô giới mà họ thủ đắc trong Thành Nội (Concession Francaise de Hue). Do đó, để phân biệt sự khác nhau giữa hai địa phận ấy, nhân dân địa phương đã gọi Trấn Bình đài là Mang Cá Nhỏ và khu đất mới nhường thêm ở trong góc Đông Bắc của kinh thành là Mang Cá Lớn.

Ngày 5 tháng 7 năm 1885, trong Trận Kinh thành Huế 1885, Tôn Thất Thuyết chỉ huy 20.000 quân tập kích vào đồn, tấn công 1.400 quân Pháp do De Courcy chỉ huy. Sau 20 giờ, quân Pháp phản công thành công khiến quân triều đình thiệt hại 1.000 người. Tôn Thất Thuyết đưa vua Hàm Nghi và gia quyến rút khỏi Huế, về Tân Sở (Quảng Trị). Tại đây, vua Hàm Nghi hạ chiếu Cần Vương.

Sau khi thực dân Pháp rút về nước, đồn tiếp tục trở thành trại lích của Quân đội Việt Nam Cộng Hòa. Năm 1968, trong trận Mậu Thân tại Huế, nơi đây chứng kiến một trong những trận giao tranh ác liệt nhất trong chiến tranh Việt Nam. Ngày 7 tháng 2 năm 1968, trong một trong những vụ tập kích đường không hiếm hoi của Bắc Việt, 4 chiếc IL-14 của Không quân Nhân dân Việt Nam cất cánh từ Gia Lâm với mục tiêu ném bom đồn Mang Cá nhưng thất bại do không định vị được mục tiêu, kết quả 3 chiếc bay về an toàn, 1 chiếc bị rơi.

Sau năm 1975, Đồn Mang Cá (lớn) trở thành doanh trại Quân Đội Nhân Dân Việt Nam.

Chánh Bắc môn

Năm 2004, Trung tâm Bảo tồn di tích Cố đô Huế đã chính thức làm lễ khánh thành, khai thông cửa Chánh Bắc lại sau 116 năm bị đóng kín.

Xem thêm

Chú thích

  1. ^ Theo Nguyễn Đắc Xuân, Hướng dẫn thăm Kinh thành Huế, Nxb Thuận Hóa, 1993, tr. 142.
  2. ^ Từ sau năm 1883 đất làng Thừa Thiên bên trong cửa Trấn Bình trở thành nhượng địa cho người Pháp ở ngay sau kinh thành Phú Xuân Huế, toàn bộ khu vực này đều gọi là Mang Cá, gồm Mang Cá nhỏ (Đài Trấn Bình) và Mang Cá lớn (đất nhượng địa ở làng Thừa Thiên) nay thuộc phường Thuận Lộc thành phố Huế.

Tham khảo