Wildest Dreams (bài hát của Taylor Swift)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
"Wildest Dreams"
Bức ảnh bìa tông trắng đen của "Wildest Dreams" chứa cảnh Swift đang đứng dựa và nghiêng người
Đĩa đơn của Taylor Swift từ album 1989
Phát hành31 tháng 8 năm 2015 (2015-08-31)
Phòng thu
  • MXM (Stockholm)
  • Conway (Los Angeles)
Thể loại
Thời lượng3:40
Hãng đĩaBig Machine
Sáng tác
Sản xuất
  • Max Martin
  • Shellback
Thứ tự đĩa đơn của Taylor Swift
"Bad Blood"
(2015)
"Wildest Dreams"
(2015)
"Out of the Woods"
(2016)
Video âm nhạc
"Wildest Dreams" trên YouTube

"Wildest Dreams" là một bài hát của ca sĩ kiêm nhạc sĩ sáng tác bài hát người Mỹ Taylor Swift, đồng thời là đĩa đơn thứ năm trích từ album phòng thu thứ năm 1989 (2014) của cô. Swift đã sáng tác bài hát này cùng với các nhà sản xuất Max MartinShellback. "Wildest Dreams" là một bản ballad atmospheric được phối khí bằng các nhạc cụ gõ trống lập trình, đàn tổng hợp synthesizernhạc cụ kéo dây live mô phỏng theo phong cách đàn Mellotron. Những nhịp điệu bên trong ca khúc là từng tiếng nhịp tim của Swift. Các cây viết phê bình đã xếp "Wildest Dreams" thuộc thể loại synth-pop, dream popelectropop. Ca từ của nhạc phẩm kể về Swift có nguyện vọng với chàng trai người yêu rằng anh chàng ấy hãy luôn ghi nhớ về cô kể cả khi chuyện tình giữa hai người họ đi đến hồi kết. Hãng thu âm Big Machine đã tác hợp cùng với hãng Republic Records cho phát hành "Wildest Dreams" lên đài phát thanh vào ngày 31 tháng 8 năm 2015.

Sau khi bài hát được phát hành, các nhà phê bình cảm nhận được vẻ quyến rũ bên trong phần sản xuất và thanh giọng của Swift, còn những người khác thì nhận thấy bài hát có nét tương đồng khi so sánh với chất nhạc của Lana Del Rey. Qua thời gian, nhiều ngòi bút đánh giá khi nhìn lại đã khen ngợi "Wildest Dreams" là một trong những bản ca đáng khắc ghi trong lòng nhất của Swift. Đĩa đơn đã vươn lên top 5 tại các bảng xếp hạng Úc, Canada, Ba Lan và Nam Phi. Ca khúc được chứng nhận đĩa 8× Bạch kim tại Úc, đĩa Bạch kim ở Canada, Bồ Đào Nha và Anh Quốc. Tại Hoa Kỳ, "Wildest Dreams" đạt vị trí cao nhất ở thứ năm và trở thành đĩa đơn top 10 thứ năm liên tiếp của 1989 trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100. Ca khúc còn leo lên ngôi quán quân tại ba bảng xếp hạng phát thanh Billboard. Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ đã chứng nhận cho "Wildest Dreams" đĩa 4× Bạch kim.

Joseph Kahn phụ trách đạo diễn video âm nhạc của "Wildest Dreams". Bối cảnh được đặt ở châu Phi vào những năm 1950, trong đó Swift vào vai một nữ diễn viên Hollywood kinh điển rơi vào mối tình với người bạn diễn của mình, nhưng rồi cuộc yêu ấy đã chấm dứt sau khi dự án quay phim của họ đóng máy. Nhiều nhà xuất bản truyền thông đã tán tương khâu sản xuất đậm nét điện ảnh nhưng họ lại chỉ trích vì video biểu dương chủ nghĩa thực dân người da trắng, và chính đạo diễn Kahn đã đứng ra phản bác lời gièm pha đó. Swift đã đưa "Wildest Dreams" vào danh sách ca khúc trong hai chuyến lưu diễn toàn thế giới của cô, The 1989 World Tour (2015) và The Eras Tour (2023–2024). Sau cuộc tranh chấp quyền sở hữu tác phẩm của Swift vào năm 2019 cùng với việc "Wildest Dreams" được nhiều người lan truyền trên mạng xã hội TikTok vào năm 2021, Swift phát hành bản tái thu âm của nhạc phẩm với tựa đề "Wildest Dreams (Taylor's Version)".

Bối cảnh và sản xuất[sửa | sửa mã nguồn]

Trước kia, Taylor Swift được cho là một nhạc sĩ đồng quê cho đến khi cô phát hành album phòng thu thứ tư, Red, vào ngày 22 tháng 10 năm 2012.[1][2] Nữ nhạc sĩ đã hòa trộn thêm thể loại pop chiết trung với rock trong Red, làm cho nhạc phẩm trở nên khác lạ so với phong cách đồng quê trong các album trước đây của cô. Vì lẽ đó, nhiều nhà phê bình phải đặt dấu chấm hỏi về bản sắc âm nhạc đồng quê của Swift.[1][3] Swift bắt đầu sáng tác các bài hát cho album phòng thu thứ năm vào giữa năm 2013 trong lúc vẫn còn đang thực hiện chuyến lưu diễn The Red Tour,[4] bằng cách khơi gợi cảm hứng từ thể loại synth-pop đến từ thập niên 1980. Năm 2014, album phòng thu thứ năm 1989 của Swift lên kệ, trở thành "album mang tư liệu pop chính thức đầu tiên" theo lời tuyên bố của nữ ca sĩ cũng như album được đặt tên theo năm sinh của cô.[5][6] Thông qua 1989, Swift đã cùng với các nhà sản xuất tận dụng mạnh mẽ các nhạc cụ gõ trống lập trình, đàn tổng hợp synthesizer và phong cách điện tửdance, khiến cho album này tương phản hoàn toàn so với phong cách biên khúc acoustic đến từ các album đồng quê trước kia của nữ ca sĩ.[7][8]

Swift và Max Martin trở thành giám đốc sản xuất của 1989.[9] Ở phần ghi công trong Digital Booklet của 1989 (Deluxe Edition) cho biết, Martin và người hợp tác thường xuyên Shellback của ông sản xuất 9 bài hát trên tổng số 16 bài hát, gồm cả "Wildest Dreams".[10] Swift sáng tác "Wildest Dreams" cùng với Martin và Shellback, còn hai nhà sản xuất thì phụ trách sản xuất và lập trình âm thanh cho bài hát cũng như đánh phím điện tử. Martin tham gia vào gõ piano, và Shellback biểu diễn guitar điện cùng với nhạc cụ gõ.[10] Mattias Bylund tiến hành công đoạn sản xuất "Wildest Dreams" sau khi Martin phát bản nhạc cho anh. Bylund đảm đương công việc thu âm phần trình diễn và biên khúc phần kéo dây, rồi sau đó chỉnh sửa bản ghi trong phòng thu tại nhà riêng của anh bên Tuve, Thụy Điển.[9] Michael Ilbert và Sam Holland, cùng sự hỗ trợ của Cory Bice, đã ghi âm ca khúc tại MXM StudiosStockholmConway Recording Studios ở Los Angeles. Serban Ghenea trộn âm "Wildest Dreams" tại MixStar Studios bên Virginia Beach, còn Tom Coyne thì được giao nhiệm vụ hoàn chỉnh âm thanh tại Sterling Sound bên thành phố New York.[10]

Nhạc và lời[sửa | sửa mã nguồn]

"Wildest Dreams" là một nhạc phẩm power ballad.[11] Các nhà phê bình đã phân thể loại cho bài hát là synth-pop,[12][13] dream pop[11]electropop,[14] với yếu tố phụ là chillwave.[15] Về phổ nhạc, "Wildest Dreams" được sáng tác trên cung độ La giáng trưởng, với tiết tấu vừa phải cùng số nhịp trung bình là 69 nhịp mỗi phút.[16] Swift đã ghi chú và sử dụng âm thanh nhịp tim của chính mình để tạo tiết tấu cho bài hát.[10][17] Phần khí nhạc là sự kết hợp giữa các nhạc cụ gõ trống lập trình, đàn tổng hợp synthesizer sôi động và bộ dây staccato được tái tạo cùng với âm đàn Mellotron.[9][18][19] Từ phần giang tấu đến phần phân khúc đầu tiên của "Wildest Dreams" là chuỗi tiến trình hợp âm lặp lại D–E(add4).[16] Trong phần điệp khúc, nhạc sĩ Mattias Bylund cho rằng giai điệu xuất phát từ nhạc cụ bộ dây live nghe giống như "các hợp âm nhịp điệu mang phong cách của Coldplay".[9] Swift đã tận dụng kỹ thuật lấy giọng nhiều hơi để thể hiện "Wildest Dreams",[18][20][21] với khoảng âm vực của cô trải dài từ nốt trầm nhất là E3 cho đến nốt cao nhất là E5.[16] Cây viết Jon Caramanica đến từ báo The New York Times cho biết, nữ ca sĩ đã hát bằng tông giọng "thờ thẫn" ở các phân khúc rồi sau đó "nâng tông lên hơn quãng tám" ở phần bridge chuyển tiếp.[22] Người viết tạp chí Jem Aswad cho Billboard phát biểu rằng Swift đã "[uyển chuyển thay đổi] giữa giọng soprano e ấp dao động và giọng alto gây chấn động lòng người".[23] Mặc dù việc Swift đưa âm đàn tổng hợp và bộ gõ trống vào trong "Wildest Dreams" đã gây ra sự đối nghịch với âm nhạc trước đó của cô, nhưng nhà âm nhạc học James E. Perone vẫn đưa ra nhận định rằng phần sáng tác của bài hát vẫn còn giữ lại các yếu tố xuất phát từ các bản nhạc đồng quê trước đây. Chẳng hạn như, Swift vẫn còn "tận dụng nặng nề" âm giai ngũ cung trong phần giai điệu và quá trình biến chuyển giữa hợp âm trưởng thứ ở phần điệp khúc.[19]

Về phần lời, bài hát kể về nhân vật của Swift có nguyện vọng với chàng trai người yêu rằng anh chàng ấy hãy luôn ghi nhớ về cô kể cả khi chuyện tình giữa hai người họ đi đến hồi kết, tuy nhiên cô gái ấy vẫn còn yêu chàng trai đó.[21][24] Thông điệp bí mật của ca khúc sau khi giải mã trong phần ghi chú album 1989 là, "He only saw her in his dreams."[17][a] Phần phân khúc đầu tiên diễn tả tâm trạng dục vọng thèm khát: "He's so tall, and handsome as hell/ He's so bad, but he does it so well/ I can see the end as it begins."[25][26][b] Swift tiếp đến thể hiện vai diễn của một người phụ nữ mang bờ môi đỏ mọng và thổ lộ khao khát được sống mãi trong ký ức của người tình qua từng lời, "Say you remember me/ Standing in a nice dress, staring at the sunset, babe".[10][27][28][c] Sau đó, cô cảnh báo với người tình rằng cô sẽ ám ảnh anh: "Say you'll see me again even if it's just in your wildest dreams."[29][d] Đoạn bridge của bài hát bắt đầu đi theo double time[e] và cho thấy nhân vật của Swift khẳng định, "You see me in hindsight/ Tangled up with you all night/ Burnin' it down."[30][31][f] Nhiều nhà phê bình đã diễn tả những thanh âm trong "Wildest Dreams" là quyến rũ, gợi cảm và kịch tính. Họ so sánh quá trình sản xuất và chủ đề mối tình lãng mạn tàn lụi với phong cách âm nhạc của ca sĩ kiêm nhạc sĩ sáng tác bài hát Lana Del Rey.[g] Cây bút Alexis Petridis đến từ báo The Guardian cảm nhận rằng, bài hát đã dứt bỏ hoàn toàn "hiện thân người con gái thương tâm đang sụt sùi trước người bạn trai tồi" trước đó của Swift và thay vào đó, nữ ca-nhạc sĩ đã khiến cho gã đàn ông ấy trở thành nạn nhân của cô trong chuyện tình.[24] Forrest Wickman của tạp chí Slate đã liên tưởng cá tính của Swift là "kiểu như [...] nữ thần quyến rũ nguy hiểm (femme fatale)",[29] còn Robert Leedham viết cho Drowned in Sound thì bảo rằng, lời ca đã lột tả nét kiêu hãnh và tự tin của nữ ca sĩ để "[bước sang] những điều tốt đẹp hơn", trái ngược với tâm lý nạn nhân trong các bài hát trước đây của cô.[34]

Phát hành và diễn biến thương mại[sửa | sửa mã nguồn]

Sau khi hãng đĩa Big Machine Records phát hành 1989 vào ngày 27 tháng 10 năm 2014, "Wildest Dreams" trở thành ca khúc thứ chín trong danh sách bài hát của album.[10][35] Bài hát mở màn trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100 ở vị trí thứ 76 vào tháng 11 năm 2014.[36] Ngày 5 tháng 8 năm 2015, Swift tiết lộ trên mạng xã hội Twitter rằng cô sẽ phát hành "Wildest Dreams" làm đĩa đơn thứ năm cho 1989, sau chuỗi đĩa đơn top 10 Hot 100 "Shake It Off", "Blank Space", "Style" và "Bad Blood".[37] Tại Hoa Kỳ, Big Machine tác hợp cùng với hãng Republic Records cho phát hành "Wildest Dreams" lên đài phát thanh hot adult contemporary vào ngày 31 tháng 8[38]hit đương đại vào ngày 1 tháng 9 năm 2015.[39] Sau đó, Big Machine ra mắt bản phối lại R3hab của bài hát ở định dạng tải kỹ thuật số trên iTunes Store vào ngày 15 tháng 10[40]Universal Music phát hành phiên bản gốc cho đài phát thanh nước Ý vào ngày 30 tháng 10.[41]

Tại bảng xếp hạng Billboard Hot 100, "Wildest Dreams" quay trở lại ở vị trí thứ 15 trong tuần lễ ngày 19 tháng 9 năm 2015 sau khi được phát hành làm đĩa đơn.[42] Ca khúc vươn lên vị trí thứ 10 vào ngày 10 tháng 10 năm 2015, và trở thành đĩa đơn top 10 thứ năm liên tiếp của 1989.[43] Ở số phát hành tạp chí Billboard ngày 7 tháng 11 năm 2015, "Wildest Dreams" dừng chân ở vị trí cao nhất là hạng 5 trên Hot 100, đồng thời trở thành đĩa đơn quán quân thứ năm liên tiếp của 1989 trên hai bảng xếp hạng phát thanh của BillboardPop SongsAdult Pop Songs. Khi đó, 1989 đồng hạng với Teenage Dream của Katy Perry (2010) trở thành hai album có số lượng bài hát số một trên Adult Pop Songs nhiều nhất.[44] Bên bảng xếp hạng phát thanh Dance/Mix Show Airplay của Billboard, bản remix của R3hab đã đưa "Wildest Dreams" trở thành bài hát quán quân đầu tiên của Swift ở bảng xếp hạng này và mang về thành tựu cho nữ ca sĩ là nữ nghệ sĩ đầu tiên có năm bài hát top 10 trong vòng một năm.[45] Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ (RIAA) đã chứng nhận đĩa 4× Bạch kim và tổng doanh số kỹ thuật số đạt hai triệu bản tại Hoa Kỳ (tính đến tháng 11 năm 2017) cho "Wildest Dreams".[46]

"Wildest Dreams" leo lên top 10 ở nhiều bảng xếp hạng đĩa đơn trên thế giới. Chẳng hạn như Canada (4),[47] Nam Phi (5),[48] Venezuela (6),[49] Iceland (8),[50] New Zealand (8),[51] Slovakia (8)[52] và Scotland (9).[53] Đĩa đơn được chứng nhận đĩa Bạch kim đơn tại Canada,[54] Bồ Đào Nha,[55] và Anh Quốc.[56] Bản nhạc còn được chứng nhận Vàng ở New Zealand,[57] Đan Mạch,[58] Đức,[59] Ý[60] và Na Uy.[61] Phía bên nước Úc, "Wildest Dreams" đạt thứ hạng cao nhất là hạng ba trên bảng xếp hạng đĩa đơn[62] và được Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc (ARIA) chứng nhận đĩa 8× Bạch kim.[63]

Đánh giá chuyên môn[sửa | sửa mã nguồn]

"Wildest Dreams" nhận được nhiều bài đánh giá trái chiều từ các nhà phê bình sau khi ra mắt. Cây bút Petridis cảm thấy "cực kỳ phấn khởi" trước việc Swift đã đưa góc nhìn mới vào trong quá trình sáng tác bài hát của nữ ca sĩ.[24] Caramanica bảo rằng "Wildest Dreams" là ca khúc mà Swift "thay đổi tông giọng nhiều nhất" trong album 1989 và điều đó cho thấy cô đã thể hiện cảm xúc bản thân bằng nhiều phương diện mới trong âm nhạc.[22] Nhà báo Ed Masley đến từ The Arizona Republic đã nhận định bài hát "gây ám ảnh" và giọng ca của Swift nghe thật "gợi cảm".[14] Sam Lansky của tạp chí Time đã diễn tả cả quá trình sản xuất "Wildest Dreams" là "tươi tắn" và đậm nét "huy hoàng của điện ảnh".[25] Ngòi bút Paul Nolan bên phía Hot Press đã chọn ca khúc này là bản nhạc xuất sắc nhất của album nhờ vào sự phối hợp giữa yếu tố phụ chillwave với "các đoạn điệp khúc gây chấn động và dễ hát theo".[15] "Wildest Dreams" đã giúp Swift mang về giải thưởng Nhạc sĩ sáng tác bài hát của năm tại giải BMI Pop năm 2016[64] và được công nhận tại giải ASCAP năm 2017.[65]

Tuy nhiên, những bài đánh giá khác đã lên tiếng cho rằng, "Wildest Dreams" đã chịu ảnh hưởng trước âm nhạc của Lana Del Rey đến mức làm tính chân thực của Swift biến mất trong bài hát.[66] Aswad bảo rằng "để mà nói bài hát mang tính thần phục hay nhại lại hài hước thì thật khó".[23] Còn Wickman lẫn Mikael Wood bên Los Angeles Times thì chê bai rằng, quá trình sáng tác nhạc của Swift giờ đây đã mất đi cái chất đặc biệt vốn có của nó.[18][29] Cả Shane Kimberline đến từ MusicOMH lẫn cây viết Lindsay Zoladz bên trang Vulture đều phê bình "Wildest Dreams" là một trong những bài yếu ớt nhất trong album và phát biểu vấn đề rằng, thanh nhạc cùng ca từ của Swift đều nghe tựa như phong cách âm nhạc của Del Rey.[20][67] Annie Galvin của Slant Magazine nhận định, tuy rằng giọng hát của Swift đã làm bật lên lời ca tự sự nhưng bài hát lại "nhái theo [Del Rey] đầy sai lầm" với cốt truyện dễ đoán.[26] Trong bài viết bên The Atlantic, Kevin O'Keeffe phản pháo rằng việc so sánh "Wildest Dreams" với Del Rey là gây ra "bất bình đẳng". Emma Green thì ca ngợi lời bài hát mang tính cốt truyện, cô khẳng định rằng ca từ "không hề tỏ ra nao núng, có thể gây ám ảnh, mang hoài niệm tha thiết và niềm ước đoán" và khác biệt với phong cách "hoài cổ điêu nghệ và cool girl" của Del Rey.[21]

Sau này, Rob Sheffield của Rolling Stone viết trên báo vào năm 2019 rằng "Wildest Dreams" mang âm thanh "càng ngày càng mạnh mẽ hơn qua nhiều năm tháng".[68] Nhà phê bình Hannah Mylrae bên NME khen đĩa nhạc là "vẻ đẹp",[12] còn Nate Jones bên Vulture thì công nhận "Wildest Dreams" là một trong 10 bài hát hay nhất và đặc biệt tán tương "đoạn bridge double-time tràn đầy sinh lực".[30] Billboard đã xếp đoạn bridge của ca khúc ở vị trí thứ 66 trong danh sách 100 đoạn bridge vĩ đại nhất thế kỷ 21 của tạp chí.[31] Alex Hudson và Megan LaPierre của Exclaim! liệt "Wildest Dreams" vào danh sách 20 bài hát của Swift hay nhất của họ, và khẳng định nữ ca sĩ đã "hoàn toàn thâu tóm" được phong cách giống của Del Rey.[69] Jane Song bên phía Paste khen ngợi phần sản xuất của "Wildest Dreams" mang nét "dark pop đậm chất Lana Del Rey" và phát biểu rằng lời nhạc nói về ký ức khiến cho ca khúc "có sức níu giữ hơn bạn mong đợi".[70] Petridis đã xếp đĩa đơn ở hàng thứ 18 trên 44 đĩa đơn mà Swift đã phát hành tính đến tháng 4 năm 2019. Anh bảo rằng, "Wildest Dreams" đã khắc họa lối viết nhạc lấy cảm hứng từ Del Rey bằng "bước ngoặt thông minh và đem đến sự hài lòng".[71]

Video âm nhạc[sửa | sửa mã nguồn]

Phát triển và nội dung[sửa | sửa mã nguồn]

Phong cảnh hoang dã tại Serengeti, một trong những nơi thực hiện video âm nhạc cho "Wildest Dreams".[72]

Joseph Kahn phụ trách đạo diễn video âm nhạc cho "Wildest Dreams"[73] và đây là lần thứ ba anh thực hiện công việc đạo diễn video âm nhạc cho đĩa đơn album 1989, sau "Blank Space" và "Bad Blood".[74] Quá trình quay phim chủ yếu diễn ra tại BotswanaNam Phi. Swift đã lấy cảm hứng từ quyển hồi ký The Secret Conversations (2013) của nữ diễn viên Ava Gardner[75][76] nhằm lên ý tưởng chủ đề cho video là về cuộc ngoại tình giữa hai diễn viên tại một nơi hoang vu bên châu Phi, bởi vì họ chỉ có thể tương tác qua lại với nhau khi ấy mà không cần dùng bất cứ loại hình giao tiếp nào khác.[77] Còn đạo diễn Kahn thì lấy ý tưởng tình yêu lãng mạn tại châu Phi thông qua các bộ phim như The African Queen (1951), Out of Africa (1985) và The English Patient (1996).[78]

Về nội dung, video âm nhạc tập trung vào cuộc ngoại tình giữa nữ diễn viên đóng phim Hollywood kinh điển (Swift) và người bạn diễn nam giới của cô (Scott Eastwood), lấy bối cảnh tại châu Phi vào thập niên 1950.[79][80] Kahn đã so sánh cuộc ngoại tình này giống như câu chuyện giữa Elizabeth TaylorRichard Burton.[78] Cặp đôi phát sinh quan hệ tình cảm ngoài màn ảnh. Trong video còn quay nhiều cảnh hoang dã hùng vĩ bát ngát, bao gồm nhiều loài muôn thú như hươu cao cổ, ngựa vằn, voi và sư tử tại một vùng đất đồng cỏ xa-van rộng lớn.[81] Cuộc tình dan díu trở nên căng thẳng sau khi hai người cãi nhau tại trường quay.[80] Đến khúc mối tình chấm dứt, cả hai quay phim trước phông nền xa-van tại một trường quay bên California.[79] Tại buổi công chiếu bộ phim, nhân vật của Swift phát hiện người bạn diễn của cô hôn người phụ nữ khác. Trong lúc đang chiếu phim, nữ diễn viên chính rời khỏi rạp và leo lên chiếc limousine đang đợi cô. Bạn diễn nam khi đó đuổi theo cô đến giữa đường và đành nhìn nhân vật của Swift rời đi trong cảm giác muộn màng.[82]

Phát hành và đón nhận[sửa | sửa mã nguồn]

Video âm nhạc của "Wildest Dreams" được công chiếu trên truyền hình ở phần pre-show giải Video âm nhạc của MTV năm 2015 vào ngày 31 tháng 8.[83] Swift đã quyên góp toàn bộ kinh phí thu được từ video cho quỹ African Parks tại Hoa Kỳ nhằm ủng hộ việc bảo tồn động vật hoang dã.[84] Cây viết Brittany Spanos đến từ tạp chí Rolling Stone bình luận rằng Swift và Eastwood đã tập trung khai thác "vẻ quyến rũ cổ điển của Hollywood",[85] còn Natalie Weiner của tạp chí Billboard thì dự đoán rằng Elizabeth Taylor chính là cảm hứng thời trang của Swift trong video.[72] ABC News diễn tả video là mạnh mẽ về thị giác,[86] Wickman thì nhận thấy quá trình sản xuất mang nhiều màu sắc điện ảnh và lối kể chuyện bên trong lại "hấp dẫn còn nhiều hơn" cả video âm nhạc của "Style".[87] Mike Wass bên Idolator phát biểu rằng mặc dù Swift và Eastwood không có "phản ứng hóa học" mạnh mẽ cho lắm nhưng nhờ cảnh quay châu Phi và lối tự sự của video mà "tất cả mọi thứ đều ăn khớp với nhau khá độc đáo".[88] Video của "Wildest Dreams" đã mang về cho Swift một đề cử ở hạng mục Video mới hay nhất tại giải thưởng Âm nhạc MTV Ý năm 2016.[89]

Rất nhiều trang blog và ấn phẩm trực tuyến đã chỉ trích video "Wildest Dreams" cổ xúy "chủ nghĩa thực dân người da trắng" vì tuyển người da trắng để đóng phim ở châu Phi.[90] Các cây viết phê bình cho rằng đoạn phim ngắn đã tái hiện cảnh hồi tưởng theo phong cách lãng mạn hóa dành cho thuộc địa châu Phi do người da trắng cầm quyền và ngó lơ công cuộc đấu tranh của các dân tộc châu Phi trong thời kỳ châu Âu cắt chiếm hầu hết châu Phi làm thuộc địa.[91][92][93] Giáo sư nghiên cứu châu Phi Matthew Carotenuto đã viết rằng cốt truyện video âm nhạc cho thấy "những người đàn ông đội mũ bảo hiểm và mặc đồ kaki hệt như những anh hùng văn minh, còn những người phụ nữ thì theo họ để mà trải nghiệm gian khổ trong túp lều trong lúc mặc nội y".[94] Trong cuốn sách Mistaking Africa, các tác giả lịch sử và khoa học chính trị Curtis Keim và Carolyn Somerville đã ghi rằng "Wildest Dreams" đã củng cố những định kiến gắn liền với châu Phi và "nhận thức sai lầm của nhiều người Mỹ rằng thú săn lớn bao giờ cũng tìm thấy được ở khắp mọi nơi tại châu Phi và tất cả các vùng của châu Phi đều giống hệt nhau".[95] Kahn đã đích thân bảo vệ video và bảo rằng việc có dàn diễn viên người da đen sẽ làm sai lệch lịch sử khi lấy bối cảnh những năm 1950 tại châu Phi.[96] Cây bút Lauretta Charlton viết cho Vulture cảm thấy vấn đề này đã bị thổi phồng quá mức. Cô thừa nhận rằng tuy bối cảnh châu Phi của video có vấn đề thật, nhưng dù sao đó là "chuyện dĩ vãng" và nhà báo đã khuyên khán giả nên tập trung vào "chủ nghĩa thực dân châu Phi thời hiện đại" đang đáng được quan tâm khẩn cấp hơn.[97]

Một số nhà báo và người trong giới hàn lâm đã phân tích mổ xẻ video trong bối cảnh Swift nổi tiếng và cách thức nhận định về bối cảnh phim Hollywood kinh điển đặt tại châu Phi. Carotenuto bảo rằng chính vì Swift là một phần của "thế hệ Vua sư tử" nên đã dẫn đến việc cô nghĩ rằng châu Phi "không khác gì một tấm thảm thực vật và động vật phong phú, còn những người châu Phi thì thực sự mờ nhạt" trong cách nghĩ đó. Suy nghĩ này cũng được bắt gặp nhiều trong phim Hollywood và văn hóa Mỹ đại chúng.[94] Spencer Kornhaber của The Atlantic phát biểu rằng thế hệ của Swift cũng là lúc "một số biểu tượng nhất định của da trắng thượng đẳng [...] đã được tôn lên tầm cao". Theo Kornhaber, video âm nhạc "Wildest Dreams" đã phù hợp với tầm nhìn nghệ thuật của Swift trong việc thể hiện "cảm giác hoài cổ mãnh liệt nhưng đâu đó còn mơ hồ, ít được xác định theo khoảng thời gian hơn là bởi những ảnh hưởng nhất định vô tình gắn chặt với một màu da nhất định".[27] Các nhà báo Kornhaber và Tshepo Mokoena bên The Guardian tranh cãi lại rằng những lời chỉ trích hoàn toàn không có ý khẳng định Swift là người phân biệt chủng tộc. Kornhaber gọi đây là một "bài học" cho Swift rằng "hoài cổ vốn dĩ vẫn có thể mang tính chính trị",[27] còn Mokoena thì cho rằng tuy video "là một bước tiến vụng về nhưng không phải là điều đáng để nổi đóa". Chính những lời gièm pha đã khiến cho danh hiệu "cục cưng nước Mỹ" của Swift bị ảnh hưởng.[93]

Biểu diễn trực tiếp[sửa | sửa mã nguồn]

Swift biểu diễn "Wildest Dreams" tại The 1989 World Tour (trái) bên chiếc đàn đại dương cầm lung linh và tại The Eras Tour (phải).

Tại The 1989 World Tour (2015), Swift biểu diễn "Wildest Dreams" dưới dạng mashup với "Enchanted" nằm trong Speak Now (2010) của cô.[98] Nữ ca sĩ vừa đánh phím đàn đại dương cầm lung linh vừa cất lời điệp khúc "Enchanted" rồi sau đó đến "Wildest Dreams". Phần trình diễn được hỗ trợ bằng đàn tổng hợp và giọng hát nền.[99][100] Swift kết lại bản mashup bằng cách đứng dậy khỏi đàn piano, biến bộ váy tuyn lấp lánh màu vàng thành bộ áo bó sát người để chuẩn bị cho tiết mục tiếp theo.[100][101] Tháng 3 năm 2023, Nora Princiotti bên The Ringer đã khen ngợi đây là màn trình diễn trực tiếp xuất sắc nhất của Swift và "là một bản medley dài năm phút rưỡi hoành tráng trong khi về cơ bản thì lại đơn giản".[100]

"Wildest Dreams" tiếp tục được Swift đưa vào danh sách biểu diễn ở những chặng lưu diễn khác. Ngày 30 tháng 9 năm 2015, nữ ca sĩ đã biểu diễn ca khúc giản dị bằng cây đàn guitar điện tại cuộc triển lãm "Trải nghiệm Taylor Swift" bên Grammy Museum at L.A. Live.[102] Tại chuyến lưu diễn riêng tư cho 100 người hâm mộ ở Đảo Hamilton, Úc, trong chuỗi "Red Room" của Nova, Swift trình diễn "Wildest Dreams" bằng guitar acoustic.[103] Swift tiếp tục đưa bản mashup "Wildest Dreams"/"Enchanted" vào danh sách tiết mục của hai chuyến lưu diễn: tại United States Grand Prix bên Austin vào ngày 22 tháng 10 năm 2016,[104] và tại sự kiện trước Super Bowl mang tên Super Saturday Night vào ngày 4 tháng 2 năm 2017.[105]

Swift đã hai lần trình diễn "Wildest Dreams" ở tiết mục "bài hát bất ngờ" tại chuyến lưu diễn Reputation Stadium Tour trong năm 2018 gồm: chặng Santa Clara, California vào ngày 11 tháng 5, và chặng thứ hai tại Tokyo, Nhật Bản vào ngày 21 tháng 11.[106] Ở chuyến lưu diễn Philadelphia của Reputation Stadium Tour vào ngày 14 tháng 7, nữ ca sĩ đã hát a cappella "Wildest Dreams" sau khi thiết bị sân khấu gặp trục trặc.[107] Ở chuyến lưu diễn The Eras Tour (2023–2024) (chuyến lưu diễn mà Swift muốn tri ân cho tất cả các album), cô đã trình diễn ca khúc ở màn 1989 với màn hình chiếu phía sau là cảnh cặp đôi chung giường.[108]

Phiên bản hát lại của Ryan Adams[sửa | sửa mã nguồn]

Nam ca-nhạc sĩ Ryan Adams phát hành album 1989 hát lại từng bài của album gốc vào ngày 21 tháng 9 năm 2015.[109] Adams cho rằng 1989 của Swift đã giúp đỡ anh vượt qua những khó khăn về cảm xúc, và anh muốn hát những bài hát dưới góc nhìn của anh "tựa như Nebraska của Bruce Springsteen".[110] Trước khi album ra mắt, Adams tung ra bản xem trước trực tuyến phần hát lại "Wildest Dreams" của anh vào tháng 8.[111] Nam ca sĩ đã chỉnh đại từ danh xưng ở một số chỗ, và lời bài hát "Standing in a nice dress" trở thành "Standing in your nice dress".[112] Bản của Adams kết hợp giữa các thể loại rock đồng quê, alternative đồng quêjangle pop.[113][114][115] Ca khúc sử dụng phần nhạc cụ acoustic đến từ trống live và âm bập bùng của guitar.[116][117][118]

Bản "Wildest Dreams" của Adams vươn lên vị trí 40 trên bảng xếp hạng Hot Rock & Alternative Songs của Billboard.[119] Kornharber cho rằng bản hát lại "không thể phủ nhận là đáng yêu",[120] Jeremy Winograd viết cho Slant Magazine đã xem đó là sự kết hợp trang nhã của nhạc rock những năm 1980,[114] còn cây bút Marc Burrows bên Drowned in Sound thì thích bản hát lại của Adams hơn bản gốc của Swift.[113] Sarah Murphy đến từ Exclaim! đã gắn mác cho bản cover là "một thành tích ấn tượng không kém" có thể gây tiếng vang với bất cứ những người hâm mộ Swift nào mà than thở về việc cô rời bỏ nhạc đồng quê.[115] Tuy nhiên trong bài viết bên The Guardian, Michael Cragg không nhìn thấy có sự bổ sung đáng kể nào trong bản cover của Adams, và gọi đây là "một bản nhạc khá thô sơ",[118] còn Rachel Aroesti thì phê bình bản hát lại nghe "lố bịch" và không khớp với bản gốc.[121] Caramanica bảo rằng việc Adams sửa lời "Wildest Dreams" cũng "không đem lại hiệu quả thực sự".[122]

Đội ngũ sản xuất[sửa | sửa mã nguồn]

Thông tin phần ghi công được lấy từ phần ghi chú của 1989.[10]

Bảng xếp hạng[sửa | sửa mã nguồn]

Chứng nhận[sửa | sửa mã nguồn]

Chứng nhận của "Wildest Dreams"
Quốc gia Chứng nhận Doanh số
Úc (ARIA)[63] 8× Bạch kim 560.000double-dagger
Brasil (Pro-Música Brasil)[165] 3× Bạch kim 180.000double-dagger
Canada (Music Canada)[54] Bạch kim 80.000*
Đan Mạch (IFPI Đan Mạch)[58] Vàng 45.000double-dagger
Đức (BVMI)[59] Vàng 150.000double-dagger
Ý (FIMI)[60] Vàng 50.000double-dagger
New Zealand (RMNZ)[57] Vàng 7.500*
Na Uy (IFPI)[61] Vàng 30.000double-dagger
Bồ Đào Nha (AFP)[55] Bạch kim 20.000double-dagger
Tây Ban Nha (PROMUSICAE)[166] Bạch kim 60.000double-dagger
Anh Quốc (BPI)[56] 2× Bạch kim 1.200.000double-dagger
Hoa Kỳ (RIAA)[167] 4× Bạch kim 4.000.000double-dagger

* Chứng nhận dựa theo doanh số tiêu thụ.
double-dagger Chứng nhận dựa theo doanh số tiêu thụ+stream.

Lịch sử phát hành[sửa | sửa mã nguồn]

Ngày phát hành và định dạng của "Wildest Dreams"
Khu vực Ngày Định dạng Hãng Chú thích
Hoa Kỳ 31 tháng 8 năm 2015 Đài phát thanh adult contemporary [38]
1 tháng 9 năm 2015 Đài phát thanh hit đương đại [39]
Nhiều 15 tháng 10 năm 2015 (bản phối lại R3hab) Big Machine [40]
Ý 30 tháng 10 năm 2015 Đài phát thanh Universal [41]

"Wildest Dreams (Taylor's Version)"[sửa | sửa mã nguồn]

"Wildest Dreams (Taylor's Version)"
Đĩa đơn quảng bá của Taylor Swift từ album 1989 (Taylor's Version)
Phát hành17 tháng 9 năm 2021 (2021-09-17)
Phòng thuKitty Committee (Luân Đôn)
Thể loại
Thời lượng3:40
Hãng đĩaRepublic
Sáng tác
Sản xuất
Video âm nhạc
"Wildest Dreams (Taylor's Version)" trên YouTube

Năm 2018, Swift rời khỏi Big Machine và ký bản hợp đồng mới với Republic Records.[168] Tuy nhiên, nữ ca-nhạc sĩ đã vướng phải một cuộc tranh chấp quyền sở hữu tác phẩm vào giữa năm 2019 với người quản lý tài năng Scooter Braun, nguyên nhân bắt nguồn từ việc Braun đã mua lại Big Machine Records kèm theo các bản thu hoàn chỉnh những album trước đó của nữ ca sĩ dưới sự phát hành từ phía hãng đĩa cũ.[169] Sau khi cân nhắc lựa chọn thì cuối cùng, Swift quyết định tái thu âm sáu album phòng thu đầu tiên vào tháng 11 năm 2020.[170][171] Bằng việc tái thu âm, Swift sẽ có toàn bộ quyền sở hữu bản thu mới, cho phép cô tự cấp phép chính mình sử dụng những bản nhạc tái thu âm với mục đích thương mại và hy vọng thay thế được các phiên bản thuộc quyền sở hữu của Big Machine.[172] Swift phân loại các bản tái thu âm bằng hậu tố "Taylor's Version".[173]

Phiên bản tái thu âm của "Wildest Dreams" mang tựa đề "Wildest Dreams (Taylor's Version)". Các mẫu ngắn của ca khúc xuất hiện trong các video trailer của bộ phim hoạt hình Spirit: Chú ngựa bất kham của DreamWorks Animation vào tháng 3 và tháng 5 năm 2021.[174][175][176] Ngày 17 tháng 9 năm 2021, Swift phát hành "Wildest Dreams (Taylor's Version)" lên các nền tảng tải kỹ thuật số và phát nhạc trực tuyến sau khi phiên bản gốc trở nên lan truyền trên nền tảng chia sẻ video TikTok, dẫn đến lượt phát trực tuyến tăng mạnh.[177][178] Về sau, "Wildest Dreams (Taylor's Version)" nằm trong phiên bản tái thu âm của 1989 với tựa đề 1989 (Taylor's Version), được phát hành vào ngày 27 tháng 10 năm 2023.[179]

Sản xuất và đón nhận[sửa | sửa mã nguồn]

"Wildest Dreams (Taylor's Version)" là một bài hát synth-pop với quá trình sản xuất giống bản gốc.[13][178][180] Swift sản xuất bài hát cùng Shellback với kỹ sư giọng hát đến từ Nashville Christopher Rowe. Trước đó, Rowe từng giúp nữ ca sĩ sản xuất album tái thu âm Fearless (Taylor's Version).[181] Mặc dù Martin không trở lại với vai trò nhà sản xuất nhưng các nhạc sĩ vẫn là ban nhạc hỗ trợ cho Swift trong các buổi làm việc cho album 1989.[13] Aroesti nhận xét rằng phiên bản tái thu âm gần giống với phiên bản gốc nhưng "đôi khi trầm hơn".[182] Nhà phê bình Robin Murray của Clash cho rằng "Wildest Dreams (Taylor's Version)" chứa đựng "chuyển biến tinh tế trong phong cách",[183] còn biên tập viên cấp cao Tom Breihan bên Stereogum thì nhận thấy bản nhạc "lặng thinh" hơn".[13] Mary Siroky viết cho Consequence khen ngợi công đoạn sản xuất đã "hết sức cẩn thận trong việc nắm bắt được âm thanh của bản gốc, ngay đến đoạn riff trong đoạn điệp khúc thứ hai".[180] Murray và Siroky đều tán tụng giọng hát của Swift đã có cải thiện.[180][183]

Trong vòng 4 tiếng đồng hồ sau khi ra mắt, "Wildest Dreams (Taylor's Version)" nhận về hơn hai triệu lượt phát trên Spotify, vượt qua bản gốc với số lượt phát nhiều nhất trong một ngày.[184] Ở Hoa Kỳ, ca khúc ra mắt ở vị trí thứ 37 trên Billboard Hot 100 vào tuần lễ ngày 23 tháng 9 năm 2021.[185] Ở cả Ireland lẫn Anh Quốc, "Wildest Dreams (Taylor's Version)" đã vượt qua vị trí cao nhất của phiên bản gốc (15–39 và 25–40).[186][187] Sau khi 1989 (Taylor's Version) ra mắt, "Wildest Dreams (Taylor's Version)" vươn tới hạng 19 trên Billboard Global 200[150] và vào lại bảng xếp hạng Hot 100 ở vị trí 19 vào ngày 11 tháng 11 năm 2023.[142][188] Nhạc phẩm còn đặt chân đến top 10 ở Malaysia (10) và Singapore (5).[189][190] "Wildest Dreams (Taylor's Version)" leo lên được top 40 ở Úc (14),[191] Philippines (15),[192] Canada (18),[47] Hungary (29)[193] và New Zealand (30).[194] Bản nhạc được chứng nhận đĩa Bạch kim kép ở Úc,[195] đĩa Vàng tại New Zealand,[196] Hy Lạp[197] và Anh Quốc.[198]

Đội ngũ sản xuất[sửa | sửa mã nguồn]

Thông tin phần ghi công được lấy từ Tidal.[199]

  • Taylor Swift – giọng hát chính, sáng tác, sản xuất
  • Christopher Rowe – sản xuất, kỹ thuật giọng hát
  • Shellback – sáng tác, sản xuất
  • Max Martin – sáng tác
  • Mattias Bylund – kỹ thuật thu âm, chỉnh sửa, biên khúc bộ dây, đánh phím
  • Max Bernstein – guitar, đánh phím, lập trình synthesizer
  • Mike Meadows – đánh phím, lập trình synthesizer
  • Dan Burns – lập trình synthesizer
  • Matt Billingslea – đánh trống, đánh bộ gõ
  • Amos Heller – bass
  • Paul Sidoti – guitar
  • Mattias Johansson – vĩ cầm
  • David Bukovinszky – cello
  • Serban Ghenea – trộn âm
  • John Hanes – kỹ thuật
  • Randy Merrill – hoàn chỉnh âm thanh

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

Ghi chú[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Tạm dịch: "Chàng chỉ có thể gặp nàng trong giấc mơ của chàng."
  2. ^ Tạm dịch: "Chàng thật cao to, lại còn đẹp trai mê hồn/ Chàng đối xử với em thật tệ bạc, nhưng chàng lại làm chuyện "ấy" thật sướng/ Em có thể nhìn thấy kết cục [của mối tình ấy] ngay khi vừa mới bắt đầu."
  3. ^ Tạm dịch: "Hãy hứa rằng chàng vẫn luôn nhớ về em/ Em diện bộ váy đầm tuyệt đẹp và cùng chàng ngắm nhìn ánh hoàng hôn"
  4. ^ Tạm dịch: "Hãy hứa rằng chàng vẫn sẽ gặp lại em một lần nữa dẫu cho đó chỉ là trong giấc mơ hoang đường nhất của chàng."
  5. ^ Cảm giác mà một đoạn nhạc nhanh gấp đôi mà tiến trình hòa thanh vẫn tiếp diễn ở mức độ ban đầu.
  6. ^ Tạm dịch: "Dẫu cho muộn màng nhưng chàng vẫn đến gặp em/ Để em cùng chàng ân ái suốt đêm dài/ Nóng bỏng và nồng nàn."
  7. ^ Cụm nguồn: [20][28][32][33][34]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b McNutt 2020, tr. 77.
  2. ^ Caulfield, Keith (ngày 30 tháng 10 năm 2012). “Taylor Swift's Red Sells 1.21 Million; Biggest Sales Week for an Album Since 2002” [Album Red của Taylor Swift bán được 1,21 triệu bản; Tuần bán album lớn nhất kể từ năm 2002]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 2 năm 2013. Truy cập ngày 1 tháng 3 năm 2024.
  3. ^ Light, Alan (ngày 5 tháng 12 năm 2014). Billboard Woman of the Year Taylor Swift on Writing Her Own Rules, Not Becoming a Cliche and the Hurdle of Going Pop” [Người phụ nữ của năm trên Billboard, Taylor Swift, bàn về việc viết ra những quy tắc của riêng mình, không trở thành khuôn sáo và trở ngại của việc theo đuổi nhạc Pop]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 1 tháng 3 năm 2024.
  4. ^ Talbott, Chris (ngày 13 tháng 10 năm 2013). “Taylor Swift Talks Next Album, CMAs and Ed Sheeran” [Taylor Swift nói về album tiếp theo, CMA và Ed Sheeran] (bằng tiếng Anh). Associated Press. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 1 tháng 3 năm 2024.
  5. ^ Eells, Josh (ngày 16 tháng 9 năm 2014). “Taylor Swift Reveals Five Things to Expect on 1989 [Taylor Swift tiết lộ 5 điều đáng mong đợi ở 1989]. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 1 tháng 3 năm 2024.
  6. ^ Sisario, Ben (ngày 5 tháng 11 năm 2014). “Sales of Taylor Swift's 1989 Intensify Streaming Debate” [Doanh số bán album 1989 của Taylor Swift làm tăng thêm cuộc tranh luận về phát nhạc trực tuyến]. The New York Times (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 1 tháng 3 năm 2024.
  7. ^ Pettifer, Amy (ngày 27 tháng 11 năm 2014). “Reviews: Taylor Swift, 1989 [Đánh giá: Taylor Swift, 1989]. The Quietus (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 1 tháng 3 năm 2024.
  8. ^ Perone 2017, tr. 55–56.
  9. ^ a b c d Zollo, Paul (ngày 13 tháng 2 năm 2016). “The Oral History of Taylor Swift's 1989 [Lịch sử truyền miệng album 1989 của Taylor Swift] (bằng tiếng Anh). Viện hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật Thu âm Quốc gia. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 4 năm 2016. Truy cập ngày 1 tháng 3 năm 2024 – qua Cuepoint.
  10. ^ a b c d e f g Taylor Swift (ngày 27 tháng 10 năm 2014). Digital Booklet – 1989 [Tập sách nhỏ kỹ thuật số – 1989]. 1989 (Deluxe Edition) (bằng tiếng Anh). Big Machine Records. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 1 tháng 3 năm 2024 – qua iTunes Store. Ghi chú: Phần lời bài hát và ghi công của "Wildest Dreams" nằm ở trang 7.
  11. ^ a b “Taylor Swift – 'Wildest Dreams' (video) (Singles Going Steady)” [Taylor Swift – 'Wildest Dreams' (video) (đĩa đơn ổn định)]. PopMatters (bằng tiếng Anh). ngày 1 tháng 9 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 12 năm 2017. Truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2024.
  12. ^ a b Mylrea, Hannah (ngày 8 tháng 9 năm 2020). “Every Taylor Swift Song Ranked In Order of Greatness” [Mỗi bài hát của Taylor Swift đều được xếp theo thứ tự hay dần]. NME (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2024.
  13. ^ a b c d Breihan, Tom (ngày 17 tháng 9 năm 2021). “Taylor Swift Shares Her Re-Recorded Version of 'Wildest Dreams': Listen” [Taylor Swift chia sẻ phiên bản thu âm lại của 'Wildest Dreams': Lắng nghe]. Stereogum (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 5 năm 2022. Truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2024.
  14. ^ a b Masley, Ed (ngày 12 tháng 8 năm 2015). “30 Best Taylor Swift Singles Ever (So Far)” [30 đĩa đơn hay nhất của Taylor Swift từ trước đến nay (Cho đến nay)]. The Arizona Republic (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 8 năm 2015. Truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2024.
  15. ^ a b Nolan, Paul (ngày 13 tháng 11 năm 2014). “Taylor Swift 1989 – Album Review” [Taylor Swift 1989 – Đánh giá album]. Hot Press (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 3 năm 2024. Truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2024.
  16. ^ a b c Taylor Swift (2014). “Digital Sheet Music – Taylor Swift – Wildest Dreams” [Bản phổ nhạc kỹ thuật số – Taylor Swift – Wildest Dreams] (bằng tiếng Anh). Musicnotes. MN0142242. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 5 năm 2019. Truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2024.
  17. ^ a b Ahlgrim, Callie (ngày 2 tháng 11 năm 2023). “13 fun facts about Taylor Swift's '1989' that you may not know” [13 sự thật thú vị về '1989' của Taylor Swift có thể bạn chưa biết]. Business Insider (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 2 năm 2024. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2024.
  18. ^ a b c Wood, Mikael (ngày 27 tháng 10 năm 2014). “Taylor Swift Smooths Out the Wrinkles on Sleek 1989 [Taylor Swift tươm tất khoe kiểu dáng đẹp 1989]. Los Angeles Times (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2024.
  19. ^ a b Perone 2017, tr. 62.
  20. ^ a b c Kimberlin, Shane (ngày 3 tháng 11 năm 2014). “Taylor Swift – 1989 | Album Review” [Taylor Swift – 1989 | Đánh giá album]. MusicOMH (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2024.
  21. ^ a b c Cruz, Lenika; Beck, Julie; Green, Emma; O'Keeffe, Kevin (ngày 25 tháng 10 năm 2014). “Taylor Swift's 1989: First Impressions” [1989 của Taylor Swift: Ấn tượng đầu tiên]. The Atlantic (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 6 năm 2023. Truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2024.
  22. ^ a b Caramanica, Jon (ngày 23 tháng 10 năm 2014). “A Farewell to Twang” [Chia tay giọng twang]. The New York Times (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2024.
  23. ^ a b Aswad, Jem (ngày 24 tháng 10 năm 2014). “Album Review: Taylor Swift's Pop Curveball Pays Off With 1989 [Đánh giá album: Đường cong nhạc pop của Taylor Swift được đền đáp xứng đáng với 1989]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 2 năm 2017. Truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2024.
  24. ^ a b c Petridis, Alexis (ngày 24 tháng 10 năm 2014). “Taylor Swift: 1989 Review – Leagues Ahead of the Teen-Pop Competition” [Taylor Swift: Đánh giá 1989 – Những bước tiến trước cuộc thi teen-pop]. The Guardian (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2024.
  25. ^ a b Lansky, Sam (ngày 23 tháng 10 năm 2014). “Review: 1989 Marks a Paradigm Swift” [Đánh giá: 1989 đánh dấu một hình mẫu của Swift]. Time (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2024.
  26. ^ a b Galvin, Annie (ngày 27 tháng 10 năm 2014). “Review: Taylor Swift, 1989 [Đánh giá: Taylor Swift, 1989]. Slant Magazine (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 3 năm 2019. Truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2024.
  27. ^ a b c Kornhaber, Spencer (ngày 2 tháng 9 năm 2015). “The Backlash to Taylor Swift's 'Wildest Dreams' Shows the Danger of Nostalgia” [Phản ứng dữ dội đối với 'Wildest Dreams' của Taylor Swift cho thấy sự nguy hiểm của nỗi nhớ]. The Atlantic (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 12 năm 2023. Truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2024.
  28. ^ a b Cliff, Aimee (ngày 30 tháng 10 năm 2014). 1989 [1989]. Fact (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2024.
  29. ^ a b c Wickman, Forrest (ngày 24 tháng 10 năm 2014). “Taylor Swift's 1989: A Track-by-Track Breakdown” [1989 của Taylor Swift: Sự phân tích theo từng ca khúc]. Slate (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 2 năm 2019. Truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2024.
  30. ^ a b Jones, Nate (ngày 13 tháng 8 năm 2020). “Taylor Swift Songs, Ranked from Worst to Best” [Các bài hát của Taylor Swift, được xếp hạng từ tệ nhất đến hay nhất]. Vulture (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 12 năm 2023. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2024.
  31. ^ a b “The 100 Greatest Song Bridges of the 21st Century: Staff Picks” [100 đoạn bridge vĩ đại nhất thế kỷ 21: Lựa chọn của nhân viên]. Billboard (bằng tiếng Anh). ngày 13 tháng 5 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2024.
  32. ^ Eakin, Marah (ngày 28 tháng 10 năm 2014). “With 1989, Taylor Swift Finally Grows Up” [Với 1989, Taylor Swift cuối cùng cũng trưởng thành]. The A.V. Club (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 5 năm 2017. Truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2024.
  33. ^ Zoladz, Lindsay (ngày 24 tháng 10 năm 2014). “Did Taylor Swift Rip Off Lorde and Lana Del Rey?” [Taylor Swift có ăn cắp phong cách Lorde và Lana Del Rey không?]. Vulture (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 12 năm 2023. Truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2024.
  34. ^ a b Leedham, Robert (ngày 27 tháng 10 năm 2014). “Album Review: Taylor Swift - 1989 [Đánh giá album: Taylor Swift - 1989]. Drowned in Sound (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 2 năm 2019. Truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2024.
  35. ^ Graff, Gary (ngày 24 tháng 10 năm 2014). “Taylor Swift to the Haters: 'If You're Upset That I'm Just Being Myself, I'm Going to Be Myself More' [Taylor Swift nói với những người ghét mình: 'Nếu bạn buồn vì tôi chỉ là chính mình thì tôi sẽ là chính mình nhiều hơn']. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 11 năm 2023. Truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2024.
  36. ^ Trust, Gary (ngày 5 tháng 11 năm 2014). “Taylor Swift's 'Shake It Off' Returns to No. 1 on Hot 100” ['Shake It Off' của Taylor Swift trở lại vị trí số 1 trên Hot 100]. Billboard (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2024.
  37. ^ Caulfield, Keith (ngày 5 tháng 8 năm 2015). “Taylor Swift Announces Next Single” [Taylor Swift công bố đĩa đơn tiếp theo]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2024.
  38. ^ a b “Hot/Modern/AC Future Releases” [Các bản phát hành Hot/Modern/AC trong tương lai] (bằng tiếng Anh). All Access Media Group. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 8 năm 2015. Truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2024.
  39. ^ a b “Top 40/M Future Releases” [Các bản phát hành Top 40/M trong tương lai] (bằng tiếng Anh). All Access Media Group. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 8 năm 2015. Truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2024.
  40. ^ a b “Wildest Dreams (R3hab Remix) – Single by Taylor Swift” [Wildest Dreams (R3hab Remix) – Đĩa đơn của Taylor Swift] (bằng tiếng Anh). iTunes Store. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 10 năm 2015. Truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2024.
  41. ^ a b “Taylor Swift 'Wildest Dreams' [Taylor Swift 'Wildest Dreams'] (bằng tiếng Ý). Airplay Control S.R.L. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 6 năm 2022. Truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2024.
  42. ^ Trust, Gary (ngày 8 tháng 9 năm 2015). “The Weeknd Doubles Up in Hot 100's Top Three” [The Weeknd tăng gấp đôi thứ hạng lên top ba của Hot 100]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2024.
  43. ^ Trust, Gary (ngày 28 tháng 9 năm 2015). “The Weeknd Holds Atop Hot 100, Taylor Swift Hits Top 10 With 'Wildest Dreams' [The Weeknd giữ vững ngôi đầu Hot 100, Taylor Swift lọt vào top 10 với 'Wildest Dreams']. Billboard (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2024.
  44. ^ Trust, Gary (ngày 26 tháng 10 năm 2015). “The Weeknd Tops Hot 100; Adele No. 1 Next Week?” [The Weeknd đứng đầu Hot 100; Adele số 1 tuần tới?]. Billboard (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2024.
  45. ^ Trust, Gary (ngày 24 tháng 11 năm 2015). “Taylor Swift Tallies First Dance/Mix Show Airplay No. 1 With 'Wildest Dreams' [Taylor Swift giành vị trí số 1 tại BXH phát thanh Dance/Mix Show lần đầu tiên với 'Wildest Dreams']. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2024.
  46. ^ Trust, Gary (ngày 26 tháng 11 năm 2017). “Ask Billboard: Taylor Swift's Career Album & Song Sales” [Hỏi Billboard: Sự nghiệp bán album và ca khúc của Taylor Swift]. Billboard (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2024.
  47. ^ a b c d "Taylor Swift Chart History (Canadian Hot 100)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2024.
  48. ^ a b "EMA Top 10 Airplay: Week Ending ngày 6 tháng 10 năm 2015" (bằng tiếng Anh). Entertainment Monitoring Africa. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2024.
  49. ^ a b “Record Report – Rock General” [Báo cáo thu âm – Rock General] (bằng tiếng Tây Ban Nha). Record Report. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 10 năm 2015. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2024.
  50. ^ a b “Taylor Swift Chart History” [Lịch sử bảng xếp hạng Taylor Swift] (bằng tiếng Iceland). RÚV. ngày 11 tháng 4 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 9 năm 2017. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2024.
  51. ^ a b "Charts.nz – Taylor Swift – Wildest Dreams" (bằng tiếng Anh). Top 40 Singles. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2024.
  52. ^ a b "ČNS IFPI" (bằng tiếng Séc). Hitparáda – Radio Top 100 Oficiálna. IFPI Cộng hòa Séc. Ghi chú: Chọn 1. týden 2016. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2024.
  53. ^ a b "Official Scottish Singles Sales Chart Top 100" (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2024.
  54. ^ a b “Chứng nhận đĩa đơn Canada – Taylor Swift – Wildest Dreams” (bằng tiếng Anh). Music Canada. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2024.
  55. ^ a b “Chứng nhận đĩa đơn Bồ Đào Nha – Taylor Swift – Wildest Dreams” (PDF) (bằng tiếng Bồ Đào Nha). Associação Fonográfica Portuguesa. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2024.
  56. ^ a b “Chứng nhận đĩa đơn Anh Quốc – Taylor Swift – Wildest Dreams” (bằng tiếng Anh). British Phonographic Industry. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2024.
  57. ^ a b “Chứng nhận đĩa đơn New Zealand – Taylor Swift – Wildest Dreams” (bằng tiếng Anh). Recorded Music NZ. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2024.
  58. ^ a b “Chứng nhận đĩa đơn Đan Mạch – Taylor Swift – Wildest Dreams” (bằng tiếng Đan Mạch). IFPI Đan Mạch. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2024.
  59. ^ a b “Gold-/Platin-Datenbank (Taylor Swift; 'Wildest Dreams')” (bằng tiếng Đức). Bundesverband Musikindustrie. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2024.
  60. ^ a b “Chứng nhận đĩa đơn Ý – Taylor Swift – Wildest Dreams” (bằng tiếng Ý). Federazione Industria Musicale Italiana. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2024.
  61. ^ a b “Chứng nhận đĩa đơn Na Uy – Taylor Swift – Wildest Dreams” (bằng tiếng Na Uy). IFPI Na Uy. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2024.
  62. ^ a b "Australian-charts.com – Taylor Swift – Wildest Dreams" (bằng tiếng Anh). ARIA Top 50 Singles. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2024.
  63. ^ a b “ARIA Charts – Accreditations – 2023 Singles” (PDF) (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2024.
  64. ^ “BMI Honors Taylor Swift and Legendary Songwriting Duo Mann & Weil at the 64th Annual BMI Pop Awards” [BMI tôn vinh Taylor Swift và bộ đôi sáng tác huyền thoại Mann & Weil tại Lễ trao giải BMI Pop thường niên lần thứ 64] (bằng tiếng Anh). Broadcast Music, Inc. ngày 11 tháng 5 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 5 năm 2016. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2024.
  65. ^ “ASCAP Pop Awards 2017” [Giải thưởng nhạc Pop ASCAP 2017] (bằng tiếng Anh). Hiệp hội các nhà soạn nhạc, tác giả và nhà xuất bản Hoa Kỳ. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 6 năm 2018. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2024.
  66. ^ Manning, Craig (ngày 31 tháng 10 năm 2014). “Taylor Swift – 1989 – Album Review” [Taylor Swift – 1989 – Đánh giá album]. AbsolutePunk (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2024.
  67. ^ Zoladz, Lindsay (ngày 27 tháng 10 năm 2014). “Taylor Swift's 1989 Is Her Most Conservative Album Yet” [1989 của Taylor Swift là album thận trọng nhất của nữ ca sĩ]. Vulture (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 1 năm 2018. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2024.
  68. ^ Sheffield, Rob (ngày 12 tháng 12 năm 2019). 'Wildest Dreams' (2014)” ['Wildest Dreams' (2014)]. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 9 năm 2021. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2024.
  69. ^ Hudson, Alex; LaPierre, Megan (ngày 20 tháng 10 năm 2022). “Taylor Swift's 20 Best Songs Ranked” [Xếp hạng 20 ca khúc hay nhất của Taylor Swift]. Exclaim! (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 12 năm 2022. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2024.
  70. ^ Song, Jane (ngày 11 tháng 2 năm 2020). “All 158 Taylor Swift Songs, Ranked” [Tất cả 158 bài hát của Taylor Swift, được xếp hạng]. Paste (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 6 năm 2023. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2024.
  71. ^ Petridis, Alexis (ngày 26 tháng 4 năm 2019). “Taylor Swift's Singles – Ranked!” [Đĩa đơn của Taylor Swift – Được xếp hạng!]. The Guardian (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2024.
  72. ^ a b Weiner, Natalie (ngày 31 tháng 8 năm 2015). “Taylor Swift Debuts 'Wildest Dreams' Video at 2015 VMAs: Watch” [Taylor Swift ra mắt video 'Wildest Dreams' tại VMAs 2015: Xem]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 12 năm 2023. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2024.
  73. ^ Dyer 2016, tr. 301.
  74. ^ Fisher, Lauren Alexis (ngày 30 tháng 8 năm 2015). “Watch Taylor Swift's 'Wildest Dreams' Video” [Xem video 'Wildest Dreams' của Taylor Swift]. Harper's Bazaar (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2024.
  75. ^ Klosterman, Chuck (ngày 15 tháng 10 năm 2015). “Taylor Swift on 'Bad Blood', Kanye West, and How People Interpret Her Lyrics” [Taylor Swift trong 'Bad Blood', Kanye West và cách mọi người diễn giải lời bài hát của cô ấy]. GQ (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 10 năm 2015. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2024.
  76. ^ Mondello, Bob (ngày 20 tháng 7 năm 2013). “You'll Want To Hang Up On These Secret Conversations [Bạn sẽ muốn kết thúc những cuộc trò chuyện bí mật này] (bằng tiếng Anh). NPR. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2024.
  77. ^ Dyer 2016, tr. 307.
  78. ^ a b Silver, Marc (ngày 2 tháng 9 năm 2015). “Director of Taylor Swift's New Video Defends His Work” [Đạo diễn cho video mới của Taylor Swift bảo vệ tác phẩm của mình] (bằng tiếng Anh). NPR. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2024.
  79. ^ a b Dyer 2016, tr. 308.
  80. ^ a b Linder, Emilee (ngày 30 tháng 8 năm 2015). “Taylor Swift's 'Wildest Dreams' Video Is Here To Make You Cry” [Video 'Wildest Dreams' của Taylor Swift sẽ khiến bạn phát khóc] (bằng tiếng Anh). MTV. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 8 năm 2015. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2024.
  81. ^ Dyer 2016, tr. 308; Oliver 2016, tr. 238; Keim & Somerville 2021, tr. 149.
  82. ^ Meynes, Carolyn (ngày 30 tháng 8 năm 2015). “Taylor Swift 'Wildest Dreams' Music Video: Scott Eastwood and 1989 Star Fall In Love” [Video nhạc 'Wildest Dreams' của Taylor Swift: Scott Eastwood và ngôi sao 1989 yêu nhau]. Music Times (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2024.
  83. ^ Hosken, Patrick (ngày 23 tháng 8 năm 2015). “Taylor Swift's 'Wildest Dreams' Will Premiere During the VMA Pre-Show” ['Wildest Dreams' của Taylor Swift sẽ ra mắt trong phần pre-show của VMA] (bằng tiếng Anh). MTV. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 8 năm 2015. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2024.
  84. ^ Dyer 2016, tr. 307; Oliver 2016, tr. 238.
  85. ^ Spanos, Brittany (ngày 30 tháng 8 năm 2015). “Watch Taylor Swift's Glamorous, Retro 'Wildest Dreams' Video” [Xem video 'Wildest Dreams' đầy quyến rũ và cổ điển của Taylor Swift]. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2024.
  86. ^ “MTV VMAs: Taylor Swift Debuts 'Wildest Dreams' Video” [MTV VMAs: Taylor Swift ra mắt video 'Wildest Dreams'] (bằng tiếng Anh). ABC News. ngày 31 tháng 8 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 12 năm 2023. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2024.
  87. ^ Wickman, Forrest (ngày 30 tháng 8 năm 2015). “Watch Taylor Swift Go Classical Hollywood With the Video for 'Wildest Dreams' [Xem Taylor Swift trở thành diễn viên Hollywood kinh điển với video 'Wildest Dreams']. Slate (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2024.
  88. ^ Wass, Mike (ngày 30 tháng 8 năm 2015). “Taylor Swift And Scott Eastwood Pay Tribute To Cinema's Greatest Love Stories In 'Wildest Dreams': Watch” [Taylor Swift và Scott Eastwood tri ân những câu chuyện tình yêu vĩ đại nhất điện ảnh trong 'Wildest Dreams': Xem] (bằng tiếng Anh). Idolator. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2024.
  89. ^ “TRL Awards 2016” [Giải thưởng TRL 2016] (bằng tiếng Ý). MTV Ý. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 6 năm 2016. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2024.
  90. ^ Khomami, Nadia (ngày 2 tháng 9 năm 2015). “Taylor Swift Accused of Racism In 'African Colonial Fantasy' Video” [Taylor Swift bị buộc tội phân biệt chủng tộc trong video 'tưởng tượng thuộc địa châu Phi']. The Guardian (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2024.
  91. ^ Rutabingwa, Viviane; Kassaga Arinaitwe, James (ngày 1 tháng 9 năm 2015). “Taylor Swift Is Dreaming of a Very White Africa” [Taylor Swift đang mơ về một châu Phi da trắng] (bằng tiếng Anh). NPR. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2024.
  92. ^ Duca, Lauren (ngày 30 tháng 8 năm 2015). “Taylor Swift's 'Wildest Dreams' Channels White Colonialism” ['Wildest Dreams' của Taylor Swift đề cao chủ nghĩa thực dân da trắng]. HuffPost (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2024.
  93. ^ a b Mokoena, Tshepo (ngày 2 tháng 9 năm 2015). “Is Taylor Swift's Colonial Fantasy the Beginning of the End?” [Ảo mộng thuộc địa của Taylor Swift có phải là sự khởi đầu của sự kết thúc?]. The Guardian (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 12 năm 2023. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2024.
  94. ^ a b Carotenuto, Matthew (ngày 23 tháng 9 năm 2015). “Taylor Swift's White Colonial Romance” [Chuyện tình thuộc địa da trắng của Taylor Swift] (bằng tiếng Anh). JSTOR. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 12 năm 2023. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2024.
  95. ^ Keim & Somerville 2021, tr. 149.
  96. ^ “Taylor Swift Video Director Defends 'Wildest Dreams' Following 'Whitewash' Claims” [Đạo diễn video của Taylor Swift bảo vệ 'Wildest Dreams' sau những cáo buộc 'tẩy trắng màu da']. The Guardian (bằng tiếng Anh). ngày 3 tháng 9 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2024.
  97. ^ Charlton, Lauretta (ngày 4 tháng 9 năm 2015). “Take a Breath – the 'Wildest Dreams' Video Isn't Racist – Now Exhale” [Hãy hít thở - Video 'Wildest Dreams' không phải là phân biệt chủng tộc - Bây giờ hãy thở ra]. Vulture (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2024.
  98. ^ Wood, Lucy (ngày 6 tháng 5 năm 2015). “Taylor Swift Has Kicked Off Her 1989 World Tour in Tokyo” [Taylor Swift đã khởi động chuyến lưu diễn 1989 World Tour tại Tokyo]. Cosmopolitan (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 6 năm 2018. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2024.
  99. ^ Allen, Paige (ngày 25 tháng 7 năm 2015). “Review: Taylor Swift Delivers Another Stellar Show at Gillette” [Đánh giá: Taylor Swift mang đến một buổi trình diễn xuất sắc khác tại Gillette]. The Sun Chronicle (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 5 năm 2022. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2024.
  100. ^ a b c Princiotti, Nora (ngày 16 tháng 3 năm 2023). “On the Eve of Eras, Ranking Taylor Swift's All-Time Best Live Performances” [Trước thềm Eras, xếp hạng Màn trình diễn trực tiếp xuất sắc nhất mọi thời đại của Taylor Swift]. The Ringer (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2024.
  101. ^ Oliver 2016, tr. 275.
  102. ^ “Taylor Swift Shares Stunning 'Wildest Dreams' Performance from Grammy Museum” [Taylor Swift chia sẻ màn trình diễn 'Wildest Dreams' tuyệt đẹp tại Bảo tàng Grammy]. Billboard (bằng tiếng Anh). ngày 4 tháng 1 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2024.
  103. ^ Akers, Trenton; Arnold, Rikki-Lee (ngày 4 tháng 12 năm 2015). “Taylor Swift 1989 Tour: Exclusive Picture as Taylor Swift Arrives In Brisbane Ahead of Concert” [Chuyến lưu diễn Taylor Swift 1989: Hình ảnh độc quyền khi Taylor Swift đến Brisbane trước buổi hòa nhạc]. The Courier-Mail (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 12 năm 2023. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2024.
  104. ^ Hall, David Brendan (ngày 23 tháng 10 năm 2016). “Taylor Swift Delivers a Knockout Performance at Formula 1 Concert in Austin” [Taylor Swift mang đến màn trình diễn cháy bỏng tại buổi hòa nhạc Formula 1 ở Austin]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 9 năm 2022. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2024.
  105. ^ Atkinson, Katie (ngày 5 tháng 2 năm 2017). “Taylor Swift Performs 'Better Man' & 'I Don't Wanna Live Forever' for First Time at Stunning Pre-Super Bowl Set” [Taylor Swift biểu diễn 'Better Man' & 'I Don't Wanna Live Forever' lần đầu tiên tại sân khấu Pre-Super Bowl tuyệt đẹp]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 5 năm 2022. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2024.
  106. ^ Iasimone, Ashley (ngày 20 tháng 11 năm 2018). “All the Surprise Songs Taylor Swift Has Performed On Her Reputation Stadium Tour B-Stage (So Far)” [Tất cả những bài hát bất ngờ mà Taylor Swift đã biểu diễn trong chuyến lưu diễn sân vận động danh tiếng B-Stage (Cho đến nay)]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 10 năm 2019. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2024.
  107. ^ Fisher, Luchina (ngày 16 tháng 7 năm 2018). “Taylor Swift Turns a Concert Malfunction Into a Memorable Moment” [Taylor Swift biến sự cố buổi hòa nhạc thành khoảnh khắc đáng nhớ]. Good Morning America (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 12 năm 2023. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2024.
  108. ^ Yahr, Emily (ngày 18 tháng 3 năm 2023). “Taylor Swift's Eras Tour Opener: A Complete Recap of All 44 Songs” [Phần mở đầu chuyến lưu diễn Eras của Taylor Swift: Bản tóm tắt đầy đủ của tất cả 44 bài hát]. The Washington Post (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2024.
  109. ^ Jones, Nate (ngày 17 tháng 9 năm 2015). “Ryan Adams Is Finally Releasing His 1989 Covers Album; Listen to His 'Bad Blood' [Ryan Adams cuối cùng cũng phát hành album cover 1989 của mình; Hãy lắng nghe 'Bad Blood' của anh ấy]. Vulture (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 12 năm 2023. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2024.
  110. ^ Browne, David (ngày 21 tháng 9 năm 2015). “Ryan Adams on His Full-Album Cover of Taylor Swift's 1989 [Ryan Adams và bản hát lại đầy đủ ca khúc trong album 1989 của Taylor Swift]. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 9 năm 2023. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2024.
  111. ^ Goodman, Jessica (ngày 13 tháng 8 năm 2015). “Ryan Adams Tackles Taylor Swift's 'Wildest Dreams' in Latest 1989 Cover” [Ryan Adams xử lý 'Wildest Dreams' của Taylor Swift trong màn hát lại 1989 mới nhất]. Entertainment Weekly (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 12 năm 2023. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2024.
  112. ^ Caffrey, Dam (ngày 28 tháng 9 năm 2015). “Ryan Adams – 1989 [Ryan Adams – 1989]. Consequence of Sound (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2024.
  113. ^ a b Burrows, Marc (ngày 30 tháng 10 năm 2015). “Album Review: Ryan Adams - 1989 [Đánh giá album: Ryan Adams - 1989]. Drowned in Sound (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 12 năm 2023. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2024.
  114. ^ a b Winograd, Jeremy (ngày 21 tháng 10 năm 2015). “Review: Ryan Adams, 1989 [Đánh giá album: Ryan Adams - 1989]. Slant Magazine (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 5 năm 2019. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2024.
  115. ^ a b Murphy, Sarah (ngày 22 tháng 9 năm 2015). “Ryan Adams 1989 [Ryan Adams 1989]. Exclaim! (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 11 năm 2023. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2024.
  116. ^ Wood, Mikael (ngày 21 tháng 9 năm 2015). “Review: Ryan Adams Turns to Taylor Swift for Help On His Version of 1989 [Đánh giá: Ryan Adams nhờ Taylor Swift giúp đỡ về phiên bản 1989 của anh ấy]. Los Angeles Times (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2024.
  117. ^ Sawdy, Evan (ngày 24 tháng 9 năm 2015). “Ryan Adams: 1989 [Ryan Adams: 1989]. PopMatters (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2024.
  118. ^ a b Cragg, Michael (ngày 22 tháng 9 năm 2015). “Ryan Adams's Take on Taylor Swift's 1989 – First Listen Track-By-Track Review” [Ryan Adams đảm nhận ca khúc 1989 của Taylor Swift – Bài đánh giá theo từng bản nhạc được nghe đầu tiên]. The Guardian (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 1 năm 2023. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2024.
  119. ^ “Ryan Adams Chart History (Hot Rock & Alternative Songs)” [Lịch sử bảng xếp hạng Ryan Adams (Hot Rock & Alternative Songs)]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 11 năm 2023. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2024.
  120. ^ Kornharber, Spencer (ngày 21 tháng 9 năm 2015). “Ryan Adams's 1989 and the Vindication of Taylor Swift” [1989 của Ryan Adams và sự minh oan cho Taylor Swift]. The Atlantic (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2024.
  121. ^ Aroesti, Rachel (ngày 5 tháng 11 năm 2015). “Ryan Adams: 1989 Review – False Notes Abound on Taylor Swift Covers Album” [Ryan Adams: Đánh giá 1989 - Có rất nhiều nốt sai trong album cover bài hát Taylor Swift]. The Guardian (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 11 năm 2022. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2024.
  122. ^ Caramanica, Jon (ngày 22 tháng 9 năm 2015). “Teaming Up, Together (Drake and Future) or Apart (Ryan Adams and Taylor Swift)” [Hợp tác, cùng nhau (Drake và Future) hoặc riêng lẻ (Ryan Adams và Taylor Swift)]. The New York Times (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2024.
  123. ^ "Austriancharts.at – Taylor Swift – Wildest Dreams" (bằng tiếng Đức). Ö3 Austria Top 40. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2024.
  124. ^ "Ultratop.be – Taylor Swift – Wildest Dreams" (bằng tiếng Hà Lan). Ultratop 50. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2024.
  125. ^ "Ultratop.be – Taylor Swift – Wildest Dreams" (bằng tiếng Pháp). Ultratip. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2024.
  126. ^ a b "Taylor Swift Chart History (Canada AC)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2024.
  127. ^ "Taylor Swift Chart History (Canada CHR/Top 40)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2024.
  128. ^ "Taylor Swift Chart History (Canada Hot AC)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2024.
  129. ^ "ČNS IFPI" (bằng tiếng Séc). Hitparáda – Radio Top 100 Oficiální. IFPI Cộng hòa Séc. Ghi chú: Chọn 44. týden 2015. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2024.
  130. ^ "Taylor Swift: Wildest Dreams" (bằng tiếng Phần Lan). Musiikkituottajat – IFPI Finland. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2024.
  131. ^ "Taylor Swift: Wildest Dreams" (bằng tiếng Phần Lan). Musiikkituottajat – IFPI Finland. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2024.
  132. ^ "Lescharts.com – Taylor Swift – Wildest Dreams" (bằng tiếng Pháp). Les classement single. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2024.
  133. ^ “Taylor Swift Chart History (Greece Digital Song Sales)” [Lịch sử bảng xếp hạng Taylor Swift (Doanh số bài hát kỹ thuật số ở Hy Lạp)]. Billboard (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2024.
  134. ^ "Archívum – Slágerlisták – MAHASZ" (bằng tiếng Hungary). Single (track) Top 40 lista. Magyar Hanglemezkiadók Szövetsége. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2024.
  135. ^ "Irish-charts.com – Discography Taylor Swift" (bằng tiếng Anh). Irish Singles Chart. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2024.
  136. ^ “The official lebanese Top 20 – Taylor Swift” [Top 20 chính thức của Lebanon – Taylor Swift] (bằng tiếng Anh). The Official Lebanese Top 20. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 9 năm 2016. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2024.
  137. ^ “Taylor Swift Chart History (Mexico Airplay)” [Lịch sử bảng xếp hạng Taylor Swift (Mexico Airplay)]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 8 năm 2019. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2024.
  138. ^ “Tipparade-lijst van week 42, 2015” [Danh sách bài hát xếp hạng tuần 42 năm 2015] (bằng tiếng Hà Lan). Dutch Top 40. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2024.
  139. ^ "Listy bestsellerów, wyróżnienia :: Związek Producentów Audio-Video" (bằng tiếng Ba Lan). Polish Airplay Top 100. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2024.
  140. ^ “SloTop50 – Slovenian official singles chart” [SloTop50 – Bảng xếp hạng đĩa đơn chính thức của Slovenia] (bằng tiếng Slovenia). slotop50.si. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2024.
  141. ^ "Taylor Swift: Artist Chart History" (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2024.
  142. ^ a b c "Taylor Swift Chart History (Hot 100)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2024.
  143. ^ a b "Taylor Swift Chart History (Adult Contemporary)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2024.
  144. ^ "Taylor Swift Chart History (Adult Pop Songs)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2024.
  145. ^ "Taylor Swift Chart History (Dance Mix/Show Airplay)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2024.
  146. ^ "Taylor Swift Chart History (Pop Songs)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2024.
  147. ^ "Taylor Swift Chart History (Rhythmic)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2024.
  148. ^ "ČNS IFPI" (bằng tiếng Séc). Hitparáda – Digital Top 100 Oficiální. IFPI Cộng hòa Séc. Ghi chú: Chọn 39. týden 2021. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2024.
  149. ^ "Musicline.de – Taylor Swift Single-Chartverfolgung" (bằng tiếng Đức). Media Control Charts. PhonoNet GmbH. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2024.
  150. ^ a b c "Taylor Swift Chart History (Global 200)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2024.
  151. ^ "Portuguesecharts.com – Taylor Swift – Wildest Dreams" (bằng tiếng Anh). AFP Top 100 Singles. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2024.
  152. ^ "ČNS IFPI" (bằng tiếng Séc). Hitparáda – Singles Digital Top 100 Oficiálna. IFPI Cộng hòa Séc. Ghi chú: Chọn 39. týden 2021. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2024.
  153. ^ "Swedishcharts.com – Taylor Swift – Wildest Dreams" (bằng tiếng Anh). Singles Top 100. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2024.
  154. ^ "Swisscharts.com – Taylor Swift – Wildest Dreams" (bằng tiếng Thụy Sĩ). Swiss Singles Chart. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2024.
  155. ^ “ARIA Charts – End of Year Charts – Top 100 Singles 2015” [Bảng xếp hạng ARIA – Bảng xếp hạng cuối năm – Top 100 đĩa đơn 2015] (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2024.
  156. ^ “Canadian Hot 100 Year End 2015” [Canada Hot 100 cuối năm 2015]. Billboard (bằng tiếng Anh). ngày 2 tháng 1 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2024.
  157. ^ “Hot 100: Year End 2015” [Hot 100: Cuối năm 2015]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2024.
  158. ^ “Adult Contemporary Songs – Year-End 2015” [Adult Contemporary Songs – Cuối năm 2015]. Billboard (bằng tiếng Anh). ngày 2 tháng 1 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 11 năm 2019. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2024.
  159. ^ “Adult Pop Songs – Year-End 2015” [Adult Pop Songs – Cuối năm 2015]. Billboard (bằng tiếng Anh). ngày 2 tháng 1 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 5 năm 2019. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2024.
  160. ^ “Pop Songs: Year-End 2015” [Pop Songs: Cuối năm 2015]. Billboard (bằng tiếng Anh). ngày 2 tháng 1 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 5 năm 2019. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2024.
  161. ^ “Canadian Hot 100 Year End 2016” [Canadian Hot 100 Cuối năm 2016]. Billboard (bằng tiếng Anh). ngày 2 tháng 1 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 12 năm 2016. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2024.
  162. ^ “Hot 100 Songs – Year-End 2016” [Hot 100 Songs – Cuối năm 2016]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 1 năm 2017. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2024.
  163. ^ “Adult Contemporary Songs: Year-End 2016” [Adult Contemporary Songs: Cuối năm 2016]. Billboard (bằng tiếng Anh). ngày 2 tháng 1 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 12 năm 2016. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2024.
  164. ^ “Adult Pop Songs: Year-End 2016” [Adult Pop Songs: Cuối năm 2016]. Billboard (bằng tiếng Anh). ngày 2 tháng 1 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 12 năm 2016. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2024.
  165. ^ “Chứng nhận đĩa đơn Brasil – Taylor Swift – Wildest Dreams” (bằng tiếng Bồ Đào Nha). Pro-Música Brasil. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2024.
  166. ^ “Chứng nhận đĩa đơn Tây Ban Nha – Taylor Swift – Wildest Dreams”. El portal de Música (bằng tiếng Tây Ban Nha). Productores de Música de España. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2024.
  167. ^ “Chứng nhận đĩa đơn Hoa Kỳ – Taylor Swift – Wildest Dreams” (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2024.
  168. ^ Aswad, Jem; Willman, Chris (ngày 19 tháng 11 năm 2018). “Taylor Swift Signs New Deal With Universal Music Group” [Taylor Swift ký hợp đồng mới với Universal Music Group]. Variety (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 6 tháng 3 năm 2024.
  169. ^ Melas, Chloe (ngày 16 tháng 11 năm 2020). “Taylor Swift Speaks Out About Sale of Her Masters” [Taylor Swift lên tiếng về việc bán bản thu của mình] (bằng tiếng Anh). CNN. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2024.
  170. ^ “Taylor Swift Wants to Re-Record Her Old Hits” [Taylor Swift muốn thu âm lại những bản hit cũ của mình] (bằng tiếng Anh). BBC News. ngày 22 tháng 8 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 8 năm 2019. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2024.
  171. ^ Finnis, Alex (ngày 17 tháng 11 năm 2020). “Taylor Swift Masters: The Controversy around Scooter Braun Selling the Rights to Her Old Music Explained” [Bản thu tác phẩm Taylor Swift: Tranh cãi xung quanh việc Scooter Braun bán bản quyền âm nhạc cũ của cô ấy đã được giải thích]. i (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 2 năm 2021. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2024.
  172. ^ Shah, Neil (ngày 9 tháng 4 năm 2021). “Taylor Swift Releases New Fearless Album, Reclaiming Her Back Catalog” [Taylor Swift phát hành album mới Fearless, đòi lại danh mục âm nhạc cũ của cô]. The Wall Street Journal (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2024.
  173. ^ Espada, Mariah (ngày 6 tháng 7 năm 2023). “Taylor Swift Is Halfway Through Her Rerecording Project. It's Paid Off Big Time” [Taylor Swift đã đi được nửa chặng đường trong dự án thu âm lại. Công việc đã được đền đáp xứng đáng]. Time (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 10 năm 2023. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2024.
  174. ^ Fernández, Alexia (ngày 12 tháng 3 năm 2021). Spirit Untamed First Look! Hear Taylor Swift's Re-Recorded 'Wildest Dreams (Taylor's Version)' in Trailer” [Spirit: Chú ngựa bất kham Cái nhìn đầu tiên! Nghe bản thu âm lại 'Wildest Dreams (Taylor's Version)' của Taylor Swift trong Trailer]. People (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 3 năm 2021. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2024.
  175. ^ Moore, Sam (ngày 1 tháng 4 năm 2021). “Listen to a New Preview of Taylor Swift's 'Wildest Dreams (Taylor's Version)' [Nghe bản xem trước mới của 'Wildest Dreams (Taylor's Version)' của Taylor Swift]. NME (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 8 năm 2023. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2024.
  176. ^ Kenneally, Cerys (ngày 17 tháng 5 năm 2021). “Extended Clip of 'Wildest Dreams (Taylor's Version)' Features in New Spirit Untamed Trailer” [Clip mở rộng 'Wildest Dreams (Taylor's Version)' xuất hiện trong trailer mới Spirit: Chú ngựa bất kham]. The Line of Best Fit (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 11 năm 2021. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2024.
  177. ^ Speakman, Kimberlee (ngày 17 tháng 9 năm 2021). “Taylor Swift Drops New Version Of 'Wildest Dreams'—Why It Matters” [Taylor Swift tung ra phiên bản mới của 'Wildest Dreams'—Tại sao việc này lại quan trọng]. Forbes (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 8 năm 2023. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2024.
  178. ^ a b Legatspi, Althea (ngày 17 tháng 9 năm 2021). “Taylor Swift Surprise-Releases 'Wildest Dreams (Taylor's Version)' for Avid TikTokers” [Taylor Swift bất ngờ phát hành 'Wildest Dreams (Taylor's Version)' cho những người đam mê TikTokers]. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 11 năm 2021. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2024.
  179. ^ Vassell, Nicole (ngày 27 tháng 10 năm 2023). “Taylor Swift Fans Celebrate As Pop Star Releases 1989 (Taylor's Version) [Người hâm mộ Taylor Swift ăn mừng khi ngôi sao nhạc Pop phát hành 1989 (Taylor's Version)]. The Independent (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 10 năm 2023. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2024.
  180. ^ a b c Siroky, Mary (ngày 17 tháng 9 năm 2021). “Song of the Week: Taylor Swift Revives Our 'Wildest Dreams' with Surprise Re-Recording” [Bài hát của tuần: Taylor Swift hồi sinh 'Wildest Dreams' của chúng ta với bản thu âm lại đầy bất ngờ]. Consequence (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 5 năm 2022. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2024.
  181. ^ Willman, Chris (ngày 17 tháng 9 năm 2021). “Taylor Swift Releases New Version of 'Wildest Dreams' From 1989, Skipping Ahead in Her Re-Recordings” [Taylor Swift phát hành phiên bản mới của 'Wildest Dreams' từ 1989, vượt lên dẫn đầu trong các bản thu âm lại của cô ấy]. Variety (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 11 năm 2023. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2024.
  182. ^ Aroesti, Rachel (ngày 27 tháng 10 năm 2023). “Taylor Swift: 1989 (Taylor's Version) Review – Subtle Bonus Tracks Add New Depths to a Classic” [Taylor Swift: Đánh giá 1989 (Taylor's Version) - Những bản nhạc thưởng tinh tế bổ sung thêm chiều sâu mới cho một bản nhạc cổ điển]. The Guardian (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 10 năm 2023. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2024.
  183. ^ a b Murray, Robin (ngày 17 tháng 9 năm 2021). “Taylor Swift Just Shared 'Wildest Dreams (Taylor's Version)' [Taylor Swift vừa chia sẻ 'Wildest Dreams (Taylor's Version)']. Clash (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 12 năm 2021. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2024.
  184. ^ Willman, Chris (ngày 17 tháng 9 năm 2021). “Taylor Swift's 'Wildest Dreams (Taylor's Version)' Quickly Beats the Original Song's Spotify Record for Single-Day Plays” ['Wildest Dreams (Taylor's Version)' của Taylor Swift nhanh chóng đánh bại kỷ lục Spotify của bài hát gốc về số lượt phát nhạc trong một ngày]. Variety (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 9 năm 2021. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2024.
  185. ^ Zeliner, Xander (ngày 27 tháng 9 năm 2021). “Taylor Swift's 'Wildest Dreams (Taylor's Version)' Debuts in Hot 100's Top 40” ['Wildest Dreams (Taylor's Version)' của Taylor Swift lọt vào Top 40 của Hot 100]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 11 năm 2021. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2024.
  186. ^ White, Jack (ngày 24 tháng 9 năm 2021). “Ed Sheeran's 'Shivers' Holds Firm At Irish Number 1” ['Shivers' của Ed Sheeran giữ vững vị trí số 1 Ireland] (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 9 năm 2021. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2024.
  187. ^ Copsey, Rob (ngày 24 tháng 9 năm 2021). “Ed Sheeran's 'Shivers' Scores Second Week at Official Singles Chart Summit” ['Shivers' của Ed Sheeran ghi điểm tuần thứ hai tại Official Singles Chart] (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 9 năm 2021. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2024.
  188. ^ Zellner, Xander (ngày 6 tháng 11 năm 2023). “Taylor Swift Charts All 21 Songs From 1989 (Taylor's Version) on the Hot 100” [Taylor Swift lọt tất cả 21 bài hát từ 1989 (Taylor's Version) vào bảng xếp hạng Hot 100]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 11 năm 2023. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2024.
  189. ^ a b “Top 20 Most Streamed International + Domestic Songs Week 38 (17/09/2021-23/09/2021)” [Top 20 ca khúc trong nước và quốc tế được nghe nhiều nhất tuần 38 (17/09/2021-23/09/2021)] (bằng tiếng Anh). Recording Industry Association of Malaysia. ngày 2 tháng 10 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2024.
  190. ^ a b “RIAS Top Charts Week 38 (17–23 September 2021)” [Bảng xếp hạng bài hát RIAS Tuần 38 (17–23 tháng 9 năm 2021)] (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Singapore. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 9 năm 2021. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2024.
  191. ^ a b "Australian-charts.com – Taylor Swift – Wildest Dreams (Taylor's Version)" (bằng tiếng Anh). ARIA Top 50 Singles. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2024.
  192. ^ a b “Taylor Swift Chart History (Philippines Songs)” [Lịch sử bảng xếp hạng Taylor Swift (Philippines Songs)]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 5 năm 2022. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2024.
  193. ^ a b "Archívum – Slágerlisták – MAHASZ" (bằng tiếng Hungary). Single (track) Top 40 lista. Magyar Hanglemezkiadók Szövetsége. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2024.
  194. ^ a b "Charts.nz – Taylor Swift – Wildest Dreams (Taylor's Version)" (bằng tiếng Anh). Top 40 Singles. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2024.
  195. ^ a b “Jan 2024 Single Accreds” [Chứng nhận đĩa nhạc Úc tháng 1 năm 2024] (PDF) (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2024.
  196. ^ a b “Chứng nhận đĩa đơn New Zealand – Taylor Swift – Wildest Dreams (Taylor's Version)” (bằng tiếng Anh). Recorded Music NZ. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2024.
  197. ^ a b c “Digital Singles Chart (International)” [Bảng xếp hạng đĩa đơn kỹ thuật số (Quốc tế)] (bằng tiếng Anh). IFPI Hy Lạp. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 11 năm 2023. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2024.
  198. ^ a b “Chứng nhận đĩa đơn Anh Quốc – Taylor Swift – Wildest Dreams (Taylor's Version)” (bằng tiếng Anh). British Phonographic Industry. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2024.
  199. ^ 'Wildest Dreams (Taylor's Version)' – Credits” ['Wildest Dreams (Taylor's Version)' – Phần ghi công] (bằng tiếng Anh). Tidal. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2024.
  200. ^ "Taylor Swift Chart History (Euro Digital Song Sales)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2024.
  201. ^ "Lescharts.com – Taylor Swift – Wildest Dreams (Taylor's Version)" (bằng tiếng Pháp). Les classement single. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2024.
  202. ^ "Official Irish Singles Chart Top 50" (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2024.
  203. ^ “2021 39-os savaitės klausomiausi (Top 100)” [Tuần 39 năm 2021 được nghe nhiều nhất (Top 100)] (bằng tiếng Litva). AGATA. ngày 1 tháng 10 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2024.
  204. ^ “Dutch Single Top 100” [Top 100 đĩa đơn Hà Lan] (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 11 năm 2023. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2024.
  205. ^ “Local & International Streaming Chart Top 100: Week 38” [Bảng xếp hạng phát trực tuyến trong nước và quốc tế Top 100: Tuần 38] (bằng tiếng Anh). Recording Industry of South Africa. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 9 năm 2021. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2024.
  206. ^ "Swedishcharts.com – Taylor Swift – Wildest Dreams (Taylor's Version)" (bằng tiếng Anh). Singles Top 100. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2024.
  207. ^ "Official Singles Chart Top 100" (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2024.
  208. ^ “Taylor Swift Chart History (Billboard Vietnam Hot 100)” [Lịch sử bảng xếp hạng Taylor Swift (Billboard Vietnam Hot 100)]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 6 năm 2022. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2024.

Đọc thêm[sửa | sửa mã nguồn]