Chu Khuê

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Chu Khuê
朱珪
Tên chữThạch Quân (石君)
Tên hiệuNam; Bàn Đà lão nhân; Tri Túc Trai
Thụy hiệuVăn Chính
Hộ bộ Hán thượng thư
Nhiệm kỳ
4 tháng 11, 1799-25 tháng 2, 1805
Tiền nhiệmPhạm Kiến Trung
Kế nhiệmĐái Cù Hanh
Lại bộ Hán thượng thư
Nhiệm kỳ
9 tháng 10, 1797-4 tháng 11, 1799
Tiền nhiệmThẩm Sơ
Kế nhiệmLưu Quyền Chi
Binh bộ Hán thượng thư
Nhiệm kỳ
19 tháng 4, 1797-9 tháng 10, 1797
Tiền nhiệmThẩm Sơ
Kế nhiệmKim Sĩ Tùng
Nhiệm kỳ
30 tháng 9, 1795-5 tháng 7, 1796
Tiền nhiệmLưu Nga
Kế nhiệmKỷ Vân
Tổng đốc Lưỡng Quảng
Nhiệm kỳ
1797
Tiền nhiệmTrường Lân
Kế nhiệmCát Khánh
Thông tin cá nhân
Sinh
Ngày sinh
1731
Nơi sinh
huyện Đại Hưng, Bắc Kinh
Mất
Thụy hiệu
Văn Chính
Ngày mất
1806
Giới tínhnam
Gia quyến
Thân phụ
Chu Văn Bính
Phối ngẫu
Trần Dĩnh
Hậu duệ
Chu Tích Vĩ, Chu Tích Ngọc, Chu Tích Kinh, Chu Tích Phất
Học vấnTiến sĩ
Nghề nghiệpchính khách
Quốc tịchnhà Thanh
Thời kỳNhà Thanh
Truy phong
Chức vị
Nơi thờ tự

Chu Khuê (chữ Hán: 朱珪, 1731 - 1806), tự Thạch Quân (石君), quan lại nhà Thanh dưới thời Càn LongGia Khánh.

Tiểu sử[sửa | sửa mã nguồn]

Chu Khuê là con trai của Chu Văn Bính, người huyện Đại Hưng, Bắc Kinh. Ông là nhà chính trị gia, học giả, Đại học sĩ dưới thời Càn Long và Gia Khánh. Ông là một trong các đại thần trong triều đình nhà Thanh dưới thời Càn Long như A Quế, Kỷ Hiểu Lam, Lưu Dung chống lại bè đảng Hòa Thân, Hòa Lâm, Phúc Khang An, Phúc Trường An.

Quan Lộ[sửa | sửa mã nguồn]

Thời Càn Long[sửa | sửa mã nguồn]

Năm Càn Long thứ 13 (1748), ông đỗ tiến sĩ năm 18 tuổi, ban đầu đảm nhậm Thứ cát sĩ, sau trở thành Biên tu, dần thăng tới Thị độc Học sĩ. Năm thứ 25 (1760), ông đảm nhận Phúc Kiến lương dịch đạo, sau đó được cất nhắc làm Án sát sử. Năm thứ 32 (1767), được bổ nhiệm làm Hồ Bắc Án sát sử, sau đó đến Sơn Tây đảm nhậm Bố chính sứ và thay quyền Tuần phủ. Năm thứ 40 (1775), ông được triệu về kinh làm việc bên cạnh Hoàng đế, nhậm Thị giảng Học sĩ, tiến vào Thượng thư phòng, đảm nhận thầy dạy học cho Hoàng thập ngũ tử Vĩnh Diễm. Năm thứ 51 (1786), nhậm Lễ bộ Thị lang, sau điều sang Binh bộ. Năm thứ 55 (1790), nhậm chức Tuần phủ An Huy. Năm thứ 59 (1794), ông được điều làm Tuần phủ Quảng Đông, sau đó nhậm chức Tổng đốc Lưỡng Quảng. 1 năm sau nhậm Tả đô Ngự sử, Binh bộ Thượng thư, nhưng giữ chức Tuần phủ Quảng Đông.

Thời Gia Khánh[sửa | sửa mã nguồn]

Năm Gia Khánh nguyên niên (1796), ông đảm nhận Tổng đốc Lưỡng Quảng, kiêm Tuần phủ Quảng Đông. Năm thứ 2 (1797), ông điều làm Binh bộ Thượng thư, sau đó điều làm Lại bộHộ bộ Thượng thư, nhưng vẫn nhậm chức Tuần phủ. Năm thứ 4 (1799), Thái thượng hoàng Càn Long băng, Gia Khánh triệu Chu Khuê về kinh, trực Nam thư phòng, quản Hộ bộ tam khố, gia hàm Thái tử Thiếu bảo, ban thưởng phủ đệ bên ngoài Tây Hoa môn. Không lâu nhậm làm Thượng thư phòng Tổng sư phó, điều Hộ bộ Thượng thư. Năm thứ 5 (1800), ông kiêm Lại bộ Thượng thư, về sau bị tước chức vị. Năm thứ 7 (1802), nhậm Hiệp bạn Đại học sĩ, khôi phục hàm Thái tử Thiếu bảo. Không lâu sau kiêm nhậm Hàn lâm viện Chưởng viện Học sĩ, phong Thái tử Thiếu phó. Năm thứ 10 (1805), ông được phong làm Nhân các Đại học sĩ, quản lí Công bộ. Chu Khuê ở tuổi 76 thì xin cáo lão hồi hương. Năm thứ 11 (1806), tháng 12 ông lâm bệnh qua đời. Được truy phong làm Thái phó, đưa vào thờ phụng trong Hiền Lương từ, thuỵ Văn Chính.

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]