Lục Ngạn

Lục Ngạn
Huyện
Huyện Lục Ngạn
Hành chính
Quốc gia Việt Nam
VùngĐông Bắc Bộ
TỉnhBắc Giang
Huyện lỵthị trấn Chũ
Trụ sở UBNDĐường Lê Duẩn, thị trấn Chũ
Phân chia hành chính1 thị trấn, 28 xã
Địa lý
Tọa độ: 21°22′24″B 106°33′58″Đ / 21,3733°B 106,566°Đ / 21.3733; 106.566
MapBản đồ huyện Lục Ngạn
Lục Ngạn trên bản đồ Việt Nam
Lục Ngạn
Lục Ngạn
Vị trí huyện Lục Ngạn trên bản đồ Việt Nam
Diện tích1.012 km²
Dân số (2019)
Tổng cộng226.540 người
Thành thị8.113 người (3,58%)
Nông thôn218.427 người (96,41%)
Mật độ223 người/km²
Dân tộcKinh, Sán Dìu, Nùng, Cao Lan, Hoa, Tày
Khác
Mã hành chính219[1]
Biển số xe98-E1-E2
Websitelucngan.bacgiang.gov.vn

Lục Ngạn là một huyện miền núi thuộc tỉnh Bắc Giang, Việt Nam.

Địa lý[sửa | sửa mã nguồn]

Huyện Lục Ngạn nằm ở phía đông tỉnh Bắc Giang, cách thành phố Bắc Giang 40 km về phía đông, có vị trí địa lý:

Lục Ngạn là huyện có diện tích tự nhiên lớn nhất tỉnh Bắc Giang, có địa hình đồi và núi xen lẫn.

Khí hậu[sửa | sửa mã nguồn]

Nhiệt độ trung bình là 23,5 °C, ít chịu ảnh hưởng của bão. Có nguồn nước dồi dào từ sông Lục Nam, hồ Cấm Sơn, hồ Khuôn Thần và đập Thum,...

Lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]

Thời Lý - Trần, huyện có tên là Na Ngạn, gồm địa bàn 2 huyện Lục Ngạn và Lục Nam ngày nay.

Thời kỳ thuộc Minh chia làm 2 huyện Lục Nam và Na Ngạn thuộc châu Lạng Giang, phủ Lạng Thương.

Đến thời Lê đổi thành Lục Ngạn thuộc phủ Lạng Giang.

Thời kỳ Pháp thuộc (1889), thực dân Pháp tách tả ngạn sông Thương thành 3 huyện: Hữu Lũng, Lục Ngạn, Bảo Lộc.

Tháng 9 năm 1891, thực dân Pháp đổi thành Đạo quan binh 1 – Phả Lại.

Tháng 10 năm 1895, Toàn quyền Đông Dương thành lập lại huyện Lục Ngạn.

Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, bỏ cấp phủ, châu, quận, gọi chung là huyện.

Ngày 21 tháng 1 năm 1957, Thủ trưởng Chính phủ ban hành Nghị định số 24-TTg[2]. Theo đó, điều chỉnh địa giới hành chính hai huyện Lục Ngạn và Sơn Động để thành lập huyện Lục Nam.

Sau khi điều chỉnh, huyện Lục Ngạn bao gồm 23 xã: Biển Động, Biên Sơn, Cấm Sơn, Đồng Cốc, Giáp Sơn, Hồng Giang, Kiên Lao, Kim Sơn, Ninh Hộ, Phong Minh, Phong Vân, Phú Nhuận, Phú Thịnh, Phượng Sơn, Tân Hoa, Tân Lập, Tân Mộc, Thanh Sơn, Thống Nhất, Toàn Thắng, Trù Hựu A, Trù Hựu B và Tự Do.

Ngày 20 tháng 7 năm 1957, thành lập thị trấn Chũ, thị trấn huyện lỵ huyện Lục Ngạn trên cơ sở tách phố Chũ thuộc xã Trù Hựu.[2][3]

Ngày 10 tháng 7 năm 1958, Bộ Nội vụ ra Nghị định số 225-NV. Theo đó:

  • Chia xã Cấm Sơn thành 2 xã: Cấm Sơn và Tân Sơn
  • Chia xã Đồng Cốc thành 2 xã: Đồng Cốc và Tân Quang
  • Chia xã Ninh Hộ thành 2 xã: Ninh Sơn và Hộ Đáp
  • Chia xã Kiên Lao thành 2 xã: Kiên Lao và Kiên Thành.

Ngày 28 tháng 7 năm 1958, chuyển xã Mỹ An thuộc huyện Lục Nam về huyện Lục Ngạn quản lý.

Ngày 27 tháng 10 năm 1962, hai tỉnh Bắc GiangBắc Ninh hợp nhất thành tỉnh Hà Bắc, huyện Lục Ngạn thuộc tỉnh Hà Bắc.[4]

Ngày 14 tháng 3 năm 1963, chuyển xã Đèo Gia thuộc huyện Sơn Động về huyện Lục Ngạn quản lý.[5]

Sau đó, một số xã lại được đổi tên: Ninh Sơn thành Sơn Hải, Phú Thịnh thành Phì Điền, Thanh Sơn thành Thanh Hải, Thống Nhất thành Quý Sơn, Toàn Thắng thành Nghĩa Hồ, Trù Hựu A thành Trù Hựu, Trù Hựu B thành Nam Dương và Tự Do thành Sa Lý. Từ đó, huyện Lục Ngạn có 1 thị trấn Chũ (huyện lỵ) và 29 xã: Biển Động, Biên Sơn, Cấm Sơn, Đèo Gia, Đồng Cốc, Giáp Sơn, Hộ Đáp, Hồng Giang, Kiên Lao, Kiên Thành, Kim Sơn, Mỹ An, Nam Dương, Nghĩa Hồ, Phì Điền, Phong Minh, Phong Vân, Phú Nhuận, Phượng Sơn, Quý Sơn, Sa Lý, Sơn Hải, Tân Hoa, Tân Lập, Tân Mộc, Tân Quang, Tân Sơn, Thanh Hải, Trù Hựu.

Ngày 30 tháng 1 năm 1985, giải thể xã Kim Sơn, địa bàn sáp nhập vào xã Biển Động và trường bắn TB1[6]. Tuy nhiên, đến ngày 19 tháng 10 năm 1993, xã Kim Sơn được tái lập trên cơ sở 1 xóm đã cắt về xã Biển Động và phần diện tích do trường bắn TB1 bàn giao lại.

Ngày 7 tháng 10 năm 1995, mở rộng thị trấn Chũ trên cơ sở sáp nhập 184 ha và 844 người thuộc xã Trù Hựu (gồm làng Chũ, làng Nhật Đức và các hộ dân cư thuộc xã Trù Hựu đang sống xen cư trên địa bàn thị trấn Chũ).[7]

Ngày 6 tháng 11 năm 1996, huyện Lục Ngạn thuộc tỉnh Bắc Giang vừa được tái lập.[8]

Ngày 5 tháng 6 năm 2013, thị trấn Chũ mở rộng được công nhận là đô thị loại IV.[2][9]

Ngày 1 tháng 1 năm 2020, sáp nhập xã Nghĩa Hồ vào thị trấn Chũ.[10]

Huyện Lục Ngạn có 1 thị trấn và 28 xã như hiện nay.

Hành chính[sửa | sửa mã nguồn]

Huyện Lục Ngạn có 29 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm thị trấn Chũ (huyện lỵ) và 28 xã: Biển Động, Biên Sơn, Cấm Sơn, Đèo Gia, Đồng Cốc, Giáp Sơn, Hộ Đáp, Hồng Giang, Kiên Lao, Kiên Thành, Kim Sơn, Mỹ An, Nam Dương, Phì Điền, Phong Minh, Phong Vân, Phú Nhuận, Phượng Sơn, Quý Sơn, Sa Lý, Sơn Hải, Tân Hoa, Tân Lập, Tân Mộc, Tân Quang, Tân Sơn, Thanh Hải, Trù Hựu.

Một phần diện tích Trường bắn Quốc gia Khu vực 1 (trước đây là Trung tâm huấn luyện Cấm Sơn) nằm trên địa bàn huyện và không thuộc địa giới hành chính xã nào.

Kinh tế[sửa | sửa mã nguồn]

Nền kinh tế của huyện tập trung vào ngành nông nghiệp với thế mạnh là trồng trọt cây ăn quả, điển hình là vải thiều, nhãn, hồng, na... Có nhà máy chế biến hoa quả trên địa bàn đã xuất khẩu rau quả tươi và đóng hộp sang các nước.

Huyện cũng có tiềm năng du lịch sinh thái: miệt vườn, khu sinh thái hồ Cấm Sơn, Khuôn Thần... Ngoài ra, có danh lam thắng cảnh như đền Hả, chùa Khánh Vân, chùa Am Vãi (Biềng, xã Nam Dương).

Làng nghề[sửa | sửa mã nguồn]

Lục Ngạn là một huyện phía Đông của tỉnh Bắc Giang. Địa hình phần lớn là đồi thấp lô nhô và thoải rất thích hợp với trồng trọt nhiều loại cây ăn quả đặc biệt là cây vải. Hiện nay Lục Ngạn là huyện có sản lượng vải thiều lớn nhất cả nước. Vào mùa vải trục đường quốc lộ 31 qua phố Kim, phố Chũ, đến Hồng Giang, Giáp Sơn... tấp nập người đến thu mua từ nhiều tỉnh thành, người bán từng đoàn xe máy, xe cơ giới chở vải tấp nập cả đoạn quốc lộ 31 qua huyện. Ngoài thế mạnh về cây vải thiều thì huyện cũng nhiều địa phương có nghề, một số sản phẩm của làng nghề nơi đây còn là đặc sản của huyện thậm chí còn nổi tiếng cả vùng và các tỉnh lân cận được nhiều người biết đến và thích thú:

  • Làng nghề làm mì gạo Thủ Dương (Nam Dương)
  • Có nghề nấu rượu Gai Đông (Kiên Thành)
  • Nghề làm mì gạo thôn Cảnh (Nam Dương)
  • Nghề thu gom, làm mì gạo Chũ (thị trấn Chũ)
  • Xôi dẻo, xôi màu Phì Điền
  • Làng nghề sinh vật cảnh thôn Bồng (Thanh Hải)
  • Nghề làm mì gạo Bến Huyện (Nam Dương)
  • Ong, mật ong hoa vải Nghĩa Hồ (thị trấn Chũ)
  • Nghề nấu rượu men lá Gai Tây (Kiên Thành)
  • Nghề làm mì gạo thôn Cầu Meo (Nam Dương)
  • Trồng vải thiều rộng rãi ở nhiều xã.

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Tổng cục Thống kê
  2. ^ a b c Địa chí Bắc Giang: địa lý và kinh tế. Sở văn hóa thông tin Bắc Giang và Trung tâm Unesco thông tin tư liệu lịch sử và văn hóa Việt Nam. 2006. tr. 96-97.
  3. ^ “Công nhận thị trấn Chũ, huyện Lục Ngạn (Bắc Giang) mở rộng đạt tiêu chuẩn đô thị loại IV”.
  4. ^ “Nghị quyết về việc hợp nhất tỉnh Hải Ninh và khu Hồng Quảng và sáp nhập xã Hữu Sản thuộc huyện Đình Lập, tỉnh Hải Ninh, huyện Sơn Động, tỉnh Hà Bắc”.
  5. ^ Quyết định số 25-CP năm 1963 của Hội đồng Chính phủ.
  6. ^ “Quyết định 21-HĐBT năm 1985 về việc phân vạch địa giới một số xã thuộc tỉnh Hà Bắc”.
  7. ^ Quyết định số 58-CP năm 1995 của Chính phủ.
  8. ^ “Nghị quyết về việc chia và điều chỉnh địa giới hành chính một số tỉnh do Quốc hội ban hành”.
  9. ^ “Quyết định 567/QĐ-BXD năm 2013 về việc công nhận thị trấn Chũ mở rộng, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang là đô thị loại IV do Bộ Xây dựng ban hành”.
  10. ^ “Nghị quyết số 813/NQ-UBTVQH14 năm 2019 về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp xã thuộc tỉnh Bắc Giang”.

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]