Bước tới nội dung

Cổng thông tin:Phật giáo

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

hệ thống tôn giáo, triết học khởi nguồn từ Thích-ca Mâu-ni

Phật

Siddhārtha Gautama đang ngồi thiền

Siddhārtha Gautama là một nhà tu hành, nhà truyền giáo, nhà thuyết giảng và đạo sư sống ở Ấn Độ vào thời cổ đại, người sáng lập Phật giáo. Ông sinh ra ở vùng đất mà ngày nay là Nepal, nhưng quãng cuộc đời quan trọng nhất sau đó của ông lại gắn liền với các khu vực mà ngày nay là Ấn Độ khi ông đi xuống phía Đông và phía Nam để sáng tạo và truyền bá các lời giảng dạy của ông, tín đồ Phật giáo xem ông là người đầu tiên hoàn toàn giác ngộ để đạt niết bàn thành Phật.

Theo các bộ kinh Phật giáo truyền lại cùng sử liệu thì ông vốn xuất thân là một vị thái tử thuộc về Hoàng tộc Gautama của Tiểu quốc Shakya ở vùng Kapilavastu. Tuy nhiên, ông đã sớm từ bỏ cuộc sống vinh hoa phú quý ở nơi đấy để nhằm lên đường đi tìm chính đạo. Sau khoảng 6 năm tu đạo, ông đạt được giác ngộ chính pháp ở năm 35 tuổi và dành tiếp 45 năm còn lại trong cuộc đời mình cho việc truyền bá, giảng dạy các giáo lý Phật pháp khắp những khu vực ở Đông và Nam tiểu lục địa Ấn Độ. Siddhārtha đề xướng con đường Trung đạo - tức vừa từ bỏ đời sống xa hoa nhưng cũng vừa không theo lối tu hành ép xác khổ hạnh vốn rất thịnh hành trong các học thuyết tôn giáo và tín ngưỡng Ấn Độ xưa. Các giáo pháp trong thời gian mà Đức Phật từng truyền bá ở Ấn Độ cũng đã đặt ra nền tảng quan trọng và to lớn cho sự hình thành và phát triển của những giáo lý đạo Phật ngày nay.

[[|Đọc tiếp...]]

Pháp

Các vị sư Nam tông tụng kinh

Tụng kinh là xướng đọc lên những lời giáo huấn của Phật thông qua các kinh điển do Phật tuyên thuyết. Tụng kinh là một trong những phương pháp tu tập, được thực hành rộng rãi ở mọi tông phái khác nhau của Phật giáo trong các thời lễ nhằm cầu an, cầu siêu cho người đã khuất hoặc sám hối những ác nghiệp mà Phật tử đã gây ra trong quá khứ hay đôi khi đơn giản là học thuộc lòng, quán xét kinh văn một cách thấu đáo. Tụng kinh được thực hiện bởi tứ chúng đệ tử bao gồm các những người đã xuất gia hoặc những người tu tại gia. Thông thường, người ta thường hay tụng kinh trước tôn tượng, hình ảnh của Phật, bồ-tát.

Theo truyền thống Phật giáo Nam tông, người ta thường tụng đọc kinh điển bằng tiếng Pali hoặc bằng tiếng bản xứ. Theo truyền thống Đại thừa, việc tụng kinh thường đi kèm với việc sử dụng pháp khí như , chuông, khánh nhằm tạo nên nhịp điệu cho thời kinh; thông thường, mỗi ngày thường có hai thời khóa tụng kinh là công phu sáng và công phu tối.

Tăng

Đường Tăng, tranh vẽ trong Thạch thất Đôn Hoàng

Huyền Trang là một cao tăng Trung Quốc, một trong bốn dịch giả lớn nhất, chuyên dịch kinh sách tiếng Phạn ra tiếng Hán. Nhà sư cũng là người sáng lập Pháp tướng tông, một dạng của Duy thức tông tại Trung Quốc. Danh hiệu Tam Tạng được giới tăng sĩ tôn xưng để tôn vinh ông là người tinh thông cả Tam tạng Kinh điển Phật giáo.

Khoảng đầu thế kỉ 7, kinh sách Phật giáo của Trung Quốc gồm có vô số những bản dịch, văn bản chữ Hán; đại diện và làm nền tảng cho nhiều quan điểm đối chọi nhau. Tất cả đều tự nhận mình là "Phật giáo". Trên một chừng mức nhất định, Phật giáo Trung Quốc của thế kỉ thứ sáu có thể được xem là một trường tranh cãi giữa các trường phái của Duy thức tông, tức là giáo phái được ghi lại trong các tác phẩm của Vô Trước và Thế Thân. Thế nhưng, các điểm chi tiết của hệ thống này, cả về mặt cơ bản lẫn luận giải, là đối tượng của những cuộc tranh cãi triền miên. Mặc dù nhà vua cấm Huyền Trang ra đi, sư vẫn lên đường, trải qua nhiều gian khổ trên đường băng qua núi non và sa mạc, đối diện với đói khát và giặc cướp, và cuối cùng sau một năm, sư tới Ấn Độ. Huyền Trang ở lại Ấn Độ nhiều năm để học tập với những vị thầy danh tiếng nhất, chiêm bái các thánh tích và tham gia vào các cuộc tranh luận với những Phật tử và ngoại đạo, đả bại tất cả những đối thủ và trở nên nổi tiếng là một nhà tranh luận cứng rắn. Sau một loạt tranh luận với hai đại diện của Trung quán tông, sư viết một bài luận giải bằng tiếng Phạn với ba ngàn câu kệ nói về "Điểm không khác biệt giữa Trung quán và Duy thức" mà ngày nay không còn. Sau khi hứa với Giới Hiền, thầy dạy của sư tại đại học Nalanda, là sẽ trình bày lý luận của Dignāga tại Trung Quốc, sư trở về quê hương với hơn 600 bộ kinh luận viết bằng tiếng Phạn.

Hình ảnh

Một chú tiểu tại Chùa Thiên Mụ, Việt Nam
Ảnh: CEphoto, Uwe Aranas

Kinh điển

Ấn bản chữ Hán thế kỷ 15

Kinh Lăng-nghiêm là một bộ kinh đã được tất cả các trường phái Phật giáo Trung Hoa tụng niệm và nghiên cứu từ đời nhà Đường và thường được luận giải ở các thế kỷ tiếp theo sau. Kinh Lăng Nghiêm rất được những người "hợp nhất tam giáo" đời nhà Tống và đời nhà Minh ưa chuộng.

Kinh Lăng Nghiêm dần dần được các tổ Thiền tông đặc biệt quan tâm, trong đó có các ngài Trường Thủy Tử Duệ, Hám Sơn Đức Thanh và Tuyên Hóa đã góp nhiều công sức phổ biến và giảng giải.

Tông phái

Tu sĩ Tào Động tông Nhật Bản đang thiền định

Thiền tông là một pháp môn tu tập trong Phật giáo. Tổ sư Thiền là một tông phái Phật giáo Đại thừa xuất phát từ 28 đời Tổ sư Ấn Độ và truyền bá lớn mạnh ở Trung Quốc, tuy nhiên các thiền sư trong Thiền tông tự coi tông phái mình tách biệt không thuộc Đại thừa hay Tiểu thừa. Thiền tông sinh ra trong khoảng thế kỉ thứ 6, thứ 7, khi Bồ-đề-đạt-ma đưa phép Thiền của đạo Phật vào Trung Quốc kết hợp với huyền học của đạo Lão. Nơi đây, Thiền tông trở thành một tông phái lớn, với mục đích là hành giả trực nhận được bản thể của sự vật và đạt giác ngộ, như Phật Thích-ca Mâu-ni đã đạt được dưới gốc cây Bồ-đề.

Trích dẫn

« सब्ब पापस्स अकरणं, कुसलस्स उपसंपदा; सचित्त परियोदपनं, एतं बुद्धान सासनं. »
Thất Phật thông kệ

Bài viết

Phật học là một ngành nghiên cứu học thuật về Phật giáo. Thuật ngữ Phật học được Estlin Carperter - một mục sư nhất vị luận - đặt ra vào đầu thế kỷ 20, có nghĩa là "nghiên cứu về Phật quả, bản chất của Đức Phật và giáo lý của một vị Phật", nhưng nói chung trong bối cảnh đương đại, hai thuật ngữ Phật học và Phật giáo thường được coi là đồng nghĩa. Theo William M. Johnston, trong một số bối cảnh cụ thể, Phật giáo có thể được xem như một tập hợp con của Phật học, tập chung vào các thông điệp, giải kinh, bản thể luận và các thuộc tính của Phật. Các học giả Phật học tập chung vào lịch sử, văn hóa, khảo cổ, nghệ thuật, bác ngữ, nhân chủng, xã hội, thần học, triết học, thực hành, so sánh liên tôn giáo và các môn học khác liên quan đến Phật giáo.

Trái ngược với những nghiên cứu về Do Thái giáo hay Ki-tô giáo, lĩnh vực nghiên cứu về Phật giáo bị chi phối bởi "người ngoài" - đối với các nền văn hóa và truyền thống Phật giáo. Mặc dù cũng có những đóng góp lớn từ các trường đại học Nhật Bản, người gốc Á sinh sống tại phương Tây và người phương Tây tín ngưỡng Phật giáo.

Thư mục

Tông phái

Thuật ngữ

Nhân vật

Kinh điển

Thánh địa

Nội dung khác : Lịch sử Phật giáo, Âm nhạc Phật giáo (+), Nghệ thuật Phật giáo