Bước tới nội dung

Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Thông Giác Thủy Nguyệt”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 28: Dòng 28:


Sư từng đến [[Hồ Châu|Hồ Châu, Trung Quốc]] tu hành, ngộ đạo và được [[Thiền sư]] [[Nhất Cú Tri Giáo]] (zh. 一 句 知 教) [[Ấn khả chứng minh|ấn khả]]. Sau khi về nước, sư nỗ lực hoằng dương Phật pháp và có môn đệ nối pháp là Thiền sư [[Chân Dung Tông Diễn]].
Sư từng đến [[Hồ Châu|Hồ Châu, Trung Quốc]] tu hành, ngộ đạo và được [[Thiền sư]] [[Nhất Cú Tri Giáo]] (zh. 一 句 知 教) [[Ấn khả chứng minh|ấn khả]]. Sau khi về nước, sư nỗ lực hoằng dương Phật pháp và có môn đệ nối pháp là Thiền sư [[Chân Dung Tông Diễn]].

== Tiểu sử ==
{{Thiền sư Việt Nam}}

Sư sinh năm [[Đinh Sửu]] (1637), quê ở Thanh Triều, huyện Ngự Thiên, phủ Tiên Hưng, đạo Sơn Nam (nay là thôn Thanh Triều, xã [[Tân Lễ]], huyện [[Hưng Hà]], tỉnh [[Thái Bình]]), con nhà họ Đặng. Vừa lớn lên, Sư theo học [[Nho giáo]], đến 18 tuổi thi đậu Cống cử tứ trường và được chọn làm quan.

== Quá trình tu tập ==
Năm 20 tuổi, Sư chán cõi đời [[vô thường]] khởi ý chí tu hành giải thoát, lại thích tu thiền học đạo . Sư bỏ nghiệp [[Nho giáo|Nho]], tìm đến chùa xã Hổ Đợi, huyện Thụy Anh xin xuất gia học đạo. Ở đây sáu năm học các kinh sách, Sư biết đó chưa phải là tông chỉ đúng đắn của đạo, bèn xin phép thầy đi du phương tham vấn khắp nơi . Sư đi tham vấn rất nhiều bậc tôn túc trong nước, nhưng không khế hợp.

Năm 28 tuổi , Sư quyết chí sang [[Trung Quốc]]. Tháng 3 năm [[Giáp Thìn]] (1664) niên hiệu Cảnh Trị triều Lê, sư bắt đầu hành trình sang Trung Quốc tìm thầy học đạo. Một hôm qua suối, sư ngẫu hứng làm thơ:<blockquote>''Non nước với ta có nhân duyên''

''Đã lội suối rồi lại vượt non''

''Nước rửa bụi trần nhọc nhằn hết''

''Núi nâng chân bước ngàn đạo cao.''</blockquote>Năm 1665, sư đến vùng [[Hồ Châu]], sau nhiều ngày đi đường hỏi han sư mới đến được núi Phượng Hoàng (nay là núi Nhân Hoàng), nơi đây có Thiền Sư Tri Giáo đang xiển dương Tào Động, chùa ấy nay là Nhân Vương Hộ Quốc Thiền Tự. Đến đây, vì bất đồng ngôn ngữ nên sư chưa thể nhập chúng tu. Sư bèn kết am trước chùa ngày học nói [[Tiếng Trung Quốc|tiếng trung]], đêm chuyên tâm [[tọa thiền]].

Sau 3 tháng, sư thông thạo cách phát âm tiếng trung. Trong lòng muốn được tham vấn bậc Thượng Đức, nên viết thư nhờ vị tăng giữ cửa gửi cho Thiền sư Trí Giáo, bày tỏ tấm lòng cầu đạo của mình. Thiền sư Trí Giáo xem thư xong, tuy chưa nhìn thấy mặt nhưng trong lòng cảm thấy rất ưng ý và cho gọi sư vào Phương trượng.

Sư đỉnh lễ Thiền sư trước Phương trượng, Hòa thượng cất tiếng hỏi: ''" Trước khi cha mẹ chưa sanh, trong ấy cái gì là bản lai diện mục của ngươi?"'' Sư thưa: ''" Mặt trời sáng giữa hư không"'' . Hòa thượng nói:''" Ba mươi gậy, một gậy không tha"'' . Sư lại lễ rồi cuốn chiếu. Hòa thượng bảo: ''" Cho ngươi nhập chúng, tùy theo chúng tham vấn"''. Từ đây, sư được nhập chúng tu tập, theo chúng [[Công án|tham thiền]], học kinh điển, làm lao tác trong tùng lâm. Năm sau, sư xin Tổ Tri Giáo cho thọ giới cụ túc và đến tháng 4 cùng năm, Tổ Tri Giáo lập đàn truyền giới cho sư thọ giới.

Trải qua 6 năm tu học ở [[Trung Quốc]], một hôm tổ tri giáo gọi sư vào khảo chứng công phu . Công án được ghi lại như sau:

Một hôm Hòa thượng gọi sư vào phương trượng hỏi: ''Đã thấy tính ([[Phật tính|Phật Tính]]) chưa ?''

Sư ra lễ bái, trình kệ:
{|
|Viên minh thường tại thái hư trung
Cương bị mê vân vọng khởi long

Nhất đắc phong xuy vân tứ tán

Hằng sa thế giới chiếu quang thông.
|Sáng tròn thường ở giữa hư không
Bởi bị mây mê vọng khởi lồng

Một phen gió thổi mây tứ tán

Thế giới hà sa sáng chiếu thông.
|
|}
Hòa thượng hỏi: ''Chỗ an thân lập mệnh của ông là chỗ nào?''

Sư đáp: ''Trong gió, lửa nổi dậy. Trên sóng nước an nhiên.''

Tổ hỏi tiếp: ''Ðêm ngày ông giữ gìn nó ra sao?''

Sư đáp: ''Ðúng ngọ trăng sao hiện Nữa đêm mặt trời hồng.''

Tổ nói: ''Chuyện an thân lập mệnh như thế được rồi, còn chuyện mặt mũi xưa nay của ông như thế nào?''

Sư thưa: ''Quơ sào trên bóng cỏ. Tên nhọn sẽ bay ra.''

Tổ hoàn toàn hài lòng, đưa tay điểm lên trán sư 3 cái thầm [[Ấn khả chứng minh|ấn khả]] rồi nói : "''Con rắn hai đầu ấy, đừng để nó chạy thoát! Hãy xỏ mũi nó! Cẩn thận! Người xứng đáng là con cháu ngoan của [[Tào Động tông|tông Tào Ðộng]]. Ta cho pháp hiệu là Thông Giáo Đạo Nam Thiền sư''".

Và cho về Việt Nam mở Động Tông Nam Truyền, là một phái phụ của Tông Tào Động với bài kệ Pháp phái:<blockquote>''Tịnh trí thông tông''

''Từ tính hải khoan''

''Giác đạo sinh quang''

''Chính tâm mật hạnh''

''Nhân đức vi lương''

''Tuệ đăng phổ chiếu''

''Hoằng pháp vĩnh truyền.''</blockquote>Tháng 10, năm [[Khang Hi|Khang Hy]] thứ 6, sư sửa soạn hành lý, chuẩn bị về nước, tạm biệt các đồng đạo, bằng hữu trong Thiền tự. Trước khi ra đi, Tổ sách tấn: " ''Ngươi về nên tinh tấn làm Phật sự, giảng nói đề cao chánh pháp, không nên chần chờ để tâm theo với vọng trần, trái lời Phật. Ngươi thành tâm đi muôn dặm đến đây nay tôi cho một bài kệ để gắng tiến:''
{|
|Quế nham suy phức tục truyền đăng
Thu nhập trường không quế bích đằng

Trì nhĩ viên lai khai bảo kính

Từ dư quy khứ thị kim thằng

Thuỵ thâm Phượng lĩnh thiên trùng tuyết

Cáp thụ An Nam nhất cá tăng

Dạ bán cẩm hà sơn hậu khởi

Hạo tòng thiên tế thức tăng hằng
|Rừng quế gương xưa đền nối sáng
Thu về đâu đấy ngát mùi hương

Vì người xa đến treo gương báu

Từ biệt ta về chỉ đạo Thiền

Ai vào núi Phụng nghìn trùng tuyết

Dường có An Nam một vị tăng

Nửa đêm áo gấm ra sau núi

Như ở chân trời thấy mặt trăng
|}

== Hoằng pháp ==

Sư cùng thị giả trở về nước , đi bộ 5 tháng mới đến địa phận tỉnh [[Cao Bằng]] và thăm lại mộ người thị giả xưa và tụng [[Kinh Siêu|kinh siêu]] độ 3 ngày thì trên mộ hiện đóa hoa sen. Dân chúng thấy kỳ lạ nên đua nhau đến xem. Từ đó, Tông Tào Động ở Phương Nam được thịnh hành, có người vì kính đức hạnh cúa sư mà cúng dường, hay xin được [[quy y]], thọ giới, theo sư tu tập tham thiền. Sau đó, sư lên thăm núi Côn Sơn, di tích cũ của [[Thiền sư]] [[Huyền Quang]], thấy cảnh vật trang nghiêm đẹp đẽ nên làm bài kệ:<blockquote>''Nước biếc non xanh vượt cõi phàm''

''Tào Khê riêng có cảnh trời Nam''

''Chẳng riêng thờ phụng ba thân Phật''

''Có bậc trạng nguyên ứng trụ trì''</blockquote>Sư từng đi tới nhiều ngôi chùa cổ, chiêm bái các chốn Tùng lâm, có khi lên núi [[Núi Yên Tử|Yên Tử]] [[tọa thiền]], hoặc đến [[chùa Quỳnh Lâm]] giảng về [[Giới (Phật giáo)|Giới Luật]]. Sư đến Đông Sơn( núi Non Đông), huyện [[Đông Triều (phường)|Đông Triều]], thấy đã có cao tăng trụ trì ở trên núi Thượng Long từ trước, dân gian thường gọi là Tổ Muống, sư đến trụ trì giáo hóa tại chùa Hạ Long. Sư ở đây xiển dương tông phong Tào Động người đến tham học rất đông đúc. Một hôm, sư ngồi tựa ghế chợt thấy một con chim xanh bay tới, liền đốn ngộ tự ngâm kệ rằng : <blockquote>''Hoa xuân nở hết lai sương thu''

''Đời mộng nào chắc mãi bền lâu''

''Vượt hẳn trời cao vui tự tại''

''Càng khôn đâu chổ vướng trần nhơ'' </blockquote>
== Thị tịch ==
Đến ngày nọ, sư lên chùa Thượng Long, nói với vị cao tăng trên ấy rằng: ''Anh em ta tuổi tác đã cao, ngày tháng kéo dài, nay là lúc phải thanh nhàn, muốn cùng nhau lên núi nhập [[Niết-bàn|Niết Bàn]]''. Vị ấy đáp: ''Thanh Huynh! Hương đạo quả đã chín, xin hãy về nghỉ ngơi trước, tôi vẫn còn duyên ứng thế độ sinh, ngày sau viên mãn, sẽ theo về cũng chưa muôn''. Hôm đó, sư về chùa Hạ Long gọi đệ tử nối pháp là [[Chân Dung Tông Diễn|Tông Diễn]] đến nói kệ phó chúc:
{|
|Thủy xuất đoan do tẩy thế trần
Trần thanh thủy phục nhập nguyên chân

Dữ quân nhất bát cam lộ thủy

Bái tác ân ba độ vạn dân.
|Nước cốt tuôn ra rửa bụi trần
Sạch rồi nước lại trở về chân

Cho ngươi bát nước cam lộ quý

Ân tưới chan hoà độ vạn dân.
|
|}

và bài kệ:
{|
|山織錦水畫圖
玉泉涌出白酡酥

岸上黃花鶯弄語

波中碧水鰈群呼

月白堂堂魚父醉

日紅耿耿繭婆晡
|Sơn chức cẩm thủy hoạ đồ
Ngọc tuyền dũng xuất bạch đà tô

Ngạn thượng hoàng hoa oanh lộng ngữ

Ba trung bích thủy điệp quần hô

Nguyệt bạch đường đường ngư phủ tuý

Nhật hồng cảnh cảnh kiển bà bô
|Núi dệt gấm, nước vẽ hình
Suối ngọc chảy, tuôn rượi đà tô

Bờ cúc nở hoa hoàng oanh hót

Nước trong sóng biếc cá điệp nhào

Trăng sáng rỡ ràng ông chài ngủ

Trời soi rừng rực kén nằm nhô
|}
Sau đó sư cáo biệt đại chúng, nói rằng: " ''Ta lên núi Nhẫm bảy ngày, nếu như không trở về thì các người tìm chổ nào có mùi thơm, thì ta ở chổ đó''" . Chúng bùi ngùi rơi lệ, nhưng không ai dám đi theo. Sau đó 7 ngày, môn đệ lên núi thấy mùi hương ngào ngạt rất lạ, đi đến một hang động đá ở núi Nhẫm Dương(tỉnh Hải Dương) thì thấy sư ngồi trang nghiêm kiết già trên một tảng đá đã thị tịch từ khi nào, thân thể vẫn mềm mại như lúc sống.

Bấy giờ là ngày 6 tháng 3 năm [[Giáp Thìn]], niên hiệu Chính Hòa thứ hai mươi, đời vua [[Lê Hy Tông|Lê Hi Tông]] (1704), Sư thọ 68 tuổi. Tứ chúng thỉnh nhục thân Sư về hỏa táng chia [[Xá lị|xá lợi]] thờ hai nơi, một ở chùa Hạ Long, một ở hang núi Nhẫm. Vua [[Lê Hy Tông|Lê Hi Tông]] phong sư hiệu Đạo Nam Quốc Sư bồ tát. Hành trạng về cuộc đời của sư được ghi lại trong Tào Động Tông Nam Truyền Tổ Sư Ngữ Lục, Tào Động Hồng Phúc Phổ Hệ. .


== Tham khảo ==
== Tham khảo ==

* Thích Thanh Từ, ''Thiền sư Việt Nam'', Thành Hội Phật giáo Thành phố Hồ Chí Minh ấn hành 1992.
* Thích Thanh Từ, ''Thiền sư Việt Nam'', Thành Hội Phật giáo Thành phố Hồ Chí Minh ấn hành 1992.
* Thích Khoan Dực, ''Tào Động Tông Nam Truyền Tổ Sư Ngữ Lục'', Thích Tiến Đạt dịch 2015.
* Thích Khoan Dực, ''Tào Động Tông Nam Truyền Tổ Sư Ngữ Lục'', Thích Tiến Đạt dịch 2015.

Phiên bản lúc 06:24, ngày 30 tháng 8 năm 2023

Thiền sư
thông giác thủy nguyệt
通覺水月
Tên khai sinhhọ Đặng
Hoạt động tôn giáo
Tôn giáoPhật giáo
Trường pháiĐại thừa
Tông pháiThiền tông
DòngTào Động tông (đời thứ 31)
Sư phụNhất Cú Trí Giáo
Đệ tửChân Dung Tông Diễn
Xuất gia1657
Thụ giớiSa di
1657
Chùa xã Hổ Đợi, huyện Thụy Anh, tỉnh Thái Bình
 Tỳ khưu
1667
Nhân Vương Hộ Quốc Thiền Tự, núi Phượng Hoàng, Hồ Châu, Trung Quốc
Thông tin cá nhân
Sinh
Tên khai sinhhọ Đặng
Ngày sinh1637
Nơi sinhThôn Thanh Triều, xã Tân Lễ, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình
Mất
Thụy hiệuĐạo Nam Quốc Sư
Ngày mất06/03/1704
Nơi mấtNúi Nhẫm Dương, Hải Dương
Quốc giaViệt Nam
 Cổng thông tin Phật giáo

Thông Giác Thủy Nguyệt (zh. 通覺水月, 1637 – 1704) là sơ tổ của Tào Động tông Việt Nam, thuộc đời thứ 31 Tào Động tông. Sư là một trong những vị tu sĩ Việt Nam đầu tiên chủ động sang nước ngoài (cụ thể là Trung Quốc) để học đạo và sau đó đắc đạo rồi trở về Việt Nam truyền bá Phật pháp. Khác với trước đó, Phật giáo, Thiền tông thường được truyền vào Việt Nam thông qua các vị sư ngoại quốc như từ Ấn Độ, Trung Quốc...

Sư từng đến Hồ Châu, Trung Quốc tu hành, ngộ đạo và được Thiền sư Nhất Cú Tri Giáo (zh. 一 句 知 教) ấn khả. Sau khi về nước, sư nỗ lực hoằng dương Phật pháp và có môn đệ nối pháp là Thiền sư Chân Dung Tông Diễn.

Tham khảo

  • Thích Thanh Từ, Thiền sư Việt Nam, Thành Hội Phật giáo Thành phố Hồ Chí Minh ấn hành 1992.
  • Thích Khoan Dực, Tào Động Tông Nam Truyền Tổ Sư Ngữ Lục, Thích Tiến Đạt dịch 2015.
  • Như Sơn, Thiền Uyển Kế Đăng Lục, Thích Thiện Phước dịch 2015.